Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Phẩm 30 Đến Phẩm 31

02/05/201111:10(Xem: 13154)
Từ Phẩm 30 Đến Phẩm 31

KINH TĂNG NHẤTA HÀM
Việtdịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượngThích Thiện Siêu
ViệnNghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 2
XXX.Phẩm Tu Ðà

1.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Ma-kiệt, trong núi Ba-sa, cùng năm trămđại chúng Tỳ-kheo.

Bấygiờ Thế Tôn sáng sớm từ tĩnh thất thức dậy, ra ngoàikinh hành. Khi ấy Sa-di Tu-đà đi kinh hành sau lưng đức ThếTôn. Thế Tôn quay lại bảo Sa-di rằng:

- Nayta muốn hỏi Ông về nghĩa. Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ:

Sa-diTu-đà đáp:

- Xinvâng, bạch Thế Tôn!

ThếTôn bảo:

- Cósắc thường và sắc vô thường, đó là một nghĩa hay nhiềunghĩa?

Sa-diTu-đà bạch Phật:

- Sắcthường và sắc vô thường, nghĩa này nhiều, chẳng phảimột nghĩa. Vì sao thế? Sắc thường là bên trong; sắc vôthường là bên ngoài. Vì thế cho nên có nhiều nghĩa, chẳngphải một.

ThếTôn bảo:

- Lànhthay, lành thay! Tu-đà! Như lời Ông nói. Khéo nói nghĩa này:Sắc thường và sắc vô thường có nhiều nghĩa chẳng phảimột. Thế nào Tu-đà? Nghĩa hữu lậu, nghĩa vô lậu là mộthay nhiều nghĩa?

Sa-diTu-đà đáp:

- Nghĩahữu lậu, nghĩa vô lậu là nhiều, chẳng phải là một nghĩa.Vì sao thế? Nghĩa hữu lậu là kiết sử sanh tử. Nghĩa vôlậu là pháp Niết-bàn. Vì thế cho nên có nhiều nghĩa, chẳngphải một nghĩa.

ThếTôn bảo:

- Lànhthay, lành thay, Tu-đà! Như lời Ông nói. Hữu lậu thì sanhtử, vô lậu thì Niết-bàn.

ThếTôn lại bảo:

- Phạptụ, pháp tán là một nghĩa hay nhiều nghĩa?

Sa-diTu-đà bạch Phật:

- Pháptụ của sắc và pháp tán của sắc, nghĩa này nhiều, chẳngphải một nghĩa. Vì sao thế? Pháp tụ của sắc là thân tứđại. Pháp tán của sắc là khổ tận đế. Vì thế cho nêncó nhiều nghĩa, chẳng phải một nghĩa.

ThếTôn bảo:

- Lànhthay, lành thay, Tu-đà! Như lời ông nói: pháp tụ của sắc,pháp tán của sắc có nhiều nghĩa, chẳng phải một nghĩa.Thế nào Tu-đà? Nghĩa thọ và nghĩa ấm là một hay nhiềunghĩa?

Sa-diTu-đà bạch Phật:

- Thọvà ấm có nhiều nghĩa chẳng phải một nghĩa. Vì sao thế?Thọ thì không hình dáng, chẳng thể thấy. Ấm thì có sắc,có thể thấy. Vì thế cho nên có nhiều nghĩa, chẳng phảimột nghĩa.

ThếTôn bảo:

- Lànhthay, lành thay, Tu-đà! Như lời Ông nói: Nghĩa thọ và nghĩaấm, việc này có nhiều, chẳng phải một nghĩa.

ThếTôn bảo:

- Chữcó, chữ không có nhiều hay là một nghĩa?

Sa-dibạch Phật:

- Chữcó, chữ không có nhiều nghĩa chẳng phải một nghĩa. Vi saothế? Chữ có là sanh kết. Chữ không là Niết-bàn. Vì thếcho nên có nhiều nghĩa, chẳng phải một.

ThếTôn bảo:

- Lànhthay, lành thay, Tu-đà! Như lời ông nói: chữ có là pháp sanhtử, chữ không là pháp Niết-bàn.

ThếTôn bảo:

- Thếnào Tu-đà? Vì sao mà gọi chữ có là sanh tử, chữ không làNiết-bàn?

Sa-dibạch Phật:

- Chữcó là có sanh, có tử, có chung, có thủy. Chữ không là khôngsanh, không tử, không chung, không thủy.

ThếTôn bảo:

- Lànhthay, lành thay, Tu-đà! Như lời Ông nói: chữ có là pháp sanhtử, chữ không là pháp Niết-bàn.

Bấygiờ Thế Tôn nói với Sa-di:

- Khéonói lời này. Nay ta cho Ông làm Ðại Tỳ-kheo.

ThếTôn trở về giảng đường Phổ tập, bảo các Tỳ-kheo:

- NướcMa-kiệt chóng được lợi lành, khiến Sa-di Tu-đà đi đếncảnh giới này. Nếu có người đem y phục, thức ăn uống,giường nằm, thuốc men trị bịnh mà cúng dường thì cũngđược lợi lành, cha mẹ Ông ta cũng được lợi lành vì đãsanh được Tỳ-kheo Tu-đà này. Nếu Tỳ-kheo Tu-đà sanh trongnhà nào, nhà ấy liền được may mắn lớn. Nay Ta báo cho cácTỳ-kheo. Hãy học như Tỳ-kheo Tu-đà. Vì sao thế? Tỳ-kheoTu-đà hết sức thông minh, thuyết pháp không trệ ngại, cũngkhông khiếp nhược. Thế nên, các Tỳ-kheo, hãy học như Tỳ-kheoTu-đà. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở thành La-duyệt, tại vườn trúc Ca-lan-đà cùngnăm trăm đại chúng Tỳ-kheo.

Bấygiờ, Thế Tôn thuyết pháp có vô số chúng vây quanh thì cómột trưởng lão Tỳ-kheo duỗi hân về phía Thế Tôn mà ngủ.Khi ấy, Sa-di Tu-ma-na vừa lên tám tuổi, cách Thế Tôn chẳngxa, ngồi kiết-già buộc niệm ở trước.

ThếTôn xa trông thấy trưởng lão Tỳ-kheo duỗi chân ngủ, lạithấy Sa-di ngồi ngay ngắn tư duy. Thế Tôn thấy rồi liềnnói kệ:

Ðượcgọi là trưởng lão
Chưachắc cạo tóc râu
Tuytuổi tác lại lớn
Chẳngthoát khỏi hạnh ngu
Nếucó thấy pháp thật
Vôhại đối quần manh
Bỏcác hạnh uế ác
Ðâygọi là trưởng lão.
Chưahẳn xuất gia trước
Tugốc nghiệp lành này
Phânbiệt ở chánh hạnh.
Nếucó người tuổi nhỏ
Cáccăn không thiếu sót
Ðâygọi là trưởng lão
Phânbiệt chánh pháp hành.

Bấygiờ Thế Tôn hỏi các Tỳ-kheo:

- CácThầy có thấy trưởng lão này duỗi chân mà ngủ chăng?

CácTỳ-kheo thưa:

- Ðúngvậy, bạch Thế Tôn! Chúng con đều thấy.

ThếTôn dạy:

- Trưởnglão Tỳ-kheo này trong năm trăm đời hằng làm thân rồng. Naynếu mạng chung sẽ sanh trong loài rồng. Vì sao thế? Vì khôngcó tâm cung kính đối với Phật, Pháp, Tăng. Nếu có chúngsanh không có tâm cung kính đối với Phật, Pháp, Tăng, lúcthân hoại mạng chung đều sẽ sanh trong loài Rồng. Các Thầycó thấy Sa-di Tu-ma-na mới tám tuổi, cách Ta chẳng xa, ngồingay ngắn tư duy chăng?

CácTỳ-kheo thưa:

- Ðúngvậy, bạch Thế Tôn!

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Sa-dinày sau bảy ngày sẽ được Bốn thần túc, và được phápTứ đế, tự tại ở Tứ thiền, khéo tu Tứ ý đoạn. Vìsao thế? Sa-di Tu-ma-na có tâm cung kính đối với Phật, Pháp,Tăng. Thế nên, các Tỳ-kheo! Hãy siêng năng cung kính Phật,Pháp, Tăng thêm. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ, Thế Tôn cùng đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm nămmươi người. Khi ấy Trưởng giả Cấp Cô Ðộc nhiều tiềnlắm của, vàng bạc, trân bảo, xa cừ, mã não, trân châu,hổ phách, thủy tinh, lưu ly, voi, ngựa, trâu, dê, nô tỳ, đầytớ chẳng thể tính kể.

Trongthành Mãn Phú có Trưởng giả tên Mãn Tài cũng nhiều tiềnlắm của, xa cừ, mã não, trân châu, hổ phách, thủy tinh,lưu ly, voi, ngựa, trâu, dê, nô tỳ, tôi tớ chẳng thể kểlường. Ông lại là bạn cũ từ thời tuổi trẻ của Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc, hai người rất thương mến nhau chưa hềquên. Trưởng giả Cấp Cô Ðộc hằng có mấy ngàn vạn trânbảo, tài sản mua bán trong thành mãn Phú kia để Trưởng giảMãn Tài coi sóc gìn giữ. Và Trưởng giả Mãn Tài cũng cómấy ngàn vạn trân bảo tài sản mua bán ở thành Xá-vệ nhờTrưởng giả Cấp Cô Ðộc coi sóc giữ gìn.

Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc có cô con gái tên Tu-ma-đề, nhan sắc mạođoan chánh như màu hoa đào, thế gian hiếm có. Bấy giờ Trưởnggiả Mãn Tài có chút việc đến thành Xá-vệ, tới nhà Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc; đến rồi ngồi tại tòa. Cô Tu-ma-đềtừ trong phòng riêng bước ra lễ bái cha mẹ trước, sau lễbái Trưởng giả Mãn Tài rồi trở về phòng.

Trưởnggiả Mãn Tài thấy cô Tu-ma-đề nhan mạo đoan chánh như màuhoa đào, thế gian hiếm có, liền hỏi Trưởng giả Cấp Còộc:

- Ðâylà con gái nhà ai?

CấpCô Ðộc đáp:

- Vừarồi là con gái tôi.

Trưởnggiả Mãn tài nói:

- Tôicó con trai chưa cưới vợ. Có thể làm thông gia được chăng?

Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc bảo;

- Việcnày không nên!

Trưởnggiả Mãn tài nói:

- Vìnhững gì mà việc đó không nên? Vì dòng họ hay vì tài sản?

Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc đáp:

- Dònghọ và tài sản đều tương xứng. Nhưng việc thờ thần,cúng tế thì khác với tôi. Con gái tôi thờ Phật, đệ tửThích-ca. Còn bên ông thờ ngoại đạo dị học. Vì thế, nênkhông theo ý ông được.

Trưởnggiả Mãn Tài nói:

- Mỗibên chúng ta sẽ thờ phượng, cúng tế riêng. Cô gái này sẽphụng sự riêng, tự mình cúng dường.

Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc nói:

- Congái tôi nếu làm dâu nhà Ông thì tài bảo bỏ ra không thểtính kể. Và Trưởng giả cũng sẽ bỏ ra tài bảo không thểtính kể.

Trưởnggiả Mãn Tài nói:

- NayÔng đòi bao nhiêu tài bảo?

Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc nói:

- Naytôi cần sáu vạn lượng vàng.

Trưởnggiả liền đưa sáu vạn lượng vàng. Trưởng giả Cấp Còộc lại nghĩ: 'Ta dùng phương tiện từ khước trước màvẫn chẳng khiến ông ta dừng được'. Ông bảo Trưởng giảkia rằng:

- Nếutôi gả con gái, cần phải đến hỏi Phật. Nếu Thế Tôncó dạy bảo gì sẽ vâng làm.

Bấygiờ Trưởng giả Cấp Cô Ðộc xếp đặt sự việc như mộtchuyến đi nhỏ, ra khỏi cửa đến chỗ Thế Tôn, cúi lạyrồi đứng một bên. Trưởng giả Cấp Cô Ðộc bạch ThếTôn:

- Congái con là Tu-ma-đề được Trưởng giả Mãn Tài trong thànhMãn Phú cầu hôn. Con nên gả hay không nên gả?

ThếTôn bảo:

- Nếugả Tu-ma-đề sang nước đó, sẽ có nhiều lợi ích, độthoát nhân dân không thể đo lường.

Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc lại nghĩ: 'Thế Tôn dùng trí phương tiệnbảo ta nên gả qua nước kia'. Trưởng giả cúi lạy, nhiễuPhật ba vòng rồi lui đi.

Ôngtrở về nhà bày biện các món ăn ngon ngọt cho Trưởng giảMãn tài. Trưởng giả Mãn Tài nói:

- Tôidùng thức ăn này làm gì? Ông có gả con gái cho con tôi không?

CấpCô Ðộc nói:

- Ýtôi muốn thế! Ông có thể đem nó theo! Mười lăm ngày sauông đưa con trai đến đây!

Ôngnói xong liền lui đi.

Trưởnggiả Mãn tài sắm đủ món cần, cỡi xe vũ bảo, từ trongtám mươi do-diên đi đến. Trưởng giả Cấp Cô Ðộc lạisửa soạn cho con gái mình tắm rửa, xông hương. Rồi ôngcỡi xe vũ bảo đưa con gái đến đón con trai Trưởng giảMãn Tài. Giữa đường gặp nhau, Trưởng giả Mãn Tài đượccô gái, liền đem về thành Mãn Phú.

Nhândân nơi này có ra điều lệ: Nếu trong thành có người đemcon gái gả cho người nước khác sẽ bị trọng phạt. Nếungười lại đi nước khác cưới vợ đem về nước cũng bịtrọng phạt. Bấy giờ nước ấy có sáu ngàn Phạm chí. Dântrong nước đều tuân theo điều lệ. Có luật rằng: Nếuai phạm điều lệ, sẽ đãi cơm cho sáu ngàn Phạm chí.

Trưởnggiả Mãn Tài tự biết mình vi phạm điều lệ, liền dọnăn cho sáu ngàn Phạm chí. Thức ăn của Phạm chí là thịtheo và canh thịt heo, thêm rượu ngon. Và Phạm chí mặc y phụchoặc mặc dạ trắng hoặc đáp y lông thú. Nhưng cách củaPhạm chí lúc vào nước, lấy y vắt lệch lên vai phải, đểlộ nửa người. Bấy giờ, Trưởng giả bạch:

- Ðãđến giờ! Thức ăn uống đã đủ.

Sáungàn Phạm chí đều đắp lệch y áo, lộ nửa người, đivào nhà Trưởng giả. Trưởng giả thấy Phạm chí tới, ôngquỳ gối lết đến trước tiếp đón, cung kính làm lễ. Phạmchí lớn nhất giơ tay lên khen lành, ôm cổ Trưởng giả, điđến tòa ngồi. Các Phạm chí khác cũng tùy theo thứ lớpmà ngồi. Bấy giờ, sáu ngàn Phạm chí ngồi xong, định ănthì Trưởng giả bảo cô Tu-ma-đề rằng:

- Consửa soạn rồi đến làm lễ thầy của chúng ta!

CôTu-ma-đề đáp:

- Thôi,thôi! Thưa cha! Con không thể làm lễ những người khỏa thânđược.

Trưởnggiả nói:

- Ðâykhông phải người khỏa thân. Không có gì phải hổ thẹn.Pháp phục của họ đáp lối ấy!

CôTu-ma-đề nói:

- Ðâylà người không biết hổ thẹn, cùng bày thân thể ra ngoài,có dùng pháp phục gì đâu? Mong Trưởng giả nghe con: ThếTôn cũng nói có hai nhân duyên mà người đời quý. Nghĩa làcó hổ, có thẹn. Nếu không có hai việc này thì cha mẹ, anhem, dòng họ, thân tộc, tôn ti cao thấp không thể phân biệt.Như này loài gà, chó, heo, dê, lừa, ngựa đều cùng loạikhông có tôn ti. Do có hai pháp này ở đời nên ắt biết cótôn ti sai khác. Nhưng những người này lìa hai pháp ấy, giốngnhư cùng bầy với gà, chó, heo, dê, lừa, ngựa. Thật khôngthể lễ bái họ được.

ChồngTu-ma-đề bảo vợ:

- Naycô nên đứng dậy làm lễ thầy chúng ta. Các vị này đềulà Trời mà tôi phụng sự.

CôTu-ma-đề đáp:

- Hãydừng, công tử! Tôi không thể lễ bái những người khỏathân không biết xấu hổ. Nay tôi là người mà làm lễ lừa,chó!

Ngườichồng lại nói:

- Nín,nín! Quý nương! Chớ nói thế! Hãy giữ miệng, chớ lỡ lời!Ðây chẳng phải lừa, cũng chẳng phải dối gạt. Những yđắp chính là pháp phục.

Bấygiờ cô Tu-ma-đề rơi lệ khóc vùi, nhan sắc biến đổi, nói:

- Thàbà con, cha mẹ của tôi mất mạng, thân chặt làm năm. Tôitrọn không rơi vào nhà tà kiến.

Sáungàn Phạm chí đồng lớn tiếng nói:

- Thôi,thôi, Trưởng giả! Vì sao để đứa tiện tỳ này chửi mắngnhư thế? Nếu thỉnh mời thì dọn bưng thức ăn uống đi!

Trưởnggiả và chồng Tu-ma-đề liền bày thịt heo, canh thịt và rượunồng mời sáu ngàn Phạm chí ăn rất đầy đủ. Các Phạmchí ăn xong, nghị luận chút đỉnh rồi đứng lên đi.

Trưởnggiả Mãn Tài lên lầu cao, phiền oán sầu não, ngồi riêngsuy nghĩ:

- Nayta đem cô gái này về, thật là đồ phá nhà. Chẳng khác nàolàm nhục nhà cửa mình!

Bấygiờ, có Phạm chí tên Tu-bạt đã đắc ngũ thông, và đắccác thiền. Trưởng giả Mãn tài rất quý trọng ông. Phạmchí Tu-bạt nghĩ: 'Ta với Trưởng giả xa cách đã lâu ngày,nay nên đến thăm'. Phạm chí liền vào thành Mãn Phú, đếnnhà Trưởng giả, hỏi người gác cửa:

- Trưởnggiả đang ở đâu?

Ngườigác cửa đáp:

- Trưởnggiả ở trên lâu, sầu lo hết sức, không nói nổi.

Phạmchí đi thẳng lên lầu gặp Trưởng giả. Phạm chí hỏi Trưởnggiả:

- Saomà sầu lo đến thế? Không lẽ bị huyện quan, trộm cướp,tai biến nước, lửa xâm phạm chăng? Lại, không lẽ trongnhà không được hòa thuận?

Trưởnggiả đáp:

- Khôngcó tai biến, huyện quan, giặc cướp. Nhưng trong nhà có việckhông vừa lòng.

Phạmchí hỏi:

- Chonghe tình trạng xem có chuyện gì?

Trưởnggiả đáp:

- Hômqua tôi cưới vợ cho con trai, lại phạm phép nước, thân tộcbị nhục. Tôi mời các thầy đến nhà, đưa vợ của con traiđến lễ bái mà nó không vâng lời.

Phạmchí Tu-bạt nói:

- Nhàcô gái ở nước nào? Cưới hỏi xa gần?

Trưởnggiả nói:

- Cônày là con gái Trưởng giả Cấp Cô Ðộc trong thành Xá-vệ.

Phạmchí Tu-bạt nghe xong, kinh ngạc lạ lùng, hai tay bịt tai nói:

- Ôichao! Trưởng giả! Rất đặc biệt, rất lạ lùng! Cô gáinày còn có thể sống mà không tự sát, không gieo mình xuốnglầu thì thật là may mắn. Vì sao thế? Thầy mà cô gái nàyphụng sự đều là người Phạm hạnh. Hôm nay cô còn sống,rất là lạ lùng!

Trưởnggiả nói:

- Tôinghe Ngài nói lại muốn phì cười. Vì sao thế? Ngài là ngoạiđạo dị học, tại sao lại khen ngợi hạnh của Sa-môn dònghọ Thích? Thầy mà cô gái này thờ có oai đức gì? Có thầnbiến gì?

Phạmchí đáp:

- Trưởnggiả! Ông muốn nghe thần đức của thầy cô gái này chăng?Nay tôi sẽ kể sơ nguồn gốc này.

Trưởnggiả nói:

- Mongđược nghe nói.

Phạmchí bảo:

- Ngàytrước, tôi đến phía Bắc Tuyết Sơn, đi khất thực trongnhân gian, được thức ăn xong bay đến bên suối A-nậu-đạt.Trời, Rồng, quỷ thần ở đó, xa thấy tôi đến đều cầmđao kiếm lại, bảo tôi:

- Ôngtiên Tu-đạt! Chớ đến suối này! Chớ làm dơ bẩn suối.Nếu không theo lời ta, thì chính tính mạng ông sẽ bị cắtđứt.

Tôinghe nói thế, bèn lìa khỏi suối đó không xa mà ăn. Trưởnggiả nên biết! Thầy mà cô gái này thờ có đệ tử nhỏnhứt là Sa-di Quân-đầu. Vị Sa-di này cũng đến phía BắcTuyết Sơn, khất thực trong nhân gian, bay đến suối A-nậu-đạt,tay cầm áo lấm lem máu bẩn của người chết trong gò mả.Khi ấy, đại thần ở suối A-nậu-đạt, Trời, Rồng, quỷthần đều đứng lên, tiến đến nghinh tiếp, cung kính thămhỏi:

- Kínhchào thầy của loài người! Mời Ngài đến đây ngồi!

Sa-diQuân-đầu đến suối nước. Lại nữa, này Trưởng giả!Ngay giữa suối nước có cái bàn bằng vàng ròng. Bấy giờSa-di đem cái y của người chết ngâm trong nước, sau mớingồi ăn. Ăn xong rửa bát, ngồi kiết-già trên bàn vàng, chínhthâm chính ý, cột niệm ở trước rồi nhập Sơ thiền; từSơ thiền dậy, vị ấy nhập Nhị thiền, từ Nhị thiền dậy,nhập Tam thiền; từ Tam thiền dậy, nhập Tứ thiền; từ Tứthiền dậy, nhập Không xứ; từ Không xứ dậy, nhập Thứcxứ; từ Thức xứ dậy, nhập Bất dụng xứ; từ Bất dụngxứ dậy, nhập Hữu tưởng vô tưởng xứ; từ Hữu tưởngvô tưởng xứ dậy, nhập Diễm quang tam-muội; từ Diễm quangtam-muội dậy, nhập Thủy khí tam-muội; từ Thủy khí tam-muộidậy, nhập Diễm quang tam-muội, kế lại nhập Diện tận tam-muội,lần nữa nhập Diện tận tam-muội; kế lại nhập Hữu tưởngvô tưởng tam-muội; kế lại nhập Bất dụng xứ tam-muội;kế lại nhập Thức xứ tam-muội; kế lại nhập Tứ thiền;kế lại nhập Tam thiền; kế lại nhập Nhị thiền; kế lạinhập Sơ thiền; từ Sơ thiền dậy mà giặt y người chết.Bấy giờ Trời, rồng, quỷ thần hoặc giúp vò y, hoặc lấynước giặt, hoặc lấy nước uống. Vị ấy giặt xong đemlên trên không phơi.

XongSa-di ấy thu xếp y, bay lên không trung trở về chỗ mình. Trưởnggiả nên biết! Bấy giờ, tôi thấy từ xa không đến gầnđược. Thầy cô gái này thờ, đệ tử nhỏ nhất có thầnlực này, huống nữa đệ tử lớn nhất, có ai bì kịp? Hàhuống vị thầy kia là Như Lai Chánh Chân Đẳng Chánh Giácmà bì kịp sao? Xét nghĩa này xong, tôi mới nói: 'Hết sứclạ lùng! Cô gái này có thể không tự sát, không cắt đứttánh mạng'.

Bấygiờ, Trưởng giả bảo Phạm chí:

- Chúngta có thể thấy thầy của cô gái này chăng?

Phạmchí đáp:

- Hãyhỏi lại cô gái!

Trưởnggiả bèn hỏi Tu-ma-đề:

- Nayta muốn gặp thầy mà con thờ. Con có thể mời đến chăng?

Côgái nghe xong mừng rỡ không kềm được, nói:

- Xinbày biện thức ăn uống. Ngày mai Như Lai sẽ đến đây vớiTỳ-kheo tăng.

Trưởnggiả bảo:

- Naycon tự thỉnh, ta không biết cách.

Bấygiờ con gái Trưởng giả tắm rửa thân thể, tay bưng lò hươnglên trên lầu, chắp tay hướng về phía Như Lai nói:

- Cúimong Thế Tôn hãy khéo quán sát. Bậc 'Vô kiến danh tướng'!Thế Tôn không việc gì chẳng biết, không việc gì chẳngxét! Nay con ở chỗ nguy khốn này, cúi mong Thế Tôn hãy khéoquán sát!

Rồicô dùng kệ này tán thán:

Xemđời khắp tất cả
Chỗmắt Phật soi xét
Hàngquỷ, các vua thần
Vàhàng quỷ tử mẫu.
Nhưquỷ ăn người kia
Lấytay người làm tràng
Saulại muốn hại mẹ
NhưngPhật hàng phục được
Lạiở thành La-duyệt
Voidữ muốn đến hại,
Thấynhư tự quy mạng,
ChưThiên khen: Lành thay!
Lạiđến nước Mã-đề
Lạigặp vua rồng ác
Thấylực sĩ Mật-tích
Màrồng tự quy mạng,
Cácbiến không thể kể
Ðềukhiến lập chánh đạo
Naycon lại gặp nguy
Cúimong Phật rũ lòng
Bấygiờ hương như mây
Giăngở trong hư không
Biếnmãn Kỳ-hoàn xá
Trụở trước Như Lai
Chưthiên ở không trung
Hoanhỉ làm lễ Phật
Lạithấy hương ở trước
Tu-ma-đềthỉnh cầu
Mưabao nhiêu loại hoa
Màkhông thể kể lường
Thảyđầy rừng Kỳ-hoàn
NhưLai cười phóng quang.

Bấygiờ Tôn giả A-nan thấy trong tinh xá Kỳ-hoàn có mùi hươngkỳ diệu này. Thấy xong đến chỗ Thế Tôn, cúi lạy rồiđứng một bên. Tôn giả A-nan bạch Thế Tôn:

- Cúimong Thế Tôn! Ðây là loại hương gì mà đầy khắp tinh xáKỳ-hoàn?

ThếTôn bảo:

- Hươngnày là sứ gỉa đem lời thỉnh của cô Tu-ma-đề trong thànhMãn Phú. Nay Thầy gọi các Tỳ-kheo tụ tập về một chỗ,phát thẻ đưa các sắc này: 'Các Tỳ-kheo là bậc A-la-hánlậu tận, được thần túc, hãy lấy thẻ (xá-la), ngày maiđến thành Mãn Phú thọ thỉnh Tu-ma-đề'.

Tôngiả A-nan bạch Phật:

- Xinvâng, Thế Tôn!

Tôngiả A-nan nhận lời Phật dạy, tập họp các Tỳ-kheo tạigiảng đường Phổ Hội, nói:

- Cácvị A-la-hán đắc đạo hãy lấy thẻ, ngày mai đến thọ thỉnhcủa Tu-ma-đề.

Ngaylúc ấy, một Thượng tọa trong chúng Tăng tên Quân-đầu Ba-hánđắc quả Tu-đà-hoàn kiết sử chưa hết, chẳng được thầntúc. Thượng tọa này nghĩ: 'Nay ta là Thượng tọa cao nhấttrong đại chúng, mà kiết sử chưa dứt, chưa được thầntúc. Sáng mai, ta chẳng được đến thành Mãn Phú thọ thỉnh,mà vị Hạ tọa nhỏ nhất tên Sa-di Quân-đầu, người nàycó thần túc, có đại oai lực, được đến nơi đó thọthỉnh, nay ta cũng sẽ đến đó thọ thỉnh'.

Bấygiờ Thượng tọa dùng tâm thanh tịnh ở tại địa vị hữuhọc mà nhận thẻ. Thế Tôn dùng thiên nhãn thanh tịnh thấyQuân-đầu Ba-hán ở tại địa vị hữu học mà nhận thẻvà đắc vô học. Thế Tôn liền bảo các Tỳ-kheo:

- Trongđệ tử của Ta, người nhận thẻ bậc nhất là Tỳ-kheo Quân-đầuBa-hán.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo có thần túc; Ðại Mục-kiền-liên,Ðại Ca-diếp, A-na-luật, Ly-việt, Tu-bồ đề, Ưu-tỳ-Ca-diếp,Ma-ha Ca-thất-na, Tôn giả La-vân, Châu-lợi-bàn-đặc, Sa-diQuân-đầu.

- CácThầy dùng thần túc đến thành kia trước!

CácTỳ-kheo đáp:

- Xinvâng, bạch Thế Tôn!

Lúcấy, người cận sự của chúng Tăng tên Càn-trà, sáng sớmhôm sau tự vác một chảo to, bay lên không trung đến thànhkia. Trưởng giả nọ cùng dân chúng lên trên lầu cao muốnxem Thế Tôn, họ xa thấy vị cận sự này vác chảo to điđến. Trưởng giả bèn nói kệ với cô gái:

Cưsĩ mà tóc dài,
Hiệnthân như gió giật,
Lạivác chảo lớn nữa,
Ðâylà thầy con chăng?

Côdùng kệ đáp:

Ðâykhông, đệ tử Phật,
Làngười hầu Như Lai
Bađường đủ ngũ thông,
Ngườinày tên Càn-trà.

Cậnsự Càn-trà, đi vòng quanh ba vòng rồi đến nhà Trưởng giả.

Sa-diQuân-đầu hóa làm năm trăm cây hoa nhiều màu sắc, thảy đềunở tươi, hoa sen Ưu-bát màu rất đẹp. Hoa như thế khôngthể đem hết đến thành kia. Trưởng giả thấy Sa-di, lạidùng kệ hỏi:

Hoanày bao nhiêu loại,
Ðềuở tại hư không,
Lạicó vị thần túc,
Phảilà thầy con không?

Côdùng kệ đáp:

Tu-bạttrước có nói,
NgườiSa-di trên hồ,
Thầylà Xá-lợi-phất,
Làđệ tử của Ngài.

Sa-diQuân-đầu, đi vòng quanh thành ba vòng rồi đến nhà Trưởnggiả.

Tôngiả Bàn-đặc hóa ra năm trăm con trâu lông xanh, y xanh ngồikiết già trên lưng trâu, đến thành ấy. Trưởng giả thấy,dùng kệ hỏi cô:

Cácbầy trâu lớn này,
Áolông đều màu xanh,
Ởtrên ngồi một mình,
Ðâylà thầy con chăng?

Côdùng kệ đáp:

Hayhóa ngàn Tỳ-kheo,
Ởtrong vườn Kỳ-vực
Tâmthần cực kỳ sáng
ÐâyTôn giả Bàn-đặc.

Tôngiả Bàn-đặc đi vòng quanh thành ba vòng rồi đến nhà Trưởnggiả.

La-vânlại hóa làm năm trăm khổng tước, đủ màu sắc, ngồi kiết-giàở trên, bay đến thành ấy. Trưởng giả trông thấy, dùngkệ hỏi cô:

Nămtrăm khổng tước này,
Màusắc rất đẹp đẽ,
Nhưđại tướng quân kia,
Ðâylà thầy con chăng?

Côlại dùng kệ đáp:

NhưLai thuyết cấm giới,
Tấtcả không trái phạm,
Ðốigiới, hay hộ giới,
La-vân,con của Phật.

La-vânđi vòng quanh thành ba vòng rồi đến nhà Trưởng giả.

Tôngiả Ca-thất-na hóa làm năm trăm chim cánh vàng, hết sức dũngmãnh, ngồi kiết-già ở trên, đến thành ấy. Trưởng giảxa thấy, dùng kệ hỏi cô:

Nămtrăm chim cánh vàng,
Thậtlà đầy dũng mãnh,
Ởtrên không sợ hãi,
Ðâylà thầy con chăng?

Côdùng kệ đáp:

Hayhành thở ra vào,
Xoaychuyển tâm hành thiện,
Sứchuệ rất dũng mãnh,
Ðâytên Ca-thất-na.

Tôngiả Ca-thất-na vòng quanh thành ba vòng rồi đến nhà Trưởnggiả.

Ưu-tỳCa-diếp hóa ra năm trăm rồng đều có bảy đầu, ngồi kiết-giàở trên, đến thành ấy. Trưởng giả xa thấy, dùng kệ hỏicô:

Nayrồng bảy đầu này,
Hìnhtướng rất đáng sợ,
Ngườiđến không thể kể
Ðâylà thầy con chăng?

Côđáp:

Hằngcó ngàn đệ tử
Thầntúc hóa Tỳ-sa
VịƯu-tỳ Ca-diếp
Cóthể nói người này.

Ưu-tỳCa-diếp đi quanh thành ba vòng rồi đến nhà Trưởng giả.

Tôngiả Tu-bồ-đề hóa ra núi lưu ly rồi vào trong ngồi kiết-già,đến thành ấy. Trưởng giả xa thấy, dùng kệ hỏi cô:

Núinày thật là đẹp,
Toànbằng màu lưu ly,
Nayngồi ở trong hang,
Ðâyphải thầy con chăng?

Côlại dùng kệ đáp:

Doquả báo bố thí
Nayđược công đức này,
Ðãthành ruộng phước tốt,
Giảikhông, Tu-bồ-đề.

Tu-bồ-đềvòng quanh thành ba vòng rồi đến nhà Trưởng giả.

Tôngiả Ca-chiên-diên lại hóa ra năm trăm ngỗng thuần màu trắng,đến thành ấy. Trưởng giả xa thấy dùng kệ hỏi cô:

Naynăm trăm ngỗng này,
Cácmàu đều trắng tinh,
Ðầyhết trong hư không,
Ðâylà thầy con chăng?

Côlại dùng kệ đáp:

KinhPhật được tuyên thuyết,
Phânbiệt câu nghĩa này,
Lạigiảng nhóm kiết sử,
Ðâylà Ca-chiên-diên.

Tôngiả Ðại Ca-chiên-diên vòng quanh thành ba vòng rồi đến nhàTrưởng giả.

Ly-việthóa ra năm trăm cọp ngồi trên, đến thành ấy. Trưởng giảtrông thấy, dùng kệ hỏi cô:

Naynăm trăm cọp này.
Lôngphủ rất mượt mà,
Lạingười ngồi ở trên,
Cóphải thầy con không?

Côdùng kệ đáp:

Xưaở tại Kỳ-hoàn,
Sáunăm không di động,
Ngồithiền tối đệ nhất,
Ðâytên là Ly-việt (Ly-bà-đa)
Tôngiả Ly-việt vòng quanh thành ba vòng rồi đến nhà Trưởnggiả.

Tôngiả A-na-luật hóa ra năm trăm sư tử, rất là dõng mãnh, ngồiở trên, đến thành ấy. Trưởng giả trông thấy, dùng kệhỏi cô:

Nămtrăm sư tử này,
Dũngmãnh rất đáng sợ,
Ngườingồi ở trên chúng,
Phảilà thầy con chăng?

Côdùng kệ đáp:

Lúcsanh trời đất động,
Trânbảo ra đầy đất,
Mắtthanh tịnh vô cấu,
A-na-luật,em Phật.

NgàiA-na-luật vòng quanh ba vòng rồi đến nhà Trưởng giả.

Tôngiả Ðại Ca-diếp hóa ra năm trăm con ngựa lông đuôi đềuđỏ, trang điểm vàng bạc rồi ngồi trên và mưa hoa trờimà đến thành ấy. Trưởng giả xa thấy dùng kệ hỏi cô:

Ngựavàng, lông đuôi đỏ,
Sốchúng có năm trăm,
Ðólà Chuyển luân vương,
Phảilà thầy con chăng?

Côgái dùng kệ đáp:

Hạnhđầu đà đệ nhất,
Hằngan ủi bần cùng,
NhưLai chia nửa tòa,
LàCa-diếp tối đại.

Ngàèại Ca-diếp vòng quanh thành ba vòng rồi đến nhà Trưởnggiả.

Tôngiả Ðại Mục-kiền-liên hóa ra năm trăm voi trắng đều cósáu ngà, bảy chỗ bằng phẳng trang sức vàng bạc, ngồi ởtrên, rồi lại phóng ánh sáng lớn đầy khắp thế giới,đến trên hư không của thành kia, xướng kỹ nhạc vô kể,mưa các thứ tạp hoa, lại treo phướn lọng trong hư khôngrất kỳ diệu. Trưởng giả xa thấy, dùng kệ hỏi cô:

Voitrắng có sáu ngà
Ngồitrên như Thiên vương,
Naynghe tiếng kỹ nhạc,
PhảiThích-ca-văn không?

Côdùng kệ đáp:

Trênnúi lớn nơi kia,
Hàngphục Rồng Nan-đà,
Bậcthần túc đệ nhất,
Bậcthần túc đệ nhất,
Tênlà Mục-kiền-liên.
Thầycon vẫn chưa đến,
Ðâylà chúng đệ tử,
NayThánh sư sẽ đến,
Quangminh chiếu khắp nơi.

Tôngiả Ðại Mục-kiền-liên vòng quanh thành ba vòng rồi đếnnhà Trưởng giả.

Lúcnày, Thế Tôn biết đã đến giớ đắp tăng-già-lê đi trênhư không cách đất bảy nhẫn. Tôn giả A-nhã-câu-lân ở bênphải Như Lai, Tôn giả Xá-lợi-phất ở bên trái Như Lai. Bấygiờ, Tôn giả A-nan nương oai thần của Phật ở sau Như Laitay cầm phất trần. Một ngàn hai trăm đệ tử vây quanh trướcsau. Như Lai ở ngay chính giữa và các đệ tử có thần túc:A-nhã-câu-lân hóa làm Nguyệt Thiên Tử. Xá-lợi-phất hóalàm Nhật Thiên Tử. Các Tỳ-kheo có thần túc khác, ngườithì hóa làm Thích-đề-hoàn-nhân, người hóa làm Phạm Thiên.Có người hóa làm Ðề-đầu-lợi-tra, Tỳ-lưu-lặc, Tỳ-lưu-bác-xoa,hoặc là Tỳ-sa-môn, lãnh đạo các quỷ thần, hoặc làm Chuyển-luânThánh-vương, hoặc nhập Hỏa quang tam-muội, hoặc nhập Thủytinh tam-muội, hoặc có người phóng quang, có người phun khói,làm các thứ thần túc. Phạm thiên vương ở bên phải NhưLai. Thích-đề-hoàn-nhân ở bên trai Như Lai, tay cầm phấttử. Lực sĩ Kim Cang Mật Tích ở sau Như Lai, tay cầm chàyKim cang. Tỳ-sa-môn Thiên vương tay cầm lọng bảy báu ở tronghư không phía trên Như Lai, sợ có bụi bặm bám thân Như Lai.Bàn-giá-tuần tay cầm đàn Lưu ly tán thán công đức Phậtvà các thiên thần đều ở trên hư không xướng kỹ nhạcngàn vạn thứ. Các thứ hoa trời mưa rải trên Như Lai.

Bấygiờ Ba-tư-nặc, Trưởng giả Cấp Cô Ðộc và nhân dân trongthành Xá-vệ đều thấy Như Lai ở trong hư không cách đấtbảy nhẫn, thấy xong đều mừng rỡ không kềm được. Trưởnggiả Cấp Cô Ðộc liền nói kệ:

NhưLai thật thần diệu,
Thươngdân như con đỏ,
Haythay! Tu-ma-đề,
Sẽnhận pháp Như Lai.

VuaBa-tư-nặc và Trưởng giả Cấp Cô Ðộc rải các thứ danhhương, các thứ hoa.

Lúcnày Thế Tôn đem các chúng Tỳ-kheo vây quanh trước sau vàcác trời thần vô kể, như phượng hoàng ở trong hư khôngđi đến thành kia.

Bàn-giá-tuầndùng kệ tán Phật:
Cácsanh kết dứt hẳn,
Ýniệm chẳng lầm lẫn,
Vìkhông trần cấu ngại,
Vàođất nước cũ kia.
Támtánh rất thanh tịnh,
Dứttà ma ác niệm,
Côngđức như biển lớn,
Nayvào đất nước kia.
Nhansắc rất thù đặc,
Cácsử trọn chẳng khởi,
Vìkia không tự xử,
Nayvào đất nước ấy.
Ðểđộ bốn bộ chúng,
Thoátkhỏi sanh, già, chết.
Ðểdứt gốc các hữu
Nayvào đất nước ấy.

Bấygiờ, Trưởng giả Mãn Tài xa thấy Thế Tôn từ xa đến, cáccăn đạm bạc, thế gian hiếm có, sạch như thiên kim, có bamươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân.Ngài như núi Tu-di vượt cao hơn các núi, cũng như một khốivàng phóng ánh sáng lớn. Trưởng giả dùng kệ hỏi cô Tu-ma-đề:

Ðâylà ánh trời chăng?
Chưahề thấy vẻ này,
Mấyngàn vạn ức tia,
Chưadám nhìn chăm chú!

Bấygiờ cô Tu-ma-đề quỳ xuống, chắp tay hướng về Như Lai,dùng kệ đáp Trưởng giả:

ChẳngTrời, không chẳng Trời,
Màphóng ngàn thứ sáng,
Vìtất cả chúng sanh,
Cũnglại là thầy con.
Ðềucùng khen Như Lai,
Nhưtrước đã có nói,
Naysẽ được quả lớn,
Cầnsiêng cúng dường Ngài.

Trưởnggiả Mãn Tài gối phải chấm đất, lại dùng kệ khen NhưLai:

Tựquy đấng mười lực,
Viênquang thể sắc vàng,
Ðượctrời người khen kính,
Hômnay tự quy mạng.
NayNgài là Nhật vương,
Nhưtrăng sáng giữa sao,
Ðãđộ người chẳng độ,
Hômnay tự quy mạng.
Ngàinhư tượng Thiên đế,
NhưPhạm hạnh từ tâm,
Tựthoát, thoát chúng sanh.
Hômnay tự quy mạng.
Tônquý trong trời người,
Vuatrên các quỷ thần,
Hàngphục các ngoại đạo,
Hômnay tự quy mạng.

CôTu-ma-đề quỳ dài, chắp tay tán thán Thế Tôn:

Tựhàng, hay hàng người,
Tựchính, hay chính người,
Ðãđộ, độ nhân dân,
Ðãgiải, lại thoát người.
Ðộcấu, khiến độ cấu,
Tựchiếu, chiếu quần manh,
Khôngai không được độ,
Trừđấy, không đấu tụng.
Rấttự trong sạch trụ,
Tâmý không khuynh động,
Mườilực thương xót đời,
Lạitự đảnh lễ kính.

Ngàicó tâm từ bi hỉ xả, đầy đủ không, vô tướng, vô nguyện.Ở trong cõi dục, Ngài là bậc tôn trọng bậc nhất. Ngàicao nhất trong trời, thất tài đầy đủ. Các thiên nhân, tựnhiên, phạm sanh cũng không ai bằng, cũng không thể giốnghình mạo. Nay con tự quy mạng.

Bấygiờ, sáu ngàn Phạm chí thấy Thế Tôn tạo các thần biếnnhư thế, mỗi người bảo nhau: 'Chúng ta nên rời nước nàyđi đến nước khác. Sa-môn Ca-diếp này đã hàng phục nhândân trong nước'. Sáu ngàn Phạm chí liền ra khỏi nước, khôngtrở về nữa. Ví như sư tử vua loài thú ra khỏi hang núi,xem xét bốn phương, lại rống lên ba tiếng mới đi tìm mồi.Các loài thú vật đều bỏ chạy, chẳng biết gì cả, baymất, nép phục. Nếu lại có voi có sức thần, nghe tiếngsư tử cũng bỏ chạy không thể yên ổn. Vì sao thế? Vì sưtử vua loài thú rất có oai thần. Ðây cũng như thế! Sáungàn Phạm chí nghe tiếng tăm của Thế Tôn phải bỏ chạykhông thể yên ổn. Vì sao thế? Vì Sa-môn Ca-diếp có đạioai lực vậy.

Bấygiờ Thế Tôn lại bỏ thần túc, bình thường đi vào thànhMãn Phú. Lúc Thế Tôn vừa đạp chân lên ngưỡng cửa thìtrời đất chấn động mạnh. Các bậc thần trời rải hoacúng dường. Nhân dân thấy dung mạo Thế Tôn, các căn tịchtĩnh, có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp tự trangnghiêm. Mọi người liền nói kệ:

Lưỡngtúc tôn cực diệu,
Phạmchí không dám đương,
Vôcớ thờ Phạm chí,
Mấtbậc Tôn trong người.

ThếTôn đến nhà Trưởng giả, tới tòa ngồi. Lúc ấy, nhân dânnước ấy hết sức hưng thạnh. Nhà Trưởng giả có tám vạnbốn ngàn người kéo đến tụ tập muốn hư cả phòng nhà,để nhìn Thế Tôn và Tỳ-kheo Tăng. Bấy giờ Thế Tôn liềnnghĩ: 'Nhân dân này có chỗ tổn thất. Ta nên tạo thần lựckhiến nhân dân cả nước đều thấy thân Ta và Tỳ-kheo Tăng'.

ThếTôn liền hóa phòng nhà của Trưởng giả thành lưu ly, trongngoài thấy nhau ví như xem hạt châu trong bàn tay. Bấy giờcô Tu-ma-đề đến trước Thế Tôn cúi lạy, buồn vui lẫnlộn, nói kệ:

Tấtcả trí tuệ đủ,
Ðộhết tất cả pháp,
Lạiđoạn dục ái kết,
Naycon tự quy mạng.
Thàcho cha mẹ con,
Hủyhoại hai mắt con,
Chẳngưa đến trong đây,
Tàkiến và ngũ nghịch.
Xưatạo ác duyên nào,
Màbị đến nơi này?
Nhưchim vào lưới rập,
Nguyệndứt nghi kết này!
Bấygiờ Thế Tôn dùng kệ đáp:
Naycon vui chớ lo,
Ðạmbạc tự mở ý,
Cũngchớ khởi tưởng chấp,
NayNhư Lai sẽ giảng.
Convốn không tội duyên,
Ðượcđến tới chốn này,
Làquả báo thệ nguyện,
Muốnđộ chúng sanh này.
Nayhãy nhổ cội rễ,
Chẳngđọa ba đường ác,
Cóvài ngàn chúng sanh,
Trướccon đáng được độ.
Hômnay sẽ trừ sạch,
Khiếnđược trí tuệ sáng,
Khiếntrời và nhân dân,
Thấycon như xem châu.

CôTu-ma-đề nghe xong, mừng rỡ không kềm được.

Bấygiờ Trưởng giả đem người hầu của mình cung cấp thứcăn uống, những món ngon ngọt. Thấy Thế Tôn thọ trai xong,ông liền đem nước trong sạch đến, rồi lấy một ghế nhỏđến ngồi trước Như Lai. Các người tùy tùng và tám vạnbốn ngàn chúng đều lần lượt ngồi, hoặc có người tựxưng tên họ mà ngồi. Thế Tôn dần dần thuyết diệu luậncho Trưởng giả và tám vạn bốn ngàn nhân dân kia. Luận nghĩalà giới luận, thí luận, luận sanh Thiên, dục là tưởngbất tịnh, lậu là dơ xấu, xuất gia là cần yếu.

ThếTôn thấy Trưởng giả và cô Tu-ma-đề cùng tám vạn bốnngàn nhân dân tâm ý khai mở. Các pháp khổ, tập, diệt, đạomà chư Phật thường thuyết, Ngài đều thuyết cả cho chúngsanh ở đây. Họ mỗi người ở trên tòa sạch hết các trầncấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Ví như vải trắng dễ nhuộmmàu. Ðây cũng như thế. Trưởng giả Mãn Tài, cô Tu-ma-đềvà tám vạn bốn ngàn nhân dân sạch hết các trần cấu, đượcpháp nhãn thanh tịnh, không còn hồ nghi, được không sợ hãi,thảy đều quy y Tam Bảo thọ trì ngũ giới.

Bấygiờ cô Tu-ma-đề ở trước mặt Phật nói kệ:

NhưLai tai trong suốt,
Nghecon gặp khổ này,
Giángthần đến đây xong,
Mọingười được pháp nhãn.

ThếTôn thuyết pháp xong, liền từ chỗ ngồi đứng lên trở vềchỗ ở. Các Tỳ-kheo bạch Phật:

- Xưacô Tu-ma-đề tạo nhân duyên gì mà sanh trong nhà phú quý? Lạitạo nhân duyên gì mà đọa trong nhà tà kiến này? Lại tạocông đức lành nào, nay được pháp nhãn thanh tịnh? Lại tạocông đức nào khiến tám vạn bốn ngàn người được phápnhãn thanh tịnh?

ThếTôn bảo các Tỳ-kheo:

- Quákhứ lâu xa trong Hiền kiếp này, có Phật Ca-diếp, Minh HạnhTúc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðạo PhápNgự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài ở tại nước Ba-la-nạiđi du hóa cùng hai vạn chúng đại Tỳ-kheo.

Bấygiờ, có vua tên Ai Mẫn có con gái tên Tu-ma-na. Cô này rấtcó tâm cung kính hướng về Phật Ca-diếp, vâng giữ cấm giới,hằng ưa bố thí và cúng dường bốn việc.

Thếnào là bốn? Bố thí; ái kính; lợi người; đồng lợi.

Côở chỗ Phật Ca-diếp tụng Pháp Cú. Ở trên lầu cao, cô lớntiếng tụng tập, phát nguyện rộng lớn rằng: 'Con hằng cópháp Tứ ái này. Và ở trước Như Lai tụng kinh Pháp Cú, trongđó nếu con có chút phước nào, cầu khi sanh ra không rơi vàoba đường ác, cũng không rơi vào nhà nghèo, đời vị lai cũngsẽ được gặp bậc Tối Tôn như thế. Cho con chẳng chuyểnthân nữ mà được pháp nhãn thanh tịnh'.

Nhândân trong thành nghe vương nữ thệ nguyện như thế đều cùngtụ tập đến chỗ vương nữ nói:

- 'Hômnay vương nữ rất có lòng tin, tạo các công đức, bốn việckhông thiếu: bố thí, kiêm ái, lợi người, đồng lợi, lạithệ nguyện khiến đời sau gặp bậc Thế Tôn như thế. NhưLai vì tôi thuyết pháp được pháp nhãn thanh tịnh. Hôm nayvương nữ đã thệ nguyện cùng nhân dân cả nước chúng tôiđồng thời được độ'.

Bấygiờ vương nữ đáp:

- 'Tôiđem công đức này cùng thí cho các người. Nếu gặp Như Laithuyết pháp sẽ đồng được độ'.

Tỳ-kheocác Thầy há có nghi sao? Chớ xem thế! Vua Ai Mẫn lúc ấy,nay là Trưởng giả Tu-đạt. Vương nữ lúc ấy, nay là côTu-ma-đề. Nhân dân trong nước lúc ấy, nay là tám vạn bốnngàn chúng. Do lời thệ nguyện, nay gặp Ta, nghe pháp đượcđộ và nhân dân kia đều được pháp nhãn thanh tịnh. Ðâylà nghĩa này, nên nhớ vâng làm. Vì cớ sao? Bốn việc nàylà ruộng phước. Nếu có Tỳ-kheo gần gũi bốn việc, liềnđược pháp Tứ đế. Hãy cầu phương tiện thành tựu phápbốn việc này. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com