- Từ Phẩm 01 Đến Phẩm 10
- Từ Phẩm 11 Đến Phẩm 16
- Từ Phẩm 17 Đến Phẩm 19
- Từ Phẩm 20 Đến Phẩm 22
- Từ Phẩm 23 Đến Phẩm 24
- Từ Phẩm 25 Đến Phẩm 26
- Từ Phẩm 27 Đến Phẩm 29
- Từ Phẩm 30 Đến Phẩm 31
- Từ Phẩm 32 Đến Phẩm 33
- Phẩm 34: Phẩm Đẳng kiến
- Từ Phẩm 35 Đến Phẩm 37
- Từ Phẩm 38 Đến Phẩm 39
- Từ Phẩm 40 Đến Phẩm 41
- Từ Phẩm 42 Đến Phẩm 43
- Từ Phẩm 44 Đến Phẩm 45
- Từ Phẩm 46 Đến Phẩm 48
- Từ Phẩm 49 Đến Phẩm 50
- Từ Phẩm 51 Đến Phẩm 52
Việtdịch: Hòa thượng Thích Thanh Từ - Hiệu đính: Hòa thượngThích Thiện Siêu
ViệnNghiên cứu Phật học Việt Nam - PL 2541 - TL 1997
TẬP 1
1.Tôi nghe như vầy:
Mộtthời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Còộc.
Bấygiờ Thế Tôn đến giờ đắp y ôm bát dẫn La-vân vào cổngthành Xá-vệ. Khi ấy Phật quay nhìn phía hữu bảo La-vân:
- NayThầy nên quán sắc là vô thường.
La-vânđáp:
- Thưavâng, Thế Tôn. Sắc là vô thường.
ThếTôn bảo:
- La-vân!Thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.
La-vânđáp:
- Thưavâng, Thế Tôn. Thọ, tưởng, hành, thức đều là vô thường.
Lúcnày, Tôn giả La-vân lại nghĩ:
- Ðâycó duyên cớ gì, mà nay mới đến cổng (phần vệ) thành khấtthực đang ở giữa đường. Cớ sao Thế Tôn lại đối diệndạy dỗ ta? Nay ta hãy trở về chỗ mình, chẳng nên vào thànhkhất thực.
Bấygiờ Tôn giả La-vân giữa đường trở về Tịnh xá Kỳ Hoàn,đem y bát đến dưới gốc cây, chính thân, chính ý, ngồikiết-già, chuyên chú nhất tâm, niệm sắc là vô thường;niệm thọ, tưởng, hành, thức là vô thường.
Bấygiờ Thế Tôn ở thành Xá-vệ khất thực xong, sau khi ăn, đihành kinh ở Tịnh xá Kỳ Hoàn, dần dần đến chỗ La-vân.Ðến rồi, Thế Tôn bảo La-vân rằng:
- Thầynên tu hành pháp An-ban. Tu hành pháp này, hễ có ý tưởng sầulo đều sẽ trừ hết. Nay ông lại nên tu hành tưởng nhơnhớp bất tịnh, nếu có tham dục nên diệt trừ hết. La-vân!Nay Thầy nên tu hành tâm từ, đã hành tâm từ thì hễ cósân giận đều sẽ trừ hết. La-vân! Nay Thầy nên hành tâmbi, đã hành tâm bi thì hễ có tâm hại ắt sẽ trừ hết.La-vân! Nay Thầy nên hành tâm hỉ, đã hành tâm hỉ thì hễcó tâm tật đố đều sẽ trừ hết. La-vân! Nay Thầy nênhành tâm hộ (xả). Ðã hành tâm xả thì hễ có kiêu mạnắt sẽ trừ diệt hết.
Bấygiờ Thế Tôn hướng về La-vân mà nói kệ:
Chớkhởi tưởng nghĩ luôn,
Hằngnên tự thuận pháp,
Nhưthế người có trí,
Têntuổi được lan truyền.
Cầmđuốc sáng cho người,
Khổở tối tăm lớn,
Trời,Rồng cung kính thờ,
Kínhthờ bậc Sư trưởng.
Lúcnày Tỳ-kheo La-vân lại dùng kệ đáp Thế Tôn:
Conkhông khởi trước tưởng,
Lạihằng thuận với pháp,
Nhưthế người có trí,
Thìhay thờ Sư trưởng.
Bấygiờ Thế Tôn dạy bảo xong, liền trở về tịnh thất. Lúcnày Tôn giả La-vân lại nghĩ: "Nay làm sao ta hành An ban trừbỏ được buồn lo, không có các tưởng?". Bấy giờ La-vânliền từ chỗ ngồi đứng dậy đi đến chỗ Thế Tôn, đếnrồi cúi lạy và ngồi một bên. Chốc lát ngồi lui bạch Phật:
- Thếnào là tu hành An-ban trừ khử sầu lo không có các tưởng?Thu hoạch quả báo lớn, được vị cam lồ?
ThếTôn bảo:
- Lànhthay, lành thay, La-vân! Thầy có thể ở trước Như Lai rốngtiếng sư tử mà hỏi nghĩa này. Thế nào là tu hành An-bantrừ bỏ sầu lo không có các tưởng, được đại quả báo,được vị cam lồ? La-vân! Nay Thầy hãy lắng nghe, lắng nghevà khéo suy nghĩ, Ta sẽ vì Thầy phân biệt đầy đủ.
- Xinvâng, Thế Tôn!
Bấygiờ Tôn giả La-vân nhận lời Phật dạy, rồi Thế Tôn bảo:
- La-vân!Ở đây nếu có Tỳ-kheo vui ở chỗ vắng vẻ không người,rồi chánh thân, chánh ý, ngồi kiết-già, không có niệm khác,buộc niệm ở chót mũi, hơi thở ra dài biết thở ra dài,thở vào dài biết thở vào dài; thở ra ngắn biết thở rangắn, thở vào ngắn cũng biết thở vào ngắn; thở ra lạnhcũng biết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng biết thở vàolạnh; thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm cũngbiết thở vào ấm. Quán khắp thân thể thở vào, thở ra thảyđều biết hết. Lúc có thở cũng lại biết có, còn lúc khôngthở cũng lại biết không. Nếu hơi thở từ tâm ra, cũng lạibiết từ tâm ra. Nếu hơi thở từ tâm vào cũng lại biếttừ tâm vào. Như vậy, này La-vân! Người hay tu hành An-ban,thì không có tưởng sầu lo não loạn, thu hoạch quả báo lớn,được vị cam lồ.
Bấygiờ Thế Tôn thuyết pháp vi diệu đầy đủ cho La-vân rồi,La-vân liền từ chỗ ngồi đứng lên, lạy Phật, nhiễu bavòng rồi đi; đến dưới gốc cây tại vườn An-đà, chínhthân, chính ý, ngồi kiết-già, không có niệm khác, buộc niệmở chót mũi, thở ra dài cũng biết thở ra dài, thở vào dàicũng biết thở vào dài; thở ra ngắn cũng biết thở ra ngắn,thở vào ngắn cũng biết thở vào ngắn; thở ra lạnh cũngbiết thở ra lạnh, thở vào lạnh cũng biết thở vào lạnh;thở ra ấm cũng biết thở ra ấm, thở vào ấm cũng biếtthở vào ấm. Quán khắp thân thể, hơi thở ra thở vào thảyđều biết cả; lúc có hơi thở cũng lại biết có, lúc khônghơi thở cũng lại biết không; nếu hơi thở từ tâm ra cũnglại biết từ tâm ra, nếu hơi thở từ tâm vào cũng lạibiết từ tâm vào.
Bấygiờ La-vân tư duy như thế, dục tâm liền được giải thoát,không còn các điều ác, có giác, có quán niệm hoan hỉ khinhan lạc ở Sơ thiền. Có giác, có quán, trong tự quán hỷ,chuyên chú nhất tâm, nhập tam muội không giác, không quán,niệm hỷ, lạc ở Nhị thiền. Không còn niệm hỉ, tự giữgiác tri thân lạc, chỗ chư Thánh thường cầu, xả niệm hỉ,dạo ở Tam thiền. Khổ vui kia đã diệt lại không sầu lo,không khổ không vui, xả (hộ) niệm thanh tịnh, lạc ở Tứthiền. Do tam-muội này, tâm thanh tịnh không bụi dơ, thânthể nhu nhuyến; biết từ đâu đến, nhớ việc mình đã làm,tự biết việc túc mạng vô số kiếp, cũng biết một đời,hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươiđời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, trămđời, ngàn đời, vạn đời, mấy ngàn vạn đời; kiếp thành,kiếp hoại; vô số kiếp thành, vô số kiếp hoại, ức nămkhông thể kể: "Ta từng sanh chỗ kia, tên gì, họ gì, ăn mónăn thế này, thọ khổ vui thế này; thọ mạng dài ngắn, ởkia chết, sanh ở đây, đây chết sanh kia". Ngài dùng tam-muộinày tâm thanh tịnh không vết nhơ, cũng không có kiết sử,cũng biết chỗ khởi tâm của chúng sanh. Ngài lại dùng thiênnhãn thanh tịnh không vết nhơ quán chúng sanh, người sống,người chết, sắc đẹp, sắc xấu, đường thiện, đườngác, hoặc tốt hoặc xấu, điều làm, điều tạo; như thậtrõ biết. Hoặc có chúng sanh thân hành ác, miệng hành ác,ý hành ác, phỉ báng Hiền Thánh, thường hành tà kiến, tạohành tà kiến, thân hoại mạng chung vào trong địa ngục. Hoặclại có chúng sanh thân hành thiện, miệng hành thiện, ý hànhthiện, chẳng phỉ báng Hiền Thánh, chẳng hằng hành chánhkiến, tạo hạnh chánh kiến, thân hoại mạng chung sanh chỗ,thiện lên Trời. Ðó là thiên nhãn thanh tịnh không vết nhơ,quán chúng sanh người sanh, người chết, sắc đẹp, sắc xấu,đường lành, đường ác, hoặc tốt, hoặc xấu, điều làm,điều tạo, như thật rõ biết, lại thêm bỏ ý, thành tựutâm hết lậu hoặc.
Ngàiquán sự khổ này, như thật mà biết. Ngài lại quán khổtập, cũng biết khổ tận, cũng biết khổ xuất yếu, nhưthật rõ biết. Ngài do quán như thế, tâm dục lậu đượcgiải thoát; liền được trí giải thoát, sanh tử đã dứt,Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, lại khôngcòn thọ thân sau, như thật rõ biết. Lúc này Tôn giả La-vânliền thành A-la-hán. Tôn giả La-vân đã thành La-hán, liềntừ chỗ ngồi đứng lên, sửa sang y phục đến chỗ ThếTôn, cúi lạy rồi đứng một bên, bạch Thế Tôn:
- Ðiềucon cầu đã được, các lậu đã trừ sạch.
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Cácvị đắc A-la-hán, không ai bằng La-vân. Các hữu lậu dứthết cũng là Tỳ-kheo La-vân; luận về người trì cấm giớicũng là Tỳ-kheo La-vân. Vì sao thế? Vì chư Như Lai Ðẳng ChánhGiác đời quá khứ cũng có Tỳ-kheo La-vân này. Ta muốn nóilà con Phật cũng là Tỳ-kheo La-vân, thân chính từ Phật sanh,là bậc thượng của Pháp.
Bấygiờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Tronghàng Thanh văn của Ta, đệ tử bậc nhất trì cấm giới làTỳ-kheo La-vân.
Bấygiờ Thế Tôn liền nói kệ:
Ðầyđủ pháp cấm giới,
Cáccăn cũng thành tựu,
Dầndần sẽ đắc được,
Tấtcả kiết sử hết.