Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Phẩm Hữu vô

02/05/201111:10(Xem: 14175)
15. Phẩm Hữu vô

KINH TĂNG NHẤTA HÀM
Việtdịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượngThích Thiện Siêu
ViệnNghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997

TẬP 1

XV.Phẩm Hữu vô

1.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Nênbiết có hai kiến (chấp) này. Thế nào là hai? Nghĩa là hữukiến và vô kiến. Có các Sa-môn, Bà-la-môn đối với hai kiếnnày đã học tập, đã tụng đọc, trọn không theo pháp, nhưthực chẳng biết. Ðây chẳng phải là Sa-môn, Bà-la-môn. Ởtrong Sa-môn thì phạm pháp Sa-môn, ở trong Bà-la-môn thì phạmpháp Bà-la-môn. Sa-môn, Bà-la-môn này trọn chẳng do thân tácchứng mà tự du hí.

Cócác Sa-môn, Bà-la-môn đối với hai kiến này tụng đọc, nghĩnhớ biết xả bỏ, như thực mà biết. Ðây là Sa-môn biếtgiữ hạnh Sa-môn, Bà-la-môn biết giữ hạnh Bà-la-môn, tựthân thụ chứng, để tự du hí; sanh tử đã dứt, Phạm hạnhđã lập, việc phải làm đã làm xong, không còn thọ thânsau nữa, như thật mà biết. Thế nên, các Tỳ-kheo, đối vớihai kiến này, chẳng nên học hành, chẳng nên đọc tụng,nên lìa bỏ hẳn. Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điềunày!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

2.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóhai kiến này. Thế nào là hai kiến? Ðó là hữu kiến và vôkiến. Thế nào là hữu kiến? Nghĩa là dục hữu kiến, sắchữu kiến, vô sắc hữu kiến. Thế nào là dục hữu kiến?Nghĩa là ngũ dục. Thế nào là ngũ dục? Nghĩa là mắt thấysắc rất yêu thích nghĩ nhớ. Người đời tôn thờ chưa từngxa lìa, như tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi biết vị,thân biết xúc chạm, ý rõ các pháp. Ðó là hữu kiến.

Thếnào gọi là vô kiến? Nghĩa là thấy hữu thường và thấyvô thường. Có cái thấy đoạn diệt và thấy không đoạndiệt, thấy hữu biên, thấy vô biên; thấy có thân, thấykhông thân; thấy có mạng, thấy không mạng; thấy thân khác,thấy mạng khác. Sáu mươi hai kiến (chấp) này gọi là vôkiến, cũng chẳng phải là chân kiến. Ðó gọi là vô kiến.

Thếnên, các Tỳ-kheo, nên bỏ hai kiến này. Như thế, các Tỳ-kheo,nên học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

3.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóhai sự bố thí này. Thế nào là hai? Ðó là pháp thí và tàithí. Này các Tỳ-kheo! Bố thí hơn hết không gì qua pháp thí.Thế nên, các Tỳ-kheo, nên thường học pháp thí. Như vậy,này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

4.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóhai nghiệp. Thế nào là hai nghiệp? Có pháp nghiệp và có tàinghiệp. Nghiệp trên hết không gì qua pháp nghiệp. Thế nên,này các Tỳ-kheo, nên học pháp nghiệp, chớ học tài nghiệp.Như thế, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

5.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóhai ơn này. Thế nào là hai? Ðó là ơn pháp và ơn tài. Hơnhết trong các ơn, không gì qua ơn pháp. Thế nên, các Tỳ-kheo,hãy tu hành ơn pháp. Như vậy, này các Tỳ-kheo, hãy học điềunày!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

6.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Ngườingu si có hai thứ tướng mạo. Thế nào là hai? Ở đây, ngườingu đối với việc không đáng làm mà làm, việc làm sắpxong thì chán bỏ. Ðó là, này các Tỳ-kheo, người ngu có haitướng mạo này.

Lạinữa, Tỳ-kheo, người trí có hai tướng mạo. Thế nào làhai? Ở đây, người trí đối với việc không đáng làm thìkhông làm, việc làm gần xong không chán bỏ.

Thếnên, này các Tỳ-kheo, hai tướng mạo của người ngu phảinên xa lìa. Nên nhớ tu hành hai tướng mạo của người trí.Như thế, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

7.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóhai pháp này, trong tự suy xét chuyên chú một lòng cũng nhưlễ Như Lai. Thế nào là hai pháp? Ðó là trí tuệ và diệttận.

Nhưthế Tỳ-kheo đối với hai pháp này trong tự suy xét, chuyênchú một lòng cũng như lễ Như Lai. Như thế, này các Tỳ-kheo,hãy học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

8.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóhai pháp này, trong tự suy xét, chuyên chú một lòng cũng nhưlễ Pháp bảo hay thần miếu của Như Lai. Thế nào là hai pháp?Có lực, có vô úy. Như thế, Tỳ-kheo đối hai pháp này trongtự suy xét, chuyên chú một lòng như lễ Pháp bảo và thầnmiếu của Như Lai. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điềunày!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

9.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóhai pháp này, trong tự suy xét, chuyên chú một lòng như lễchùa của Như Lai. Thế nào là hai pháp? Như Lai cùng ngườithế gian không có ai bằng. Như Lai có đại từ, đại bi, thươngxót nhớ nghĩ mười phương. Như thế, Tỳ-kheo đối hai phápnày, trong tự suy xét, chuyên chú một lòng như lễ chùa củaNhư Lai. Như vậy, này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

*

10.Tôi nghe như vầy:

Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.

Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

- Cóhai nhân, hai duyên khởi ra chánh kiến. Thế nào là hai? Nhậnlời dạy dỗ và suy nghĩ về chỉ, quán trong lòng. Như thế,Tỳ-kheo đối hai nhân, hai duyên khởi ra chánh kiến. Như vậy,này các Tỳ-kheo, nên học điều này!

Bấygiờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

Nhịkiến và nhị thí,
Ngườingu có hai tướng.
Lễpháp, miếu Như Lai,
Chánhkiến ở sau cùng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com