Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Phẩm Nhập đạo

02/05/201111:10(Xem: 13838)
12. Phẩm Nhập đạo

KINH TĂNG NHẤTA HÀM
Việtdịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượngThích Thiện Siêu
ViệnNghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 1

XII.Phẩm Nhập đạo

1.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cómột lối vào đạo làm trong sạch hạnh của chúng sanh, trừbỏ sầu lo không có các não, được đại trí tuệ, thànhtựu chứng quả Niết-bàn. Ðó là nên diệt Ngũ cái, tư duyTứ ý chỉ (Tứ niệm xứ). Thế nào là một lối vào? Nghĩalà chuyên nhất tâm. Ðó là một lối vào. Thế nào là đạo?Nghĩa là Tám đạo phẩm của Hiền Thánh:

1.Chánh kiến.
2.Chánh chí (tư duy).
3.Chánh nghiệp.
4.Chánh mạng.
5.Chánh phương tiện (tinh tấn).
6.Chánh ngữ.
7.Chánh niệm.
8.Chánh định.

Ðógọi là đạo. Ðó là một lối vào Ðạo. Thế nào là nêndiệt Ngũ cái? Nghĩa là tham dục cái, sân nhuế cái, điềuhí cái (trạo cử), thùy miên cái, nghi cái. Ðó là nên diệtNgũ cái. Thế nào là tư duy Bốn ý chí? Ở đây, Tỳ-kheo bêntrong tự quán thân, trừ bỏ niệm ác, không có sầu lo, bênngoài tự quán thân trừ bỏ miệng ác, không có sầu lo, trong,ngoài quán thân trừ bỏ niệm ác, không có sầu lo. Trong quánthọ khổ mà tự vui thích, ngoài quán thọ khổ, trong ngoàiquán thọ khổ, trong quán tâm mà tự vui thích, ngoài quán tâm,trong ngoài quán tâm; trong quán pháp, ngoài quán pháp, trong ngoàiquán pháp mà tự vui thích.

Thếnào là Tỳ-kheo trong quán thân mà tự vui thích? Ở đây Tỳ-kheoquán thân này tùy theo tánh mà hành: từ đầu đến chân, từchân đến đầu; quán trong thân này thảy đều chẳng sạch,không có gì đáng tham đắm. Lại quán thân này có lông, tóc,móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, não, mỡ miếng, mỡnước, ruột, bao tử, tim, gan, tỳ, thận đều quán biết hết,phẩn, tiểu, sanh tạng, thục tạng, nước mắt, đờm dãi,huyết mạch, mỡ, mật, đều nên quán biết, không có gì đángtham đắm. Như thế, các Tỳ-kheo quán thân tự vui thích, trừbỏ niệm ác, không có sầu lo. Lại nữa, này Tỳ-kheo, lạiquán thân này có phải là địa chủng chăng? Là thủy, hỏa,phong chủng chăng? Tỳ-kheo quán thân này như thế.

Lạinữa, Tỳ-kheo quán thân này phân biệt các giới có bốn loại.Giống như người khéo mổ trâu, hoặc học trò người mổtrâu, xẻ từng phần để tự xem xét: đây là chân, đây làtim, đây là đốt xương, đây là đầu. Như thế Tỳ-kheo ấyphân biệt giới này mà tự quán sát: thân này có các giớiđất, nước, gió, lửa. Tỳ-kheo quán sát thân như thế màtự vui thích.

Lạinữa, Tỳ-kheo quán thân này có các lỗ rỉ chảy chẳng sạch,giống như người kia quán vườn trúc hay quán bụi lau. Nhưvậy Tỳ-kheo quán thân này có các lỗ chảy ra các thứ bấttịnh.

Lạinữa, Tỳ-kheo quán tử thi hoặc chết một ngày hoặc hai ngày,hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, sáu ngày, bảyngày, thân thể sình trướng, hôi thối chẳng sạch. Tỳ-kheolại tự quán thân cùng kia không khác, thân ta chẳng thoátkhỏi hoạn này. Hoặc Tỳ-kheo lại quán tử thi bị quạ, thước,kên kên ăn nuốt, hoặc bị hổ lang, chó sói, các loài trùngthú trông thấy ăn thịt. Tỳ-kheo lại tự quán thân mình cùngkia không khác, thân ta chẳng lìa khỏi hoạn này. Ðó là Tỳ-kheoquán thân mà tự vui thích.

Lạinữa, Tỳ-kheo quán tử thi hoặc bị ăn một nửa rơi rớttrên đất hôi thúi chẳng sạch. Tỳ-kheo lại tự quán thânmình cùng kia không khác, thân ta chẳng lìa pháp này.

Lạinữa, quán tử thi bị ăn hết thịt chỉ còn có xương bêbết máu. Tỳ-kheo lại đem thân này quán như thân kia cũngkhông có khác. Tỳ-kheo quán thân này như thế.

Lạinữa, Tỳ-kheo quán tử thi gân ràng rịt như bó củi. Tỳ-kheolại tự quán thân cùng thân kia không khác. Tỳ-kheo quán thânnày như thế.

Lạinữa, Tỳ-kheo quán tử thi từng đốt xương phân tán rơi vãikhắp nơi. Hoặc xương tay, xương chân mỗi thứ một nơi,hoặc xương đùi, hoặc xương hông, hoặc xương cùng, hoặcxương tay, hoặc xương vai, hoặc xương sườn, hoặc xươngsống, hoặc xương cổ, hoặc đầu lâu. Lại nữa, thân nàycùng kia chẳng khác. Ta chẳng thoát khỏi pháp này. Thân tacũng sẽ bại hoại. Như thế Tỳ-kheo quán thân mà tự vuithích.

Lạinữa, Tỳ-kheo quán tử thi màu trắng, màu ngọc trắng. Tỳ-kheolại tự quán thân này cùng kia không khác, ta chẳng lìa khỏipháp này. Ðó là Tỳ-kheo tự quán thân.

Lạinữa, Tỳ-kheo nếu thấy tử thi, tưởng xương xanh bầm, khôngcó gì đáng tham đắm, hoặc cùng màu tro đất chẳng thểphân biệt, thời như thế Tỳ-kheo tự quán thân trừ bỏ niệmác không có sầu lo. Thân này vô thường là pháp phân tán.Như thế Tỳ-kheo nội tự quán thân, ngoại quán thân, nộingoại quán thân hiểu rằng không có.

Thếnào là Tỳ-kheo nội quán thọ khổ? Ở đây, Tỳ-kheo, lúcđược thọ vui thì tự giác tri mình được thọ vui, lúc bịthọ khổ thì tự giác tri mình bị thọ khổ, lúc được thọkhông vui không khổ tức tự giác tri ta được thọ không khổkhông vui. Nếu lúc thọ vui, liền tự giác tri ta thọ vui. Nếulúc thọ khổ, liền tự giác tri ta thọ khổ. Nếu lúc thọkhông khổ không vui, liền tự giác tri ta thọ không khổ khôngvui. Nếu lúc không thọ vui, liền tự giác tri ta không thọvui. Nếu lúc không thọ khổ, liền tự giác tri ta không thọkhổ. Nếu lúc thọ không khổ kho vui, liền tự giác tri tathọ không khổ không vui. Tỳ-kheo nội tự quán thọ như thế.

Lạinữa, nếu Tỳ-kheo lúc được thọ vui, lúc ấy không bị thọkhổ, thời tự giác tri ta được thọ vui. Nếu lúc thọ khổ,lúc ấy không được thọ vui thời tự giác tri ta thọ khổ.Nếu lúc được không khổ không vui, lúc đó không phải khổ,không phải vui thời tự giác tri ta thọ không khổ không vui.Người đó tập pháp mà tự vui thích, cũng quán diệt pháp,lại quán pháp tập và diệt. Hoặc lại có thọ hiện ở trước,có thể biết, có thể thấy, suy nghĩ nguồn gốc của nó thìkhông có chỗ y cứ, bèn tự vui thích, không khởi tưởng thếgian. Ở trong đó cũng không kinh sợ. Vì không kinh sợ liềnđược Niết-bàn: 'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã thành,việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thân nữa', nhưthật mà biết. Tỳ-kheo nội tự quán thọ như thế, trừ bỏloạn niệm không có sầu lo, ngoại tự quán thọ, nội ngoạiquán thọ, trừ bỏ loạn niệm không có sầu lo. Như thế Tỳ-kheonội ngoại quán thọ.

Thếnào là Tỳ-kheo quán tâm, tâm pháp mà tự vui thích? Ở đây,Tỳ-kheo có tâm ái dục, liền tự giác tri có tâm ái dục,không có tâm ái dục cũng tựgiác tri không có tâm ái dục.Có tâm sân nhuế, liền tự giác tri có tâm sân nhuế; khôngtâm sân nhuế cũng tự giác tri không tâm sân nhuế. Có tâmngu si, liền tự giác tri có tâm ngu si; không có tâm ngu si cũngtự giác tri không có tâm ngu si. Có tâm ái niệm, liền tựgiác tri có tâm ái niệm; không tâm ái niệm cũng tự giáctri không có tâm ái niệm. Có tâm thọ nhận, liền tự giáctri không tâm thọ nhận. Có tâm loạn niệm, liền tự giáctri có tâm loạn niệm; không có loạn tâm cũng tự giác trikhông có loạn tâm. Có tâm tán lạc, liền tự giác tri cótâm tán lạc; không tâm tán lạc cũng tự giác tri không tâmtán lạc. Có tâm phổ biến cũng tự giác tri có tâm phổ biến.Có tâm lớn, liền tự giác tri có tâm lớn; không có tâm lớncũng tự giác tri không có tâm lớn. Có tâm vô lượng, liềntự giác tri có tâm vô lượng; không có tâm vô lượng cũngtự giác tri không có tâm vô lượng. Có tâm tam muội, liềntự giác tri có tâm tam muội; không có tâm tam muội cũng tựgiác tri không có tâm tam muội. Tâm chưa giải thoát, liềntự giác tri tâm chưa giải thoát; tâm đã giải thoát cũngtự giác tri tâm đã giải thoát.

Nhưthế, Tỳ-kheo! Hãy quán ý chỉ, quán tập pháp, quán diệtpháp, cùng quán pháp tập diệt; suy nghĩ về pháp để tựvui thích. Hãy biết, hãy thấy, hãy tư duy, chớ suy nghĩ việckhông có chỗ nương tựa, không được khởi tưởng thế gian.Ðã không khởi tưởng liền không sợ hãi, đã không sợ hãiliền được vô dư, đã được vô dư liền nhập Niết-bàn:'Sanh tử đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc phải làm đãxong, không còn thọ thân sau nữa', như thật mà biết.

Nhưvậy, Tỳ-kheo! Nội quán tự tâm, tâm ý dừng bặt, trừ bỏloạn tưởng, không có sầu lo, ngoại quán tâm, nội ngoạiquán tâm, tâm ý dừng bặt, trừ bỏ loạn niệm, không cósầu lo. Ngoại quán tâm, nội quán tâm, tâm ý dừng. Như vậyTỳ-kheo tâm tâm quán nhau, ý dừng.

Thếnào là Tỳ-kheo pháp pháp tương quán ý dừng? Ở đây, Tỳ-kheotu niệm giác ý, y quán, y vô dục, y diệt tận, bỏ các phápác, tu pháp giác ý, tu tinh tấn giác ý, tu niệm giác ý, tuhỷ (khinh an) giác ý, tu tạm muội giác ý, tu hộ (xả) giácý, y quán, y vô dục, y diệt tận, bỏ các pháp ác. Như vậylà Tỳ-kheo pháp pháp tương quán ý dừng.

Lạinữa, Tỳ-kheo đối với ái dục giải thoát, trừ pháp ácbất thiện, có giác, có quán, có buộc niệm vui ở Sơ thiềnmà tự vui thích. Như thế là Tỳ-kheo pháp pháp tương quáný dừng.

Lạinữa, Tỳ-kheo bỏ giác, bỏ quán, bên trong phát hoan hỉ chuyênnhất ý, thành tựu không giác, không quán niệm niệm nươngvào hỷ mà an; vui ở Nhị thiền mà tự vui thích. Như vậylà Tỳ-kheo pháp pháp tương quán ý dừng.

Lạinữa, Tỳ-kheo xả niệm, tu ở hộ. Hằng tự giác tri thân(giác), vui chỗ cầu của chư Hiền Thánh, hộ niệm thanh tịnhhành ở Tam thiền. Như vậy là Tỳ-kheo pháp pháp tương quáný dừng.

Lạinữa, Tỳ-kheo xả tâm khổ vui, lại không lo mừng, không khổvui, hộ niệm thanh tịnh vui ở Tứ thiền. Như vậy là Tỳ-kheopháp pháp tương quán ý dừng.

Vịấy hành tập pháp, hành diệt pháp cùng hành pháp tập diệtmà tự vui thích, liền được pháp ý dừng hiện ở trước,có thể biết, có thể thấy, trừ bỏ loạn tưởng không chỗnương tựa, chẳng khởi tưởng thế gian. Ðã chẳng khởitưởng liền không sợ hãi. Ðã không sợ hãi thời: 'Sanh tửđã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc phải làm đã xong, khôngcòn thọ thân sau nữa', như thật mà biết.

Nàycác Tỳ-kheo, nương một lối vào đạo, chúng sanh sẽ đượcthanh tịnh, xa lìa buồn lo, lại không có tưởng vui, liềncó trí tuệ, chứng được Niết-bàn. Ðó là diệt Năm triềncái, tu Bốn ý chỉ.

Bấygiờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Taở trong đây, không thấy một pháp nào mau đưa đến hoạidiệt như là ganh ghét, đố kỵ Phạm hạnh. Thế nên các Tỳ-kheo!Hãy tu hành từ nhẫn, thân hành từ, miệng hành từ, ý hànhtừ. Như thế, các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếucó một người xuất hiện ở đời, tối tôn, tối thượngtrong các Trời, Người, Ma và Ma thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, khôngai sánh bằng, là phước điền đệ nhất, đáng phụng sự,đáng cung kính.

Thếnào là một người? Nghĩa là Như Lai Chí Chân Ðẳng ChánhGiác. Ðó là một người xuất hiện ở đời vượt hẳn Trời,Người, A-tu-la, Ma và Ma thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, là bậc tốitôn, tối thượng, không ai sánh bằng, là phước điền bậcnhất, đáng phụng sự, đáng cung kính. Như vậy, các Tỳ-kheo,hãy thường nên cung dường Như Lai. Như thế, này các Tỳ-kheo,hãy học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếucó người săn sóc người bệnh là đã săn sóc Ta. Ngườitrông nom người bệnh tức là đã trông nom Ta. Sở dĩ nhưthế là vì nay Ta đích thân coi sóc người tật bệnh.

Nàycác Tỳ-kheo, Ta không thấy một người nào trong chư Thiên,thế gian, Sa-môn, Bà-la-môn mà bố thí tối thượng hơn sựbố thí này. Người hành bố thí này mới đúng là thí, sẽthu hoạch quả báo lớn, được công đức lớn, tiếng tămtrùm khắp, được vị cam lồ. Nghĩa là Như Lai Chí Chân ÐẳngChánh Giác biết rằng bố thí tối thượng không gì hơn thínày. Người hành bố thí này mới đúng là thí, thu hoạchquả báo lớn, được công đức lớn. Nay Ta vì nhân duyênnày mà nói như thế. Săn sóc người bệnh tức là đã sănsóc Ta không khác. Các Thầy sẽ luôn luôn được phước đứclớn.

Nhưvậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nếucó người tán thán A-lan-nhã (tịch tĩnh) là đã tán thán Ta.Sở dĩ như thế, vì nay Ta thường tự tán thán hạnh A-lan-nhã.Nếu có người phỉ báng A-lan-nhã tức là phỉ báng Ta. Nếucó người tán thán khất thực tức là đã tán thán Ta. Sởdĩ như thế, vì Ta hằng tán thán người hay khất thực. Nếungười hủy báng khất thực là đã hủy báng Ta. Có ngườitán thán độc cư tức là tán thán Ta. Sở dĩ như thế làvì Ta hằng tán thán người độc cư. Có người hủy bángngười độc cư là đã hủy báng Ta. Có người tán thán ngườingồi một chỗ, ăn một bữa, tức là đã tán thán Ta. Sởdĩ như thế, vì Ta hằng tán thán người ngồi một chỗ, ănmột bữa. Ai hủy báng người này tức là đã hủy báng Ta.Nếu có người tán thán người ngồi dưới gốc cây tứclà tán thán Ta không khác. Sở dĩ như thế là vì Ta hằng tánthán người ngồi dưới gốc cây. Nếu có ai hủy báng ngườingồi dưới gốc cây tức là đã hủy báng Ta. Nếu có ai tánthán người ngồi chỗ đất trống, tức là đã tán thán Ta.Sở dĩ như thế, là vì Ta hằng tán thán người ngồi nơiđất trống (lộ tọa). Ai hủy nhục người ngồi nơi đấttrống tức là đã hủy nhục Ta. Ai tán thán người ở chỗvắng vẻ an nhàn tức là đã tán thán Ta. Vì sao như thế?Vì Ta hằng tán thán người ở chỗ vắng vẻ an nhàn. Ai hủynhục người ở chỗ vắng vẻ an hành tức là đã hủy nhụcTa. Ai tán thán người mặc áo năm mảnh là đã tán thán Ta.Vì sao như thế? Vì Ta hằng tán thán người mặc áo năm mảnh.Ai hủy nhục người mặc áo năm mảnh tức là đã hủy nhụcTa. Ai tán thán người giữ ba y tức là đã tán thán Ta. Vìsao như thế? Vì ta hằng tán thán người giữ ba y. Ai hủynhục người giữ ba y tức là đã hủy nhục Ta. Ai tán thánngười ngồi ở gò mả là đã tán thán Ta. Vì sao như thế?Vì Ta hằng tán thán người ngồi ở gò mả. Ai hủy nhụcngười ngồi ở gò mả tức là đã hủy nhục Ta. Ai tán thánngười ăn một bữa, tức là đã tán thán Ta. Vì sao như thế?Vì Ta thường tán thán người ăn một bữa. Ai hủy nhục ngườiăn một bữa tức là đã hủy nhục Ta. Ai tán thán ngườiăn đúng ngọ là đã tán thán Ta. Vì sao như thế? Vì ta hằngtán thán người ăn đúng ngọ. Ai hủy báng người ngườiăn đúng ngọ tức là hủy báng Ta. Ai tán thán người hànhđầu đà tức là đã tán thán Ta. Vì sao như thế? Vì Ta hằngtán thán các người hành đầu đà. Ai hủy nhục người hànhđầu đà tức là đã hủy nhục Ta. Nay Ta dạy các Tỳ-kheohãy như sở hành của Ðại Ca-diếp, không có sơ sót. Vì saonhư thế? Vì Tỳ-kheo Ca-diếp có các hạnh này. Thế nên cácTỳ-kheo, hãy thường nên học như Ðại Ca-diếp.

Nhưvậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùng vớiđại chúng Tỳ-kheo năm trăm vị.

Bấygiờ Tôn giả Ðại Ca-diếp trụ A-lan-nhã. Ðến giờ khấtthực, Tôn giả không phân biệt giàu nghèo. Tôn giả ở mộtnơi, ngồi một chỗ hoặc dưới gốc cây, hoặc ngoài đồngtrống, hoặc ở chỗ vắng vẻ trọn không dời đổi, mặcáo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc ở gò mả, hoặc ăn mộtbữa, hoặc ăn chính ngọ, hoặc hành đầu đà mặc dù tuổicao già cả. Bấy giờ Tôn giả Ðại Ca-diếp ăn xong liềnđến dưới một cội cây thiền định, thiền định xong,liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục, đi đếnchỗ Thế Tôn. Bấy giờ Thế Tôn từ xa trông thấy Ca-diếpđến. Thế Tôn bảo rằng:

- Khéođến, Ca-diếp!

Ca-diếpđến chỗ Phật cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn dạyrằng:

- Ca-diếp!Nay Thầy đã lớn tuổi, già cả, quá suy, lọm khọm, vậyThầy nên bỏ hạnh khất thực, cho đến các hạnh đầu đà,mà nên nhận lời mời của các Trưởng giả và nhận y áo.

Ca-diếpđáp:

- Conkhông dám theo lời Như Lai dạy. Vì sao? Vì nếu Như Lai khôngthành đạo Vô thượng Chánh chân, thì con ắt thành Bích-chiPhật, mà Bích-chi Phật trọn hành A-lan-nhã. Ðến giờ khấtthực, con không phân biệt giàu, nghèo. Con ở một nơi, ngồimột chỗ hoặc ngồi dưới gốc cây, hoặc ngoài đồng trống,hoặc chỗ vắng vẻ trọn chẳng dời đổi, hoặc mặc áonăm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc ở gò mả, hoặc ăn một bữa,hoặc ăn đúng ngọ, hoặc hành đầu đà. Nay con chẳng dámbỏ thói cũ mà học hạnh khác.

ThếTôn bảo rằng:

- Lànhthay! Lành thay Ca-diếp! Thầy có nhiều lợi ích, độ ngườivô lượng, rộng đến tất cả Trời, Người đều đượcđộ. Vì sao? Ca-diếp! Nếu hạnh đầu đà này được ở đờithì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời. Nếu cópháp ở đời, thì Thiên đạo tăng thêm, ba đường ác liềngiảm. Cũng vậy thánh Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, đạoTam thừa đều còn ở đời. Này các Tỳ-kheo, hãy học nhưCa-diếp tu tập.

Nhưvậy, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Lợidưỡng quá nặng khiến người không đến được đạo Vôthượng Chánh chân. Vì sao như thế? Này các Tỳ-kheo, Ðề-bà-đạt-đangu si kia nhận năm trăm nồi cơm của Vương tử Ba-la-lưu-chi(A-xà-thế) cúng dường. Nếu ông ta không cho, Ðề-bà-đạt-đangu si trọn không tạo việc ác này. Vì Vương tử Ba-la-lưu-chihằng ngày đem năm trăm nồi cơm đến cúng dường nên Ðề-bà-đạt-đamới khởi năm điều nghịch ác, thân hoại mạng chung sanhtrong địa ngục A-tỳ. Do phương tiện này mà biết lợi dưỡngquá nặng khiến người chẳng đến được đạo Vô thượngChánh chân. Nếu chưa sanh tâm lợi dưỡng, chớ nên sanh, đãsanh thì nên diệt đi. Như thế, các Tỳ-kheo, nên học điềunày!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở thành La-duyệt, trong núi Kỳ-xà-quật, cùngvới đại chúng Tỳ-kheo năm trăm vị.

Bấygiờ Ðề-bà-đạt-đa làm rối loạn chúng Tăng, làm chân củaNhư Lai bị thương, xúi A-xà-thế giết vua cha, lại giết La-hánTỳ-kheo-ni, rồi tuyên bố với đại chúng rằng: 'Chỗ nàocó ác, ác từ đâu sanh? Ai làm việc ác này, phải chịu quảbáo đó. Ta cũng chẳng làm việc ác này mà phải chịu quảbáo'.

Bấygiờ có nhiều chúng Tỳ-kheo vào thành La-duyệt khất thực,nghe nói Ðề-bà-đạt-đa ngu si tuyên bố ở trong đại chúng:'Chỗ nào có ác, ác từ đâu sanh? Ai làm việc ác này phảichịu quả báo đó'.

Bấygiờ những Tỳ-kheo ấy ăn xong, liền cầm y bát, vắt tọacụ lên vai mặt, đi đến chỗ Thế Tôn đảnh lễ Thế Tônrồi ngồi một bên. Bấy giờ các chúng Tỳ-kheo bạch ThếTôn:

- Ðề-bà-đạt-đangu si tuyên bố ở trong đại chúng rằng: 'Vì sao làm ác khôngcó tai ương, làm lành không có quả báo? Ðó là vì không cóquả báo thiện ác'.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóác thì có tội, các hạnh thiện ác đều có báo ứng. Nếờề-bà-đạt-đa ngu si kia biết có quả báo thiện ác, thìsẽ khô héo, sầu lo chẳng vui, máu sôi sẽ phun đầy mặt.Vì Ðề-bà-đạt-đa chẳng biết quả báo của thiện ác, dođó mới ở trong đại chúng mà tuyên bố không có quả báothiện ác, làm ác không tai ương, làm thiện không có phướcquả.

Bấygiờ Thế Tôn liền nói kệ:

Ngườingu tự xét rõ,
Làmác không có phước báo,
NayTa rõ biết trước,
Báoứng của thiện ác.

Nhưthế, này các Tỳ-kheo, hãy xa lìa ác, làm phước chớ mệtmỏi. Các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nhậnlợi dưỡng của người rất nặng, chẳng phải dễ, khiếnngười chẳng đến được chỗ vô vi. Vì sao như thế? Vìquả báo của lợi dưỡng cắt vào da người; vì cắt vàoda liền cắt thịt, vì cắt thịt liền đứt xương, vì đứtxương liền thấu tủy. Này các Tỳ-kheo, hãy dùng phương tiệnnày liền biết lợi dưỡng rất nặng. Nếu chưa sanh tâm lợidưỡng thì chớ sanh, đã sanh thì khiến cho diệt. Như vậy,các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nhậnlợi dưỡng của người thật là chẳng phải dễ, khiến ngườichẳng đến được chỗ vô vi. Vì sao như thế? Nếu Tỳ-kheoLợi-sư-la kia chẳng tham lợi dưỡng thì chẳng làm việc sátsanh vô lượng như thế, thân hoại mạng chung sanh trong địangục.

Bấygiờ Thế Tôn liền nói kệ:

Nhậnlợi dưỡng người nhiều,
Hoạihạnh thanh bạch người,
Thếnên chế ngự tâm,
Chớtham đắm mùi vị.
Lợi-sưđược định rồi
Chođến trời Ðế Thích
Thầnthông bị tổn giảm,
Ðọavào ngục chém giết.

CácTỳ-kheo hãy dùng phương tiện này liền biết nhận lợi dưỡngcủa người thật chẳng phải dễ. Như thế, các Tỳ-kheo,hãy học điều này: 'Chưa sanh tâm lợi dưỡng phải chế ngựkhiến chẳng sanh, đã sanh tâm này hãy cầu phương tiện khiếncho tiêu diệt'. Như vậy, các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com