- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
HỘI THỨ XI
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
(Bố cục)
11. Hội thứ XI: Phần “Bố Thí Ba La Mật”, 5 quyển. Nội dung Ngài Xá lợi Phất nói với các vị Bồ Tát là nếu đem lòng đại bi làm việc bố thí, thì sẽ được Nhất thiết trí trí, chứng Vô Thượng Bồ đề. Còn đức Phật thì vì Mãn từ Tử mà nói rõ nghĩa tất cả pháp chẳng phải thực có, không có, được, mất, lợi, hại, đồng thời, Ngài dùng sức thần thông khiến đại chúng thấy các Bồ Tát trong vô lượng thế giới ở 10 phương đang tu hạnh bố thí và phát tâm cầu Nhất thiết trí.
---o0o---
PHẦN “BỐ THÍ BA LA MẬT”
Dẫn nhập:
Để giới thiệu cho phần “Bố Thí Ba La Mật”, chúng tôi lấy một đoạn trong Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”, được xem như là một định nghĩa chung cho Bố thí như sau:
“Lợi ích thí tức là thí Pháp. An lạc thí tức thí các nhu cầu sinh sống. Vô tận thí tức thị hiện Đạo. An lạc thí là khiến người sinh thiện. Hữu nghĩa ngữ là khiến người thấy lý. Như pháp ngữ là tùy thuận giáo pháp của Phật. Bất dị ngữ là thuyết Pháp như thực. Tài lợi ích bình đẳng là cái có thể ăn, có thể nuốt, có thể uống, có thể nếm, có thể liếm và y phục, vân vân. Thân lợi ích bình đẳng là những gì cần để thu nhiếp, phòng vệ, lợi ích thân mình, khiến người cũng thế. Mạng lợi ích bình đẳng là chân châu, lưu ly, san hô, mã não, đa phần là ngoại mạng. Tư cụ lợi ích bình đẳng là voi, ngựa, xe, tất cả tiền của chính đáng. Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật, tự mình hành và người khác hành đều như nhau”.
Đại cương Bố thí Ba la mật là ban cho, dâng cúng, bố thí đối với Tăng, Tục là như vậy. Phần này bắt đầu từ quyển 579 cho đến hết quyển 583, tổng cộng 5 quyển, không có gì mới lạ ở đây, chỉ có điểm đáng lưu ý là trong phần này Phật nhấn mạnh về hạnh nguyện và cách hành trì của Nhị thừa và Đại thừa.
Nhị thừa tu cho chính mình (tư lợi), cốt công thành quả mãn, đắc thật tế rồi nhập Niết bàn. Trong khi Đại thừa ý nghĩa bố thí đối với cá nhân là phá ngã, là xả kỹ trừ tham vì người khác (lợi tha) quên mình. Có quên mình mới có thể hy sinh cho kẻ khác. Vì vậy, tu không những cho chính mình mà tu cốt hóa độ cho toàn thể chúng sanh. Nên Bồ Tát bố thí có nghĩa “không những đem no cơm ấm áo cho những người bần cùng nghèo khổ mà còn đem pháp thí giúp họ thoát khỏi vô minh được giải thoát rồi cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí” được phước đức trí tuệ như nhau để cùng chèo thuyền mà sang sông.
Tu chỉ mục đích chứng thật tế như Nhị thừa cốt nhanh chóng vào Niết bàn chẳng khác nào “tự minh gầy dựng một hoa viên để rồi khép cửa vườn hồng, an nhàn tự tại mà tiêu pha năm tháng”(1) quên đi những sanh linh nghèo khổ khác, thì chẳng có gì gọi là từ, bi, hỷ, xả! Vậy nói đến Bố thí Ba la mật cũng vô ích thôi!
Vì phần “Bố Thí Ba La Mật” quá dài, nên ở đây chúng tôi chỉ thích nghĩa và lược giải từng quyển, không thích nghĩa hay lược giải nguyên cả phần cùng một lúc.
Tóm lược:
Quyển thứ 579
Tôi nghe như vầy:
Một thuở, đức Bạc già phạm cùng đông đủ một ngàn hai trăm đại Bí sô trú tại vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ đa, nước Thất la phiệt(2).
Bấy giờ, Thế Tôn hỏi Ngài Xá lợi Tử:
- Các bậc Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật trải qua thời gian bao lâu mới được viên mãn?
Ngài Xá lợi Tử thưa Phật:
- Bạch Thế tôn! Phật là gốc của Chánh pháp Vô thượng, đức Phật là người dẫn đường, là chỗ nương tựa. Xin nguyện Thế Tôn tuyên thuyết khai thị cho chúng Tỳ kheo được nghe và thọ trì theo.
Đức Thế Tôn ba lần khuyên bảo Xá lợi Tử:
- Ngươi nên nói rõ pháp bố thí Ba la mật cho các đại Bồ Tát.
Được Phật ân cần khuyên bảo ba lần, nương theo thần lực của Phật, cụ thọ Xá lợi Tử đem pháp bố thí Ba la mật trao truyền, dạy bảo cho các đại Bồ Tát:
- Đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì nên duyên vào Nhất thiết trí trí, dùng đại bi làm đầu để tu hành bố thí Ba la mật. Nếu Bồ Tát nào duyên vào Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu tu hành bố thí Ba la mật, thì đại Bồ Tát ấy có thể nhiếp thọ Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này các đại Bồ Tát, thà thực hành bố thí với tâm vô ký, hoặc là không thực hành bố thí, chớ không nên hồi hướng cho bậc Nhị thừa. Vì sao? Vì các Đại Bồ Tát nên sợ địa vị Thanh văn và Độc giác.
Bấy giờ, Ngài Mãn Từ Tử hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:
- Do nhân duyên gì mà các đại Bồ Tát sợ địa vị Thanh văn và Độc giác?
Xá lợi Tử đáp:
- Không nên cho rằng các đại Bồ Tát cùng với Nhất thiết trí đồng đẳng với Nhị thừa, thế nên tôi sợ hãi.
(Các đại Bồ Tát và các Thanh văn thực hành bố thí
sai khác như thế nào?)
Ngài Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:
- Các đại Bồ Tát và các Thanh văn thực hành bố thí sai khác thế nào?
Xá lợi Tử đáp:
- Thanh văn thực hành bố thí để hồi hướng đến quả vị Niết bàn, A la hán. Còn Bồ Tát thực hành bố thí để hồi hướng về Bồ đề Nhất thiết trí trí. Đó là sự sai khác.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Thí như có hai người cùng thực hành bố thí: Một người duyên vào ngôi vua mà cầu quả thù thắng. Người ấy khi thực hành bố thí nghĩ như vầy: Mong sao do việc làm này mà ta được lên ngôi quốc vương, thống lãnh tám phương đều được tự tại.
Như lời nguyện, về sau người này được làm vua cai trị thế gian, tự tại an lạc.
Người còn lại duyên vào địa vị cận thần mà cầu quả thù thắng. Người ấy khi thực hành bố thí nghĩ như vầy: Mong rằng ta nhờ việc này mà làm quan đại thần, được nhà vua yêu chuộng, giao cho sứ mệnh sai sử người dưới quyền, vua muốn gì đều có thể làm vừa ý. Do ước nguyện này, nên người ấy không làm vua.
Tuy hai người này đều thực hành bố thí nhưng theo sự mong cầu mà kết quả có sự hơn kém.
Bồ Tát, Thanh văn thực hành bố thí cũng như vậy. Nghĩa là khi thực hành bố thí, các Bồ Tát lấy tâm đại bi làm đầu, nương vào Nhất thiết trí trí, đem sự tu hành của mình cùng các hữu tình đồng hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do đây đắc Nhất thiết trí trí.
Còn chúng Thanh văn khi thực hành bố thí thì duyên vào quả Thanh văn, mong cầu giải thoát cho mình, không cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bồ Tát và Thanh văn tuy cùng thực hành bố thí, nhưng tùy theo ý nguyện mà đạt được kết quả hơn kém. Một bên bố thí để đắc Nhất thiết trí trí, một bên bố thí để đạt được quả Thanh văn. Đó là sự sai khác.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Thí như có người tu hành bố thí cầu được làm Trưởng giả, hoặc làm Cư sĩ. Lại có người tu hành bố thí nguyện làm tôi tớ cho Trưởng giả, Cư sĩ. Do đây nên biết Bồ Tát, Thanh văn thực hành bố thí, ý nguyện có hơn kém cũng như vậy.
Mãn Từ Tử khen ngợi Xá lợi Tử:
- Thí dụ của Tôn giả thật là hiếm có, khéo léo chỉ rõ hai sự sai khác của việc bố thí. Tôi cũng sẽ nói hai thí dụ của sự bố thí.
Ví như có người đem trăm ngàn châu báu đến nhà người giàu có nổi tiếng và nói: “Tôi đem những vật báu này dâng Ngài, cúi xin Ngài hãy nhận tôi làm kẻ tôi tớ thân thuộc, tất cả mọi việc tôi đều hoàn tất”. Các chúng Thanh văn thực hành bố thí cũng như vậy, chỉ xin làm đệ tử thân cận của Như Lai. Bồ Tát thì không phải vậy. Đó là sự sai khác.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Giả như có người con gái từ bỏ sự khoái lạc ở cung vua, lén đem theo trăm ngàn châu báu đến nhà Trưởng giả hoặc nhà chủ buôn mà nói: “Nay tôi xin dâng ông những châu báu này, xin ông thương nhận tôi làm vợ, trọn đời nguyện xin phục vụ, không làm trái ý”. Như vậy, Thanh văn tu hạnh bố thí chỉ muốn cầu làm đệ tử Như Lai. Bồ Tát thì không phải vậy. Đó là sự sai khác.
Xá lợi Tử khen ngợi Mãn Từ Tử:
- Ngài thật khéo léo biện thuyết về hai thí dụ bố thí! Thật hiếm có thay! Nghĩa là các Thanh văn không có phương tiện thiện xảo nên thực hành bố thí chỉ đạt được quả Thanh văn. Còn các bậc Bồ Tát có phương tiện thiện xảo, nên khi thực hành bố thí, giúp đỡ tất cả hữu tình, đắc được Nhất thiết trí.
Này Mãn Từ Tử! Đại Bồ Tát nào muốn chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì ngay trong tất cả hạnh, trước tiên phải thực hành bố thí, và nghĩ như vầy: Sự nghiệp bố thí của ta hôm nay xin ban bố cho chúng sanh khắp trong thế giới mười phương, giúp cho họ vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sanh tử. Nguyện cho những người chưa phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì mau chóng phát tâm. Những người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì mãi mãi không thối lui. Những ai không thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì giúp cho họ mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí.
Như vậy, Bồ Tát tư duy ngoại cảnh nhưng chẳng lìa nội tâm, giữ gìn các căn lành, làm cho nó dần dần tăng trưởng. Các vị Bồ Tát này càng nhiếp thọ căn lành, gìn giữ không để thối lui. Các vị Bồ Tát này càng gần Nhất thiết trí trí. Các vị Bồ Tát này sẽ chứng đắc Nhất thiết trí trí, căn lành càng thêm viên mãn, hướng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát tu hành bố thí, suy nghĩ: Mong sao cho tất cả hữu tình đều nhận được những vật thực thức ăn, nước uống v.v… của ta bố thí. Những hữu tình nào đã nhận được vật thực của ta bố thí, tùy theo sự cần dùng nhiều ít rồi, thì phần còn lại bố thí cho các hữu tình khác. Các hữu tình này lại cũng lượng xem mình cần dùng bao nhiêu, còn dư lại đem cho các hữu tình khác. Như vậy, lần lượt tất cả cõi hữu tình đều nhận được phẩm vật của ta bố thí.
Do nhân duyên bố thí này ta sẽ nhiếp thọ căn lành không có ngằn mé. Ta lại bố thí vô lượng căn lành này cho các hữu tình khắp cả mười phương, khiến làm cho tất cả đều giải thoát khỏi đường ác sanh tử. Người chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề thì làm cho họ nhanh chóng phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì giúp cho họ mãi mãi không thối lui. Nếu người nào đã không thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì làm cho họ mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí.
Các vị Bồ Tát này càng nhiếp thọ căn lành lần lượt làm cho tăng trưởng, các vị Bồ Tát này càng nhiếp thọ các Ba la mật, thì các vị Bồ Tát này càng tiến gần đến Nhất thiết trí trí.
Nên biết các Bồ Tát này được phương tiện thiện xảo, tuy bố thí một ít vật dụng nhưng đạt được căn lành bố thí vô lượng. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì do tâm và cảnh bố thí không phân giới hạn, hồi hướng chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát tu hành bố thí thường phát khởi tâm như vầy: Ta bố thí căn lành chẳng cần nhận lấy quả báo nào khác, chỉ cầu chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận vị lai. Như vậy, chỉ hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mới gọi là bố thí Ba la mật, làm cho tất cả Ba la mật đều được viên mãn. Nếu không có tâm duyên vào Nhất thiết trí trí, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì dù thực hành bố thí nhưng chẳng phải là bố thí Ba la mật, cũng không thể làm cho sự tu tập các Ba la mật khác được đầy đủ trọn vẹn, cũng không thể đắc Nhất thiết trí trí.
Này Mãn Từ Tử! Dù các đại Bồ Tát bố thí ít, nhưng nếu hay hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã bố thí số lượng rất lớn, nhất định sẽ chứng được Nhất thiết trí trí. Các đại Bồ Tát dù bố thí nhiều, nhưng nếu chẳng hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì nên biết đại Bồ Tát này bố thí với số lượng rất ít, không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Này Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ Tát tu hành bố thí mà không phát khởi tâm hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không duyên vào Nhất thiết trí trí, thì đại Bồ Tát này dù có thực hành bố thí nhưng chẳng phải là bố thí Ba la mật, chỉ rước lấy sanh tử, chứ không đắc được Nhất thiết trí trí(3). Nếu đại Bồ Tát tu hành bố thí, hay phát khởi tâm hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng duyên vào Nhất thiết trí trí, thì sự thực hành bố thí của đại Bồ Tát như vậy mới gọi là bố thí Ba la mật, không rước sanh tử, mà đắc được Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Đại Bồ Tát nào thực hành bố thí mà không chấp trước, thì dù có hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không chấp trước, dù có duyên vào Nhất thiết trí trí cũng không chấp trước. Đây là bậc đại Bồ Tát vận dụng phương tiện thiện xảo, tu hành bố thí Ba la mật mau chóng được viên mãn, cũng làm cho tất cả Ba la mật rốt ráo viên mãn, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.
Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:
- Thưa Tôn giả! Tôn giả nói được giáo pháp quan trọng này là nhờ tài hùng biện hay do nương vào thần lực của Phật?
Xá lợi Tử đáp:
- Tôi nương vào thần lực của Phật mà nói được pháp yếu, chứ chẳng phải do tài biện bác của tôi.
Xá lợi Tử lại nói với cụ thọ Mãn Từ Tử:
- Giả sử tất cả hữu tình trong vô lượng, vô số, vô biên thế giới khắp mười phương vì muốn chứng quả A la hán, nên đã trải qua hằng hà sa số đại kiếp, bố thí tài vật cho vô lượng vô số phàm phu, hoặc cúng dường cho vô lượng vô số Thanh văn, hoặc cho vô lượng vô số Độc giác, thì những hữu tình này được vô lượng, vô số phước đức không thể nghĩ bàn.
(Tùy hỷ hồi hướng căn lành được phước đức hơn
bố thí tài vật vô lượng vô số không thể nghĩ bàn)
Có đại Bồ Tát duyên vào sự bố thí này, nghĩ: Ta rất tùy hỷ với phước đức mà những hữu tình kia có được. Đại Bồ Tát này tùy hỷ đem những căn lành có được do thực hành việc phước nghiệp bố thí cho những hữu tình trong mười phương, mong cho những hữu tình ấy vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sanh tử. Những người chưa phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì giúp họ nhanh chóng phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì khiến cho họ vĩnh viễn không thối lui. Nếu người nào không thối lui quả vị Vô Thượng Bồ đề, thì khiến họ mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát này nhờ sự tùy hỷ hồi hướng căn lành này mà Nhất thiết trí trí mau được viên mãn.
Bậc đại Bồ Tát có tâm tùy hỷ hồi hướng căn lành, đối với phước đức bố thí của các hữu tình trước, thì được phước đức thù thắng gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.
Tâm tùy hỷ hồi hướng của Bồ Tát này siêu vượt hơn hẳn việc phước đức hành bố thí của các hữu tình trên thế gian. Đây gọi là Bồ Tát khéo dùng phương tiện thiện xảo, mặc dù dụng công ít nhưng phước đức vô lượng.
Này Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình trong vô lượng vô số vô biên thế giới khắp mười phương, trụ trong hằng hà sa số đại kiếp, thường cúng dường vô lượng, vô biên phẩm vật cho chư Phật và Bí sô Tăng, nhờ duyên này, những hữu tình kia đạt được vô lượng phước đức.
Đại Bồ Tát nào duyên vào phước đức trên, thâm tâm tùy hỷ và nghĩ: Các loài hữu tình trong thế giới mười phương hay cung kính, cúng dường ruộng phước đức chơn tịnh, thân tâm không biết mỏi mệt, rồi khen ngợi: “Lành thay! Lành thay! Ta rất tùy hỷ với phước đức này”, thì vị đại Bồ Tát này phát sanh phước đức là do tâm tùy hỷ. Đối với tất cả hữu tình trong thế giới mười phương cúng dường đức Phật và Tăng, thì công đức của Bồ Tát này gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.
Như vậy, tâm tùy hỷ của Bồ Tát siêu vượt hơn phước đức hành bố thí của thế gian. Như ánh sáng của lửa, thuốc súng và châu báu trong bốn châu, dù có thể chiếu sáng nhưng tất cả đều bị mờ khuất dưới ánh sáng của mặt trăng. Như vậy, phước đức thực hành bố thí của hữu tình trong mười phương dù vô lượng vô biên nhưng cũng bị căn lành do tâm tùy hỷ của Bồ Tát làm lu mờ. Như ánh sáng của bốn châu đều bị ánh sáng mặt trời che khuất. Như vậy, phước đức thực hành bố thí của các hữu tình trong mười phương đều bị căn lành tùy hỷ của Bồ Tát lấn áp.
Này Mãn Từ Tử! Như trăm ngàn ngọc Ca già mạt ni (một loại thủy tinh) để chung một nơi, dù có phát ra ánh sáng đủ màu, nhưng khi đem một viên ngọc báu lưu ly đặt trên đống báu kia, thì tất cả màu sắc ánh sáng của ngọc Ca già mạt ni đều bị lu mờ. Như vậy, các hữu tình trong mười phương dù trụ vô lượng hằng hà sa số kiếp, thường dùng những loại âm nhạc vi diệu bố thí cho hữu tình, hay cúng dường Phật và Tăng, nhưng so với phước đức của một vị Bồ Tát khởi tâm tùy hỷ, thì công đức của Bồ Tát này hơn hẳn phước đức của hữu tình ấy gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như khi trăm ngàn con ngựa thường thế gian tập trung lại một nơi, rồi dẫn ngựa báu của Chuyển luân vương vào trong đám ngựa ấy, thì nó sẽ làm oai lực của đám ngựa kia mất cả. Như vậy, các loài hữu tình trong mười phương dù trụ vô lượng hằng hà sa số kiếp tu hành bố thí, tích tập căn lành, nhưng so với một vị Bồ Tát khởi tâm sâu xa tùy hỷ, thì công đức của Bồ Tát này so với thiện căn kia gấp trăm ngàn lần, cho đến vô số lần.
Như vậy, tâm tùy hỷ của Bồ Tát che khuất tóm thâu phước nghiệp việc bố thí của các loài hữu tình trên thế gian. Thế nên, muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Bồ Tát phải thường tùy hỷ sâu sắc đối với công đức của các hữu tình đã tạo.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát nên đem việc phước nghiệp tương ưng với tâm tùy hỷ, bố thí cho tất cả hữu tình trong thế giới khắp mười phương và nguyện cho tất cả hữu tình trong mười phương ấy đều vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử trong đường ác. Đối với những người chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề, thì làm cho họ nhanh chóng phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì giúp cho họ mãi mãi không thối lui. Đối với những người không thối lui quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì giúp họ mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí.
Các vị Bồ Tát này từng xả bỏ căn lành của mình, bố thí cho các loài hữu tình. Các vị Bồ Tát này mặc dù không tu tập tư lương Bồ đề nhưng hay gần gũi Nhất thiết trí trí. Các vị Bồ Tát này chẳng chấp vào căn lành của mình có được và bố thí cho tất cả hữu tình trong thế giới mười phương, nguyện cho họ đều xa lìa khổ đau và an vui vĩnh viễn. Các vị Bồ Tát càng ngày căn lành càng tăng trưởng, càng gần với quả vị Vô Thượng Bồ đề, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Các vị Bồ Tát này càng không chấp căn lành của mình có được. Các vị Bồ Tát này càng thâu nhận vô lượng căn lành thù thắng. Vì sao? Này Mãn Từ Tử! Vì các đại Bồ Tát này không phân chia tâm cảnh, chỉ hồi hướng chứng đắc Nhất thiết trí mà thôi. Như vậy, Bồ Tát đem tâm tùy hỷ tương ưng với phương tiện thiện xảo, tuy đem tâm tùy hỷ để dẫn (phát) các thiện căn, bố thí lại cho hữu tình nhưng hoàn toàn không chấp trước vào căn lành và hữu tình; dù nguyện cho hữu tình được thoát khỏi đường ác và nỗi khổ sanh tử, nhưng hoàn toàn không vướng mắc vào đường ác và nỗi khổ sanh tử; dù nguyện cứu độ các loài hữu tình khiến cho họ phát tâm Vô Thượng Bồ đề, nhưng hoàn toàn không vướng mắc vào việc phát tâm. Tuy nguyện giáo hóa các loài hữu tình, khiến họ vĩnh viễn không thối chuyển quả vị Vô Thượng Bồ đề, nhưng hoàn toàn không chấp trước vào địa vị này. Tuy nguyện giúp đỡ các loài hữu tình mau chóng viên mãn Bồ Tát hạnh, sớm chứng đắc Nhất thiết trí trí, nhưng không chấp trước vào địa vị này. Tuy nguyện tự thân chứng đắc Nhất thiết trí trí nhưng cũng không chấp trước vào trí này. Như vậy, Bồ Tát không có kiến chấp, nên biết đây là phương tiện thiện xảo. Như vậy, Bồ Tát tâm tùy hỷ hồi hướng đồng hành đều là năng lực phương tiện thiện xảo, khéo nắm giữ các chúng đại Bồ Tát khác, làm cho họ nhận được lợi ích an vui thù thắng và tự nhiếp thọ Nhất thiết trí trí, mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình trong thế giới mười phương, trụ hằng hà sa số đại kiếp, thường đem các đồ thượng diệu dâng cúng cho chư Phật và Bí sô Tăng, thì công đức cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen, tu tập các việc phuớc nghiệp không bằng công đức một vị Bồ Tát dâng một bát cơm cúng Phật và Tăng, rồi đem phước bố thí này cùng các hữu tình hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, nguyện đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí, thì phước của Bồ Tát này hơn tất cả hữu tình trước trăm lần, ngàn lần, cho đến gấp vô số lần. Vì sao? Vì Bồ Tát này không thấy người bố thí, người nhận bố thí và vật bố thí, mặc dù Bồ Tát quán thấy bản tánh các pháp đều Không, nhưng khi thực hành bố thí thường không xa lìa hồi hướng phát nguyện.
Vì thế, khi Bồ Tát thực hành bố thí, thì được phước đức gấp trăm, ngàn lần, cho đến gấp vô số lần phước đức hành bố thí của các hữu tình. Nhờ vậy, Bồ Tát nhất định chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem lợi ích an vui cho tất cả các loài hữu tình.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Khi tu hành bố thí, các bậc đại Bồ Tát có tâm tùy hỷ hồi hướng căn lành, đối với phước đức bố thí của các hữu tình trước, thì được phước đức thù thắng gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.
Bồ Tát phải phát khởi tâm nguyện: Ta xả bỏ những tài vật này, nếu được các căn lành thù thắng nào đều ban bố cho các loài hữu tình khắp mười phương, và nguyện cho những ai đang ở địa ngục mau thoát khỏi địa ngục, ai đọa vào bàng sanh thì mau thoát khỏi bàng sanh, kẻ đọa trong loài ngạ quỉ thì chóng xa lìa ngạ quỉ. Trong loài trời, người mà có buồn khổ, nguyện cho các buồn khổ của họ đều được chấm dứt, những vị chán ghét sanh tử chóng ra khỏi ba cõi. Vô lượng, vô biên các loài hữu tình ở mười phương, người nào chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề thì làm cho họ mau phát tâm. Người nào đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì khiến cho họ mãi mãi không thối lui. Người nào không còn thối lui quả vị Vô Thượng Bồ đề, thì làm cho họ nhanh chóng viên mãn Nhất thiết trí trí.
Các vị Bồ Tát này càng xả bỏ các căn lành, bố thí cho loài hữu tình thời càng nhiếp thọ bố thí Ba la mật. Các vị Bồ Tát này càng nhiếp thọ bố thí Ba la mật thời càng ngày càng tăng trưởng tất cả Ba la mật. Các vị Bồ Tát này càng tăng trưởng tất cả Ba la mật thời càng gìn giữ vô lượng căn lành thù thắng. Các vị Bồ Tát này càng gìn giữ vô lượng căn lành thù thắng thời càng ngày càng gần Nhất thiết trí trí.
Như vậy, Bồ Tát khéo dùng phương tiện thiện xảo, tuy dụng công ít nhưng được phước đức rất nhiều. Thế nên, muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Bồ Tát phải thường siêng năng tu tập phương tiện thiện xảo.
(Bố thí không chấp ngã, ngã sở)
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các vị Bồ Tát này càng không chấp trước ngã, ngã sở. Vì không chấp ngã, ngã sở, nên các Bồ Tát này càng mau nhiếp thọ vô lượng, vô biên căn lành. Vì sao? Vì các Bồ Tát muốn giúp cho vô lượng, vô biên hữu tình đều mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. Như vậy, Bồ Tát có thể xả bỏ tất cả. Bồ Tát đối với các căn lành của mình có được còn có thể xả bỏ huống nữa các của báu mà không xả bỏ được sao!
Như vậy, Bồ Tát có thể xả bỏ những thứ có hình sắc và không hình sắc, hay xả bỏ căn lành thù thắng của mình và của người cho đến xả bỏ Nhất thiết trí trí, bố thí cho các loài hữu tình, giúp cho họ cùng chứng đắc.
Như vậy, Bồ Tát rống tiếng rống sư tử: “Ta đối các pháp trọn không chỗ thấy. Ta đối các vật trong ngoài tất cả có sắc không sắc cũng không chỗ thấy, tuy không chỗ thấy mà đều năng xả”.
Bồ Tát nghĩ: Ta hoàn toàn không thấy pháp, không thấy vật nhưng không xả bỏ việc bố thí cho các loài hữu tình. Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, dùng Nhất thiết trí trí đã chứng đắc xét đoán, quán sát thế gian, rống lên tiếng sư tử: “Ta đối các pháp trọn không chỗ thấy, ta đối các vật trong ngoài tất cả có sắc không sắc cũng không chỗ thấy, tuy không chỗ thấy mà đều năng xả”. Nghĩa là chẳng thấy có hoặc pháp hoặc vật đối các hữu tình mà chẳng có gì chẳng năng thí xả.
Như vậy, Bồ Tát thường khởi nghĩ này: Khi ta chứng được Vô thượng giác, đối tất cả pháp trọn không chỗ thấy. Tuy không chỗ thấy mà đối với các pháp không pháp nào chẳng hiện chứng, không pháp nào chẳng biết khắp. Bởi các Bồ Tát năng xả tất cả, vậy nên khi chứng được Vô thượng giác, đối tất cả pháp xả được rốt ráo. Do xả rốt ráo, đối tất cả pháp không pháp nào chẳng hiện chứng, không pháp nào chẳng biết khắp.
Như vậy Bồ Tát hoặc trong hoặc ngoài thảy đều năng xả được. Vì đối pháp trong ngoài đều năng xả nên trọn không chỗ thấy. Bởi đối các pháp không chỗ thấy, nên khi chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối tất cả pháp không pháp nào chẳng hiện chứng, không pháp nào chẳng biết khắp, năng tận vị lai lợi vui tất cả.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Chúng Bồ Tát nên học bố thí Ba la mật thanh tịnh như vậy. Bồ Tát nào có khả năng học cách bố thí Ba la mật thanh tịnh như vậy, thì mới gọi là chơn tịnh Bồ Tát, thường không xa lìa tâm Nhất thiết trí. Bồ Tát nào thường không xa lìa tâm Nhất thiết trí, thì Bồ Tát không bị các ác ma sát hại, huống là loài Dược xoa, Tất xá già (quỷ ăn thịt) v.v… làm sao hại được. Nếu có hữu tình nào tìm chỗ sơ hở của Bồ Tát này thì chắc chắn không có điều đó. Vì sao? Vì ở địa phương nào nếu có Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật, luôn tư duy về Nhất thiết trí trí không chút nào rời bỏ, thì người và chẳng phải người ở địa phương đó không thể tìm chỗ sơ hở của Bồ Tát. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu thường tư duy Nhất thiết trí trí là tác ý không thể nghĩ bàn, rộng lớn sâu xa, hiếm có trong đời, khó đo lường.
(Ân đức của Bồ Tát)
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát hay học hạnh của đại Bồ đề như vậy, thì có ân đức lớn với các hữu tình, và có khả năng nuôi dưỡng, dạy dỗ tất cả hữu tình, nghĩa là Bồ Tát hay giúp các loài hữu tình trong thế gian không bị tai nạn, bỏ điều ác, tu tập điều lành. Do nhân duyên này, nên các chúng Bồ Tát an trụ nơi quả vị Bồ Tát, thường hay làm lợi ích an vui cho tất cả phàm phu, Thanh văn và Độc giác. Khi các Bồ Tát chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng đã có ân đức lớn với các hữu tình, khéo nuôi dưỡng, dạy dỗ tất cả hữu tình, nghĩa là hay giảng Chánh pháp giúp cho hữu tình dứt hết phiền não. Nhờ vậy nên vô lượng, vô biên hữu tình đều đắc Niết bàn, được an vui rốt ráo.
Vì thế, khi sắp chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Bồ Tát đối với phàm phu, Thanh văn, Độc giác là tài giỏi hơn, tốt đẹp hơn, là tôn quí, là mầu nhiệm, là vi diệu không thể nghĩ được, là trên hết, là vô thượng, vô đẳng, vô đẳng đẳng.
Sau khi nhập Niết bàn, Bồ Tát cũng có ân đức lớn đối với các loài hữu tình, hay khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Nghĩa là đối với tháp của Như Lai hay cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen, dâng cúng các thứ vòng hoa thượng diệu, những thứ hương xoa, hương bột, y phục, chuỗi ngọc, cờ báu, lọng lụa, kỹ nhạc đèn sáng v.v… Do nhân duyên này, các loài hữu tình đã gieo trồng vô lượng căn lành thù thắng. Hoặc nghe giáo pháp Niết bàn cốt yếu của Như Lai, siêng năng tu học chứng đắc Niết bàn. Đối với tháp của Như Lai, hữu tình nào dâng cúng một chút hương, một cành hoa thì Phật sẽ thọ ký cho hữu tình đó đều được xa lìa dục, rốt ráo được Niết bàn.
Như vậy, Bồ Tát ở nơi địa vị Bồ Tát có ân đức lớn đối với các hữu tình, hay khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng có ân đức lớn đối với các hữu tình, hay khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Sau khi vào Niết bàn, Bồ Tát cũng có ân đức lớn đối với các hữu tình, khéo dưỡng dục tất cả hữu tình. Vì các Bồ Tát thường có ân đức lớn đối với các loài hữu tình, cho nên khéo dưỡng dục tất cả hữu tình, là bậc tôn quí nhất, giỏi nhất, ngoài chư Phật ra, không ai có thể sánh bằng.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát thành tựu được công đức thù thắng như thế, thì những vị ấy thường hay làm lợi ích cho tất cả hữu tình. Thí như vàng ròng có thể đem lại lợi ích cho hữu tình. Nghĩa là khi chưa được luyện, hoặc đã luyện rồi, khi chưa được làm thành vật trang sức, hoặc khi đã được làm thành vật trang sức, khi chưa thay đổi, hoặc đã thay đổi, thì vàng vẫn có thể đem lại lợi ích cho tất cả hữu tình.
Như vậy, Bồ Tát tu hạnh Bồ đề, trụ địa vị Bồ Tát hay làm lợi ích lớn cho hữu tình. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình. Sau khi vào Niết bàn cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như mặt trời, mặt trăng xoay quanh bốn châu làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nghĩa là tất cả hữu tình trong bốn châu nhờ có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng chiếu ra mà có thể làm được mọi việc, giúp hữu tình biết rõ sự khác nhau ban ngày, ban đêm, nửa tháng, đầy tháng, mùa, năm v.v… Các thứ hoa quả, lúa mạ, cỏ cây cũng nhờ ánh sáng của mặt trời, mặt trăng mà được sanh trưởng chín tới để nuôi sống hữu tình.
Như vậy, Bồ Tát tu hạnh Bồ đề trụ địa vị Bồ Tát, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng làm lợi ích cho hữu tình. Sau khi vào Niết bàn cũng làm lợi ích cho hữu tình.
Này Mãn Từ Tử! Các chúng Bồ Tát thành tựu công đức rộng lớn như thế thường làm lợi ích lớn cho hữu tình. Thí như người chủ buôn có nhiều của cải châu báu, có thể giúp cho trăm ngàn bạn bè thương gia, quyến thuộc đều được đầy đủ các dụng cụ sinh sống, cho đến khi người chủ buôn chết, mọi người nhờ những của cải quí báu này mà đời sống đầy đủ an vui.
Như vậy, Bồ Tát thực hành hạnh Bồ đề trụ địa vị Bồ Tát, thường hay làm lợi ích an vui cho vô số hữu tình, huống nữa là khi đắc được Bồ đề, và sau khi vào Niết bàn được oai lực lớn, chẳng lẽ không thể mang lại lợi ích an vui cho các đệ tử sao!
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như vậy, Bồ Tát thường làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. Nghĩa là ở địa vị Bồ Tát, hoặc khi thành Chánh giác, hay lúc vào Niết bàn, Bồ Tát chưa từng tạm bỏ việc làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Như có bậc Thiện sĩ đầy đủ tướng của bậc Thiện sĩ, có thể tìm an vui cho mình và cũng có thể đem lại an vui cho các hữu tình khác. Khéo giữ gìn của cải, khéo phân chia nên gọi là Thiện sĩ.
Như vậy, Bồ Tát khéo thâu giữ của cải công đức quí báu, ngay nơi quả vị Bồ Tát có thể làm lợi ích an vui cho vô số hữu tình; khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng khéo làm lợi ích an vui cho vô số hữu tình; sau khi vào Niết bàn cũng khéo làm lợi ích cho vô lượng hữu tình; nghĩa là sau khi vào Niết bàn đem năng lực công đức làm lợi lạc cho các đệ tử.
Này Mãn Từ Tử! Như vậy, khi ở địa vị Bồ Tát hoặc khi đắc được Bồ đề, hoặc sau khi Niết bàn, Bồ Tát thường hay làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình không ngừng nghỉ phút giây nào. Giống như Thiện sĩ kia, đầy đủ tướng Thiện sĩ, Thiện sĩ có khả năng làm cho mình và người đều được an lạc, xa lìa những việc không như ý. Các chúng Bồ Tát cũng lại như vậy, có thể giúp cho mình và người thường được an lạc, xa lìa mọi nghiệp ác phiền não, không đọa vào đường ác luân hồi sanh tử, được vào Niết bàn an vui rốt ráo, hoặc thành Chánh giác, làm lợi ích cho tất cả.
Này Mãn Từ Tử! Như con dòng Sát đế lợi Quán đảnh vương lên nhận ngôi vua, khi làm vua hoặc lúc làm thái tử, đều đem an lạc cho tất cả Sa môn, Phạm chí và hữu tình khác. Hoặc sau khi băng hà cũng có thể làm cho đất nước và nhân dân an lạc, không ai khổ đau. Nghĩa là do oai lực công đức của nhà vua mà đất nước giàu có thái bình, không có giặc dã, oán thù v.v...
Như vậy, Bồ Tát trụ địa vị Bồ Tát thực hành hạnh Bồ đề, Bồ Tát có thể đem an lạc cho tất cả hữu tình. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, Bồ Tát cũng đem an lạc cho tất cả hữu tình. Sau khi vào Niết bàn, Bồ Tát cũng đem an lạc cho tất cả hữu tình. Nghĩa là sau khi Bồ Tát Niết bàn, có vô số hữu tình cúng dường, cung kính, tôn trọng ngợi khen tháp, nên được vô lượng phước đức. Lắng nghe Chánh pháp, thọ trì đọc tụng, tư duy đúng lý, vì người diễn nói Chánh pháp cũng được vô biên công đức thù thắng.
Sau khi đức Phật Thế Tôn Niết bàn, các loài hữu tình nào nghĩ nhớ đến giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Như Lai thì nhờ nhân duyên này, các loài hữu tình ấy sẽ không đọa vào đường ác, được sanh trong cõi trời, người, thường thọ hưởng khoái lạc, hoặc chứng đắc Niết bàn Tam thừa, có thể làm cho mình và người được rốt ráo an lạc. Trong đời hiện tại, người chẳng phải người v.v… không thể gây hại cho hữu tình này, các sự sợ hãi không thể quấy phá, bức bách họ được. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì công đức niệm Phật có thể diệt trừ sự sợ hãi của người chẳng phải người trên thế gian.
Khi ấy, đức Phật khen ngợi Xá lợi Tử:
- Lành thay! Đúng như lời ngươi nói. Nếu loài hữu tình nào hay nhớ nghĩ giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn của Như Lai, thì loài hữu tình này có thể diệt trừ được sự sợ hãi của người chẳng phải người v.v... ở thế gian.
(Pháp mầu rộng lớn của Như Lai)
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật là hiếm có! Như Lai đã thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh như vậy.
Thế Tôn dạy Xá lợi Tử:
- Này Xá lợi Tử! Nên biết, Bồ Tát cũng có thể thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh như vậy.
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Sự thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh của Bồ Tát là những gì?
Phật dạy:
- Sự thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh của Bồ Tát là phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không thối chuyển. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh nhất là các pháp tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tánh. Các Bồ Tát nào phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không thối chuyển, thì nhất định sẽ thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh.
Bấy giờ, Xá lợi Tử nói với cụ thọ Mãn Từ Tử:
- Các chúng Bồ Tát nên phát tâm: Những hữu tình nào đến chỗ ta cầu xin những vật dụng của cải để sinh sống, thì ta sẽ phát khởi tâm bố thí mãnh liệt. Không nên khởi tâm không cho vật dụng để sinh sống. Giả sử ngay khi ấy không có vật dụng của cải, ta quyết sẽ dùng phương cách để bố thí chứ không phát khởi tâm như vầy: “Bây giờ ta không có của cải vật dụng, không cần tìm phương cách bố thí. Nếu hữu tình nào bố thí cho người ấy, ta sẽ tùy hỷ theo. Nếu họ không muốn bố thí, thì ta sẽ dùng mọi phương tiện dạy dỗ họ, giúp cho người mong cầu đều được mãn nguyện”. Như vậy, Bồ Tát hoặc bố thí của cải vật dụng cho hữu tình, hoặc hầu thầy khi thầy bệnh đau, nếu có chút ít phước nghiệp nào đều ban cho hữu tình và cùng hồi hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, và muốn làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai, khiến cho tất cả thoát khỏi đường ác, sanh tử đau khổ, giúp tất cả vào Niết bàn hoặc đạt được Nhất thiết trí.
Hữu tình nào tự thực hành bố thí, tu tập các phước nghiệp khác, thì Bồ Tát khuyên họ hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như vậy, Bồ Tát đạt được phước đức nhiều hơn phước nghiệp bố thí của hữu tình khác gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến gấp vô số lần. Vì sao? Vì Bồ Tát khuyên phát tâm hồi hướng thì có thể giúp mình và loài hữu tình đều chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các chúng Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật, trước hết phải tu tập phương tiện thiện xảo, tùy theo phương tiện thiện xảo tu tập được mà tu hành bố thí. Tùy theo phước nghiệp tu hành bố thí đều đem hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, và nguyện cầu cho các hữu tình đều cùng chứng đắc Nhất thiết trí trí. Như vậy, Bồ Tát khéo tu tập dùng phương tiện thiện xảo, có thể giúp mình và người đều được lợi ích thù thắng. Nếu các Bồ Tát tu hành bố thí, không tu tập phương tiện thiện xảo trước, thì giả sử có trải qua hằng hà sa số kiếp tu hành bố thí, cũng không thể phát tâm cùng với hữu tình hồi hướng đến Bồ đề, không thể nhiếp thọ tu tập Bố thí, không thể chứng đắc được Nhất thiết trí trí như đã mong cầu.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Giả sử có nhiều hữu tình cầm bình bát to lớn bằng ba ngàn đại thiên thế giới đến chỗ Bồ Tát, và nói: “Chúng tôi cần xin đầy bình bát này, mong người gấp gấp ban cho”. Bồ Tát không khởi tâm khác với hữu tình ấy, chỉ khởi tâm nhất quyết bố thí cho hữu tình ấy. Nghĩa là hoàn toàn không khởi tâm sân hận, cho rằng hữu tình khinh thường xúc phạm mình; cũng không khởi tâm không bố thí, nghĩa là nghĩ: Làm sao ta có thể cho người kia nhiều phẩm vật được; cũng không khởi tâm không có của cải, nghĩa là nghĩ: Ta làm sao có đủ vật báu để cho đầy bát lớn đến ba ngàn đại thiên thế giới của hữu tình kia. Bồ Tát chỉ nên nghĩ: Bây giờ vì hữu tình này, ta phải tu tập thần thông thù thắng, tu tập các phương tiện để gom góp nhiều của cải quí báu, chắc chắn làm cho người mong cầu kia thỏa mãn ý muốn. Khi đó, Bồ Tát tinh tấn vượt bậc, siêng năng gia hạnh cầu thần thông thù thắng, muốn tích góp của cải quí báu để bố thí cho hữu tình đang cầu xin. Bồ Tát nhiếp thọ tinh tấn Ba la mật, đắc được thần thông tích góp được nhiều của cải quí báu, Bồ Tát bố thí cho người cầu xin được mãn nguyện. Bồ Tát nhiếp thọ bố thí Ba la mật như vậy, gọi là các chúng Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật phát tâm rộng lớn, thường không nhàm chán, mệt mỏi. Nhờ vậy, Bồ Tát mau chóng chứng đắc Vô thượng Bồ đề, có thể làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.
(Phát triển tứ vô lượng tâm: Từ-Bi-Hỷ-Xả tu Bồ Tát hạnh)
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các Đại Bồ Tát nên thương xót hữu tình mà thực hành bố thí. Nên trụ tâm từ, ban vui cho chúng sanh mà thực hành bố thí. Nên trụ tâm bi, dẹp sạch khổ đau cho hữu tình mà thực hành bố thí. Nên trụ tâm hỷ, mừng vui các hữu tình xa lìa khổ đau được an vui mà thực hành bố thí. Nên trụ tâm xả, bình đẳng làm lợi ích cho hữu tình mà thực hành bố thí.
Bố thí như vậy rồi nên phát tâm: Phước đức và việc lành ta đã tạo được, ta xin bố thí cho loài hữu tình trong mười phương, giúp họ vĩnh viễn giải thoát khỏi đường ác sanh tử. Những người chưa phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì ta làm cho họ sớm phát tâm. Những người đã phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì khiến họ vĩnh viễn không thối lui, đã không thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì giúp họ mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí.
Các Bồ Tát này càng xả bỏ phước đức và căn lành cho các hữu tình thời căn lành càng được tăng trưởng. Các Bồ Tát này càng lấy việc tu tập điều lành cùng hồi hướng cho các hữu tình đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện cùng nhau chứng được Nhất thiết trí trí thời căn lành càng tăng trưởng hơn trước.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Thí như vàng ròng càng được tôi luyện, được đốt, gò; thời sắc sáng bóng càng tăng lên; nếu sắc sáng bóng càng tăng thêm hơn trước thời vàng dần dần càng mềm dẻo có thể làm vật dụng.
Như vậy, Bồ Tát càng đem điều lành đã tạo cho các hữu tình cùng nhau hồi hướng đến quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí thời căn lành tăng trưởng; căn lành càng tăng trưởng hơn, thời càng ngày càng gần gũi Nhất thiết trí trí.
Này Mãn Từ Tử! Như có người con gái chùi gương soi mặt, càng gia công lau chùi gương, thời gương càng trong sáng. Gương càng sáng lần, tức mặt gương không còn bụi, mọi cảnh tượng càng hiện rõ trong gương.
Như vậy, Bồ Tát quyết chí đem phước đức và việc lành tạo được hồi hướng đến Nhất thiết trí trí; bố thí khắp tất cả hữu tình trong thế giới mười phương, khiến họ vĩnh viễn thoát đường ác sanh tử. Người chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề thì làm cho họ phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì làm cho họ không còn thối lui. Người nào không còn thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì giúp họ mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí. Các Bồ Tát này càng xả bỏ căn lành của mình bố thí cho các loài hữu tình; thời căn lành càng tăng thêm nên càng gần gũi Nhất thiết trí trí.
Như vậy, Bồ Tát tu tập phương tiện thiện xảo, hồi hướng mong cầu Nhất thiết trí trí, khiến các công đức dần dần tăng trưởng, mau chóng chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, và có thể làm lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.
Này Mãn Từ Tử! Tại sao có Bồ Tát thực hành bố thí nhiều nhưng nhận phước đức rất ít? Tại sao có Bồ Tát ít thực hành bố thí lại nhận được nhiều phước đức? Tại sao có Bồ Tát ít thực hành bố thí và nhận được ít phước đức? Tại sao có Bồ Tát bố thí nhiều và nhận được phước đức nhiều?
Nếu những Bồ Tát nào tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp, thường xả bỏ vô lượng, vô số của cải quí báu rồi bố thí cho các loài hữu tình trong thế giới mười phương, nhưng không hồi hướng quả vị Vô thượng Bồ đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí, thời Bồ Tát đó thực hành bố thí nhiều nhưng được phước ít.
Nếu những Bồ Tát nào dù trải qua thời gian ngắn ngủi bố thí cho hữu tình ít của cải, nhưng hay hồi hướng Vô thượng Bồ đề, nguyện cùng với hữu tình đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí, thời Bồ Tát đó dù ít thực hành bố thí mà thâu nhận nhiều phước đức.
Nếu những Bồ Tát nào trải qua thời gian ngắn ngủi bố thí chút ít của cải cho hữu tình, nhưng không hồi hướng Vô thượng Bồ đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí, thời Bồ Tát đó thực hành bố thí ít và nhận phước cũng ít.
Nếu những Bồ Tát nào trải qua hằng hà sa số đại kiếp, thường xả bỏ vô lượng, vô số tài sản quí báu và bố thí cho các hữu tình khắp mười phương, lại có thể hồi hướng Vô thượng Bồ đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí, thời Bồ Tát đó thực hành bố thí nhiều và được phước nhiều.
Vì thế, chúng đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì phải đem căn lành cho hữu tình cùng hồi hướng lên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Nếu đại Bồ Tát nào muốn có năng lực nhiếp thọ vô số nhóm phước, làm lợi ích cho các hữu tình, mau chóng chứng đắc Nhất thiết trí trí, thời không nên xa lìa Nhất thiết trí trí và tương ưng với tác ý tu hành bố thí Ba la mật. Đại Bồ Tát nào thường không xa lìa Nhất thiết trí trí và tương ưng với tác ý tu hành bố thí Ba la mật, thời đại Bồ Tát này liền có năng lực nhiếp thọ vô lượng nhóm phước, mau chóng chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm nhiều lợi ích cho các hữu tình. Vì sao? Này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát thường không xa lìa Nhất thiết trí trí và tương ưng với tác ý tu hành bố thí Ba la mật, thì công đức và căn lành của các vị Bồ Tát này trong mỗi một sát na dần dần được tăng trưởng, nhờ vậy mau chứng Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.
Vì thế, Bồ Tát muốn thường đem lợi ích an vui cho hữu tình, thời trong tất cả hành động thường phải siêng năng tu tập phương tiện thiện xảo, hồi hướng lên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, và nguyện làm lợi ích lớn cho các hữu tình.
Thích nghĩa:
(1). Câu nói của Ngài Tuệ Sĩ trong phần giới thiệu tác phẩm “Nhận thức và Tánh Không” của Hồng Dương Nguyễn văn Hai.
(2). Vườn Cấp Cô Độc: (給孤獨園) Phạm: Jetavanànàthapiịđa-syàràma, Pàli: Jetavanànàthapiịđi-kàràma. Khu vườn ở mạn Nam thành Xá vệ, nước Kiều tát la thuộc Trung Ấn Độ, tương đương với Sahet-mahet ở biên giới phía Nam của nước Nepal hiện nay, gần Nam ngạn sông Rapti. Đây là di tích nổi tiếng nhất trong các di tích thuyết pháp của đức Phật. Nói đủ là Kỳ thụ cấp cô độc viên, Thệ đa lâm cấp cô độc viên. Gọi tắt là Kỳ hoàn tinh xá, Kỳ viên tinh xá (Phạm: Jetavana). Trưởng giả Cấp cô độc sau khi qui y đức Phật, ông muốn tìm một nơi để dựng tinh xá cúng dường Phật, thấy vườn hoa của Thái tử Kỳ đà là nơi thanh tịnh, rộng rãi và tĩnh mịch, ông hỏi mua, nhưng Thái tử từ chối khéo léo bằng cách đặt điều kiện là, nếu Tu đạt (tức Trưởng giả Cấp Cô Độc) đem vàng trải khắp vườn hoa thì Thái tử sẽ bán - trưởng giả Tu đạt bèn dùng voi chở vàng đến rải trên mặt đất. Thái tử cảm động vì tấm lòng chí thành của ông, bảo ông thôi đừng rải vàng nữa, Thái tử, sẽ tặng ngôi vườn này cho Trưởng giả để lập tịnh xá cho Phật và Tăng đoàn làm nơi trú ngụ, thuyết pháp. Sau khi Trưởng giả Cấp Cô Độc cất tịnh xá xong, hai người cùng dâng cúng đức Phật, vì thế mà khuông viên này mang tên cả hai người là Kỳ thụ Cấp cô độc viên (cây của Kỳ đà, vườn của Cấp cô độc). Đã thích nghĩa trong Hội thứ VIII. Ở đây rút gọn lại theo Phật Quang Tự điển, cho cho dễ nhớ.
(3). Các bản dịch có khi nói đến Nhất thiết trí có khi nói đến Nhất thiết trí trí có thể làm cho độc giả thắc mắc hay lẫn lộn. Chúng tôi dùng định nghĩa sau đây của Phật Quang Từ điển một lần nữa để giúp độc giả phân biệt hai trí này:
Nhất thiết trí (一切智) Phạm: Sarvajĩa. Hán âm: Tát bà nhã, Tát vân nhiên. Chỉ cho trí biết rõ tất cả pháp tướng trong ngoài, là 1 trong 3 trí. Kinh Nhân vương hộ quốc Bát nhã Ba la mật-đa quyển hạ (Đại 8, 843 thượng) nói: Đầy khắp cõi vô lậu, thân giải thoát thanh tịnh, vắng lặng chẳng nghĩ bàn, gọi là Nhất thiết trí. Luận Du già sư địa quyển 38 (Đại 30, 498 hạ) nói: Đối với tất cả giới, tất cả sự pháp, tất cả phẩm loại, tất cả thời gian, trí tự tại vô ngại gọi là Nhất thiết trí. Tức là biết rõ sự sai khác của tất cả thế giới, chúng sinh giới, sự pháp hữu vi, vô vi và nhân quả 3 đời quá khứ, hiện tại, vị lai một cách đúng như thực, gọi là Nhất thiết trí. Còn Nhất thiết trí đối với Nhất thiết chủng trí thì có 2 nghĩa tổng và biệt. - Về phương diện tổng: Nhất thiết trí là Phật trí, đồng nghĩa với Nhất thiết chủng trí. Như Hoa nghiêm kinh đại sớ quyển 16 nói: Như lai dùng trí vô tận, biết các pháp vô tận, nên gọi Nhất thiết trí. - Về phương diện biệt: Nhất thiết trí là trí của tính không, xem thế giới bình đẳng, đây là trí của bậc Thanh văn, Duyên giác. Còn Nhất thiết chủng trí là trí của sự tướng, xem thế giới sai biệt, là trí Phật biết rõ tướng bình đẳng tức là tướng sai biệt. Luận Đại trí độ quyển 27 (Đại 25, 258 hạ) nói: Tổng tướng là Nhất thiết trí, Biệt tướng là Nhất thiết chủng trí; nhân là Nhất thiết trí, quả là Nhất thiết chủng trí; nói lược là Nhất thiết trí, nói rộng là Nhất thiết chủng trí. (...) Nhất thiết trí là trí của Thanh văn và Duyên giác; Đạo chủng trí là trí của các Bồ Tát, Nhất thiết chủng trí là trí của Phật. [X. luận Đại tì bà sa Q.15; luận Tạp a tì đàm tâm Q.8; Đại thừa nghĩa chương Q.19]. (xt. Nhất Thiết Chủng Trí).
Vậy, tùy trường hợp mà xử dụng hai cụm từ Nhất thiết trí và Nhất thiết trí trí. Các bản dịch cũng như một số sách Phật đôi khi dùng cụm từ Nhất thiết trí để thay thế Nhất thiết trí trí, nghĩa là Nhất thiết trí cũng là trí biết tất cả chủng loại của chư Phật. Nhưng không có trường hợp ngược lại, nghĩa là không thể dùng cụm từ Nhất thiết trí trí của chư Phật để chỉ trí của Thanh văn. Cái gì do dịch giả dịch chúng tôi giữ nguyên, không sửa đổi. TB
Lược giải:
Được Phật ân cần khuyên bảo ba lần, nương theo thần lực của Phật, cụ thọ Xá lợi Tử đem pháp bố thí Ba la mật dạy bảo, trao truyền cho các Bồ Tát:
- Đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên duyên vào Nhất thiết trí trí, dùng đại bi làm đầu để tu hành bố thí Ba la mật. Nếu Bồ Tát nào duyên vào Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu tu hành bố thí Ba la mật, đại Bồ Tát ấy có thể nhiếp thọ Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.
Bồ Tát Đại thừa thực hành bố thí hóa độ toàn thể chúng sanh và hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Trong khi Nhị thừa thực hành bố thí chỉ để hồi hướng đến quả vị Thanh văn hay Độc giác Bồ đề để sớm mong chứng thật tế vào Niết bàn. Cả hai bậc Bồ Tát và Thanh văn cùng làm việc phước nghiệp như nhau nghĩa là cùng tu hành bố thí nhưng hạnh nguyện hoàn toàn khác nhau, nên kết quả cũng khác.
Bồ Tát vì hạnh nguyện cao cả nên nhiếp thọ căn lành viên mãn mau chứng Vô Thượng Bồ đề để đạt Nhất thiết trí trí, trong khi Nhị thừa chỉ muốn được Niết bàn, chỉ lo cho cá nhân được giải thoát. Nên chúng ta không lấy làm lạ khi đọc toàn bộ Đại Bát Nhã chỗ nào Phật cũng chê trách Nhị thừa là vậy! Nên Kinh nói: “Thanh văn thực hành bố thí để hồi hướng đến quả vị Niết bàn, A la hán. Còn Bồ Tát thực hành bố thí để hồi hướng về Bồ đề Nhất thiết trí trí. Đó là sự sai khác”.
Nhưng bố thí chỉ viên mãn khi Bồ Tát bố thí không chấp trước (ngã-ngã sở, không chấp tướng căn lành, không chấp trước kẻ thí, kẻ thọ, vật thí, tánh thí, quả thí, duyên thí... Đó gọi là bố thí thanh tịnh, còn gọi là tam luân không tịch. Phẩm thứ nhất, quyển 4, tập 1, Đại Trí Độ Luận, nói rằng: “...Nếu không rõ mình là “vô ngã”, người thọ thí là “vô nhân”, vật thí là “vô chủ”, thì bố thí như vậy vẫn còn bất tịnh, chỉ hưởng được phước báo mà chẳng đến được Phật đạo. Phải biết rõ “vô ngã”, “vô nhân”, “vô chủ”, nghĩa là biết rõ “người cho”, “người nhận”, và “vật cho” đều tự tánh không, đều bất khả đắc, mới thật là đầy đủ đàn na Ba la mật”) và tùy hỷ hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề mới gọi là bố thí Ba la mật chơn tịnh. Có làm được như vậy tâm tùy hỷ của Bồ Tát mới siêu vượt hơn phước đức hành bố thí của thế gian.
Vì vậy, nên Xá lợi Tử nói với Mãn Từ Tử:
- “Các đại Bồ Tát nên đem việc phước nghiệp tương ưng với tâm tùy hỷ, bố thí cho tất cả hữu tình trong thế giới khắp mười phương và nguyện cho tất cả hữu tình trong mười phương ấy đều vĩnh viễn thoát khỏi sanh tử trong đường ác. Đối với những người chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề, thì làm cho họ nhanh chóng phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì giúp cho họ mãi mãi không thối lui. Đối với những người không thối lui quả vị Vô thượng Bồ tề, thì giúp họ mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí.
(...) Các vị Bồ Tát này càng xả bỏ các căn lành, bố thí cho loài hữu tình thời càng nhiếp thọ bố thí Ba la mật. Các vị Bồ Tát này càng nhiếp thọ bố thí Ba la mật thời càng ngày càng tăng trưởng tất cả Ba la mật. Các vị Bồ Tát này càng tăng trưởng tất cả Ba la mật thời càng gìn giữ vô lượng căn lành thù thắng. Các vị Bồ Tát này càng gìn giữ vô lượng căn lành thù thắng thời càng ngày càng gần Nhất thiết trí trí”.
Do xả bỏ rốt ráo, nên đối tất cả pháp không pháp nào chẳng hiện chứng, không pháp nào chẳng biết khắp. Vì vậy, Bồ Tát càng dễ đạt Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bỏi lý do đó, Phật bảo:
- “Sự thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh của Bồ Tát là phát tâm Vô Thượng Bồ đề không thối chuyển. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh nhất là các pháp tánh, Như Lai tánh, tự nhiên giác tánh và quả vị Vô Thượng Bồ đề tánh. Các Bồ Tát nào phát tâm Vô Thượng Bồ đề không thối chuyển, thì nhất định sẽ thành tựu pháp mầu nhiệm, rộng lớn, thanh tịnh này”.
Nhưng bố thí dù dưới hình thức nào cũng phải có phương tiện thiện xảo, lấy tâm từ bi hỷ xả bình đẳng thương xót hữu tình, tất cả vì hữu tình, do hữu tình, bởi hữu tình mới có thể xả bỏ trong ngoài, tiền bạc của cải kể cả thân mạng v.v... “Rốt lại, Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, thì phải đem căn lành ban cho hữu tình cùng hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề, nguyện cùng hữu tình đồng chứng đắc Nhất thiết trí trí”.
Chúng ta tụng tiếp quyển 580, phần “Bố Thí Ba La Mật”.
Quyển thứ 580
(Phát tâm liên tục, dứt trừ các chướng ngại để cầu Nhất thiết trí trí)
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, trong tất cả các hạnh, trước tiên nên học bố thí Ba la mật vô nhiễm. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu học bố thí Ba la mật, thì thân tâm phải liên tục mau chóng xa lìa san tham, keo bẩn đã huân tập từ vô thỉ kiếp đến nay, mới dần dần thân cận Nhất thiết trí trí. Vì vậy, Bồ Tát càng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí hiện tiền liên tục, thời càng gần Nhất thiết trí trí. Càng gần Nhất thiết trí trí, thì càng xa lìa bậc Thanh văn và Độc giác. Càng xa lìa bậc Thanh văn và Độc giác, thời càng tiến đến Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Như khi trời mưa, để vò ở chỗ cao hứng nước mưa. Nước mưa dần dần đầy vò. Khi đầy như vậy là do giọt mưa rơi xuống liên tục, từ đầu đến cuối chảy vào đó không bị gián đoạn. Bồ Tát cũng vậy, chẳng phải cầu Nhất thiết trí chỉ phát tâm ban đầu mà chứng đắc được, cũng chẳng phải sau khi ngồi tòa Bồ đề, khởi tâm tối hậu mà chứng đắc được. Nhưng do phát tâm liên tục từ lúc mới phát tâm cho đến ngồi tòa Bồ đề khởi tâm tối hậu triển chuyển liên tục mà cầu Nhất thiết trí, đắc Nhất thiết trí. Tâm ở chặng đầu, giữa, sau đều hướng Nhất thiết trí, chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, cốt yếu là do các tâm nối nhau liên tục, dứt trừ các pháp chướng ngại mới thành tựu được.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát muốn mau chứng đắc Vô thượng Bồ đề, thì không nên để tâm bị xen tạp.
Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:
- Lúc nào gọi là tâm các Bồ Tát không bị xen tạp?
Xá lợi Tử đáp:
- Nếu các Bồ Tát khi hành động phi lý mà chính ngay lúc đó quán biết rõ, tức còn tùy thuận với Nhất thiết trí trí không trái nghịch. Ngang đây phải biết tâm các Bồ Tát không bị xen tạp.
(Quán thuận nghịch hỗ trợ nhau)
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát quán các pháp thuận nghịch đều năng hỗ trợ nhau để tiến đến Nhất thiết trí trí, tức các Bồ Tát đây nhờ phương tiện khéo léo quán biết tất cả pháp đều năng tùy thuận sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không bị sự thuận nghịch làm xen tạp tâm. Đối với cảnh nghịch tâm không sân hận, đối với cảnh thuận tâm không ái nhiễm. Nếu nghịch hay thuận đều biết đúng, nó hỗ trợ nhau, làm duyên dẫn đến Nhất thiết trí trí. Bồ Tát như vậy trong tâm không bị xen tạp đối với tất cả thời, tất cả cảnh.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Ví như có người bị kẻ khác bắt giam, dẫn đến chỗ hành quyết. Người kia run sợ, không còn tưởng việc gì khác, chỉ nghĩ như vầy: Chẳng bao lâu nữa nhất định ta sẽ bị chúng giết hại. Các Bồ Tát cũng lại như vậy, nếu thường suy nghĩ về Nhất thiết trí trí, thì trong thời gian đó không có suy nghĩ gì, và trong mọi lúc, tâm các Bồ Tát không bị điều khác xen tạp.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Ví như có người đem nhiều châu báu vào nơi đồng vắng, trong ấy có nhiều giặc cướp hung bạo. Bấy giờ người kia không còn tưởng gì khác, chỉ nghĩ như vầy: Lúc nào ta sẽ ra khỏi chỗ hiểm nạn này để đến nước giàu sang yên ổn? Các Bồ Tát cũng lại như vậy, nếu thường suy nghĩ về Nhất thiết trí trí, thì những suy nghĩ khác không khởi lên được. Thân, ý của các Bồ Tát này thanh tịnh, tâm không bị điều khác xen tạp.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Ví như có người từng làm trộm cướp, bị vua tìm bắt. Người kia sợ sệt, trốn vào trong chợ, núp chỗ ồn ào đông đảo để lẩn trốn. Chính ngay nơi đó, đánh trống, thổi kèn, đọc sắc lệnh nhà vua muốn bắt y. Khi đó, người kia không còn tưởng điều gì khác, chỉ nghĩ: Chớ để họ biết ta ở đây, nếu thấy thì sẽ bị bắt trói. Các Bồ Tát cũng lại như vậy, vì muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nên thường suy nghĩ về Nhất thiết trí trí, mọi suy nghĩ khác không thể khởi lên. Thời gian tu hành của các Bồ Tát này như vậy nên không bị điều gì khác xen tạp tâm.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Ví như thợ vàng, có người đem thỏi vàng đến trao tận tay ông ta và nói: “Vật này, vua bảo giao cho ngươi, hãy làm thành những đồ trang sức quí báu và đẹp. Phải hết lòng làm gấp hoàn tất trong một tháng. Nếu như không hoàn thành hoặc làm xấu xí, đầu ngươi sẽ mất nhất định không tha”. Người thợ vàng nghe thế, thân tâm run sợ, ngày đêm siêng năng gắng sức làm việc, không dám nghĩ chuyện gì khác, chỉ nghĩ: Ta phải làm thế nào để đúng kỳ hạn cho vua và vật trang sức phải thật đẹp. Trong thời gian vật trang sức chưa hoàn thành, người kia dù có ăn uống v.v… nhưng hoàn toàn không nghĩ đến ngon dở v.v..., chỉ để tâm nơi thỏi vàng và liên tục suy nghĩ làm thế nào để sáng tạo các kiểu trang sức thật đẹp. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì người kia rất quí trọng thân mạng. Đúng kỳ hẹn, người thợ vàng hoàn thành các vật trang sức đẹp, đem đến chỗ vua tâu: “Tâu bệ hạ! Các vật trang sức quý báu mà bệ hạ chỉ thị, bề tôi làm nay đã hoàn tất”.
Vua thấy rất vui mừng, an ủi người kia:
“Ngươi vâng theo sắc lệnh của ta, có công rất lớn. Đáng lẽ phải làm mười hai tháng mới xong. Ngươi chỉ làm trong vòng một tháng hoàn thành tất cả”.
Vua liền đem nhiều vật quý báu ra ban thưởng. Các Bồ Tát cũng lại như vậy. Từ lúc mới phát tâm cho đến tối hậu định Kim cương dụ sắp hiện tiền. Trong khoảng thời gian đó, tâm chưa hề xen tạp điều gì khác, chỉ cầu phát Nhất thiết trí trí. Như người thợ vàng kia tiếc thân mạng mình, trong khoảng thời gian đồ trang sức chưa xong, chỉ dốc tâm chế tạo, chưa hề để vọng tưởng xen tạp. Bồ Tát cũng vậy, vì tôn trọng Bồ đề, khoảng thời gian chưa chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, tâm thường suy nghĩ về Nhất thiết trí trí. Trong khoảng thời gian đó, không có một suy nghĩ nào khác. Đây gọi là tâm không bị điều khác xen tạp.
Nếu các Bồ Tát cầu Nhất thiết trí trí, có thể an trụ tâm như vậy không để xen tạp, tinh tấn tu hành hạnh Bồ đề, mau chóng viên mãn tư lương Bồ đề. Các Bồ Tát khác vì tu Bồ Tát hạnh mà để tâm xen tạp nên phải trải qua vô số kiếp mới được viên mãn tư lương quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các Bồ Tát này không trải qua trăm kiếp mới có thể viên mãn. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ Tát này cầu Nhất thiết trí trí, không để nghĩ tưởng khác xen tạp trong tâm đại Bồ đề dù chỉ chốc lát, nên không có tạp tâm khi tu Bồ Tát hạnh, nên không phải trải qua trăm kiếp mới viên mãn, chứng đắc tư lương quả vị Vô thượng Bồ đề.
Nếu tâm bị xen tạp liên tục thì sẽ không thành tựu tư lương Bồ đề. Tâm ít bị điều gì xen tạp liên tục, liền thành tựu tư lương Bồ đề, vì thường tăng trưởng việc tinh tấn trong từng sát na. Như vậy, Bồ Tát muốn cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, dẫn đến việc viên mãn tư lương mau chóng, thì phải siêng năng dùng phương tiện không điên đảo để tâm không bị xen tạp. Nếu được tâm như vậy dễ chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:
- Tâm không xen tạp thì lấy gì làm tánh? Những suy nghĩ gì làm tâm bị xen tạp? Do tâm có đây, kia nên gọi là xen tạp, chúng Bồ Tát phải xa lìa nó thế nào?
Xá lợi Tử đáp:
- Nếu các Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo chỉ cầu Nhất thiết trí trí, không suy nghĩ gì khác thì khỏi bị xen tạp. Tâm không xen tạp lấy đâu làm tánh? Nếu tác ý tương ưng với Thanh văn thừa, Độc giác thừa thì xen tạp tâm đại Bồ đề, đều gọi là Bồ Tát tác ý phi lý. Vì sao? Vì tác ý Nhị thừa nên trái nghịch với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu ai khởi tâm kia ngay hiện tiền thì không viên mãn tư lương Bồ đề, lại vui mừng an lạc Niết bàn, nhàm chán sanh tử. Đối với điều đó, Bồ Tát phải nên tránh xa, phải nghĩ như vầy: Nếu ta tác ý Nhị thừa sẽ xa lìa Nhất thiết trí trí, thuận theo Niết bàn, không nên để điều đó xen tạp trong tâm ta.
(Phiền não tức Bồ đề)
Thà là chúng Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo, thọ thân đời sau chịu các phiền não để làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Y vào đó tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, làm cho được viên mãn.
Y vào đó tu học 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, làm cho được viên mãn; y vào đó tu học 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, các pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, thập địa Bồ Tát, năm loại mắt, sáu phép thần thông cho được viên mãn; y vào đó tu học Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng v.v…, vô lượng, vô biên công đức chư Phật, làm cho được viên mãn.
Phiền não như vậy có thể hộ trì Bồ Tát, khiến chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, chẳng phải tác ý như các Thanh văn, Độc giác. Vì tác ý Thanh văn, Độc giác ngăn cản đại Bồ đề cũng phá vỡ tư lương Bồ Tát, không cho viên mãn. Nếu tâm của chúng đại Bồ Tát bị tác ý kia xen tạp thì càng xa quả vị Vô Thượng Bồ đề. Vì vậy, tâm các Bồ Tát không nên xen tạp tác ý như các Thanh văn, Độc giác. Các Bồ Tát vì cầu đại Bồ đề nên phải tránh xa nó, đừng cho tạm khởi. Thân ở nơi các cõi phải tùy thuận tác ý phiền não, dẫu vậy cũng chẳng bị coi là xen tạp lắm đối với tâm Bồ Tát.
Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ Tát cầu đại Bồ đề chỉ vì muốn độ các hữu tình nên mặc giáp tinh tấn, an trụ lâu dài trong sanh tử để làm lợi ích lớn, không nên suy nghĩ mau chóng chấm dứt phiền não. Do suy nghĩ này, nên ngay hiện tiền thân thọ lâu dài ở các cõi. Y vào đó mà giữ gìn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng, vô biên Phật pháp khác đều được viên mãn. Tác ý tương ưng với phiền não như vậy sẽ tùy thuận hộ trì các Bồ Tát ở thân sau, đưa đến quả vị Vô Thượng Bồ đề. Từ khi chưa chứng Bồ đề cho đến lúc chưa ngồi tòa Bồ đề diệu pháp, thì không dứt sự mong cầu. Tác ý như vậy không nên diệt trừ hẳn.
Vì vậy, chúng đại Bồ Tát, nếu ngay khi hiện tiền khởi phiền não, thì không nên quá nhàm chán sanh tử. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì chúng Bồ Tát đối với các phiền não nhớ nghĩ có ơn, nên nghĩ như vầy: Do điều kia nên đưa ta đến các loại tư lương Bồ đề, làm cho mau chóng viên mãn, điều kia đối với ta có ơn đức lớn. Vì sao? Vì cũng như thiện pháp khác mang lại lợi ích cho ta nên ta kính trọng. Phiền não cũng vậy, không nên chán ghét. Đối với các phiền não và cảnh giới kia, Bồ Tát xem như phương tiện thiện xảo nên phải kính trọng sâu xa như kính Phật Thế Tôn.
Vì sao? Vì các Bồ Tát này biết dùng phương tiện thiện xảo suy nghĩ: Do phiền não các cõi chưa dứt hẳn, nên ta phải tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác đều được viên mãn. Nhân điều này nên phát Nhất thiết trí trí. Từng giờ từng giờ tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn. Từng lúc từng lúc làm cho phiền não các cõi lần lượt được bào mòn, cho đến hoàn toàn chấm dứt, liền chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Ví như người buôn dùng xe chở nhiều vật quí báu nặng đến thành lớn rất xa. Từng giờ từng giờ, xe kia vận chuyển tiến dần, tiến dần về phía trước; từng lúc từng lúc các bộ phận trục, vành v.v... bánh xe mòn dần dần, nhưng cũng từ từ vào được thành lớn. Một khi các bộ phận của xe bị hư hoại thì sự việc đã thành tựu rồi, người chủ không hối tiếc nữa.
Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo cũng như vậy, với phiền não dựa vào thân để hộ trì. Từng giờ từng giờ do phiền não hộ trì thân liên tục, khi ấy, từng lúc từng lúc bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn. Từng phút từng giờ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng, vô biên Phật pháp khác dần dần viên mãn; khi ấy, các phiền não dần dần suy giảm. Cho đến lúc các phiền não dần dần suy giảm; thì đã gần kề Nhất thiết trí trí.
Đến khi Bồ Tát chứng đại Bồ đề, bấy giờ các phiền não y vào thân đều được dứt trừ. Những việc cần làm đã làm xong, không còn thọ thân phiền não, như xe đã vào thành rồi không cần dùng xe. Phiền não như vậy đối với đại Bồ đề tuy là chướng ngại nhưng có sức hộ trì tư lương Bồ đề. Vì vậy, Bồ Tát chưa ngồi tòa Bồ đề diệu giác thì chưa diệt trừ hẳn. Nếu được Bồ đề thì tất cả đều chấm dứt.
(Có lẽ đoạn kinh này làm cho chúng ta suy nghĩ nhiều: Phiền não tức Bồ đề là ơn đức lớn, phải biết ơn như biết ơn Thế Tôn. Chúng ta thường nghe câu nói này trong ĐBN. Vì sao? Vì phiền não chướng và sở tri chướng là 2 chướng ngại to lớn đối với Bồ đề. Vì vậy, tu là để đoạn trừ phiền não. Một khi trừ được phiền não thì được chứng Bồ đề. Nên chúng ta biết ơn nó. Chúng ta hiểu việc này. Nhưng dùng phiền não như là một phương tiện hộ trì cho sự hành đạo là một điều khó hiểu đối với chúng ta? Muốn sống lâu trong cõi dục để có đủ thời gian phục vụ chúng sanh, dĩ nhiên có nhiều phương cách không riêng nhờ nhiều phiền não để được ở lâu trong nhân gian mà phụng sự chúng sanh. Tu cứ tu miễn đừng sớm chứng đắc! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là một thí dụ: Ngài, trong nhiều đời nhiều kiếp quay đi lộn lại cõi Dục đầy phiền não để hóa độ chúng sanh theo thệ nguyện, chắc hẳn có thể dùng các phương tiện khác phục vụ chúng sanh, hộ trì tư lương Bồ đề thay vì dùng phiền não? Vì phiền não bao giờ cũng đi ngược giác ngộ, phải xa lìa hơn là dung dưỡng nó).
Nếu có hữu tình đến chỗ Bồ Tát trước thì khinh khi chưởi mắng, sau lại cầu xin tài pháp, thì Bồ Tát hoan hỉ bố thí cho, nghĩ như vầy: Hữu tình này đến chỗ ta, cho ta ơn đức lớn, khiến ta thành tựu bố thí, an nhẫn. Do đó chứng đắc Nhất thiết trí trí. Ta nhờ người này nên phát tâm tăng thượng, đạt đến đại Bồ đề thù thắng hơn cảnh giới khác. Vì vậy, trong các tác ý của Bồ Tát này, chỉ trừ tác ý tương ưng với Nhị thừa, còn các tác ý khác đều không chán bỏ. Vì đối với sự chứng đắc Nhất thiết trí trí đều có sức hộ trì này.
Khi ấy, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:
- Chẳng lẽ Nhị thừa đối với Nhất thiết trí trí không có sức hộ trì sao? Nghĩa là các Thanh văn cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ Tát, giúp cho họ siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng, vô biên Phật pháp khác. Hoặc các Độc giác cũng làm ruộng phước, cúng dường y phục, thức ăn cho các Bồ Tát, mau chóng chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vậy tại sao nói tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác là không có sức hộ trì Nhất thiết trí trí và tư lương này?
(Nhị thừa cũng có thể hộ trợ Nhất thiết trí trí chăng?)
Xá lợi Tử liền trả lời cụ thọ Mãn Từ Tử:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Thanh văn, Độc giác đều có sức hộ trì Nhất thiết trí trí và tư lương này. Nghĩa là các Thanh văn cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ Tát, giúp họ siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ Tát, giúp họ siêng năng tu học 18 pháp Không; bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; 37 pháp trợ đạo; cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ Tát, giúp họ siêng năng tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ; Tam giải thoát môn, thập vị tam thừa hay Bồ Tát thập địa; cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ Tát, giúp họ siêng năng tu học pháp môn Đà la ni, Tam ma địa; năm loại mắt, sáu phép thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; cũng có thể dạy dỗ, giáo huấn Bồ Tát, giúp họ siêng năng tu học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; giáo huấn Bồ Tát, giúp họ siêng năng tu học tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật.
Thanh văn cũng có sức hộ trì Nhất thiết trí và tư lương này hoặc Độc giác cũng có thể làm như vậy bằng cách cúng dường cho Bồ Tát, rồi Bồ Tát nhờ vật thực đầy đủ này sinh sống tu tập hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vậy nên, có thể nói Độc giác cũng có sức hộ trì Nhất thiết trí trí và tư lương này.
Nhưng tự riêng mình, Thanh văn Độc giác không có sức hộ trì Nhất thiết trí trí và tư lương này. Vì sao? Vì Nhị thừa thường nhàm chán sanh tử, ưa thích Niết bàn, chỉ mong mau chứng thực tế để tự giải thoát, từ bỏ đại Bồ đề và chúng sanh đau khổ ở thế gian. Do đó, nên nói Bồ Tát không nên khởi tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác. Vì tác ý đó hoàn toàn không tùy thuận với các Bồ Tát cầu Phật quả và làm lợi ích hữu tình.
Vì sao nói các Bồ Tát không nên phát khởi tâm Nhị thừa, cũng không nên tu trí Nhị thừa? Vì đó là chướng ngại cho việc chứng đắc Nhất thiết trí trí. Cho nên, nói tâm hoặc trí của A la hán đối với Bồ Tát thừa cũng có ơn đức, vì nhờ từ bỏ tâm trí này nên Bồ Tát mau đắc Nhất thiết trí trí, làm lợi ích an vui cho hữu tình đến tận đời vị lai.
Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo như vậy, quán các hữu tình và tất cả pháp, đều tùy thuận theo thế lực Nhất thiết trí và tư lương này, cho nên không chán bỏ tất cả tâm.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật, tuy có xả bỏ tiền tài, châu báu v.v…, nhưng không nhớ nghĩ chấp tướng. Nghĩa là nếu xả bỏ tất cả tướng, tất cả pháp, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, thì có thể mau chứng Nhất thiết trí trí.
(Lìa tất cả tướng, hồi hướng Bồ đề mới được lợi ích lớn)
Nếu không bỏ tâm hồi hướng Bồ đề, mà muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình thì hoàn toàn không đắc Nhất thiết trí trí.
Nếu các Bồ Tát được nhiều loại châu báu như vàng, bạc v.v…, tuy gọi là có lợi nhưng chưa gọi là lợi lớn. Nếu các Bồ Tát xả bỏ tất cả châu báu như vàng, bạc v.v... thì mới gọi là được lợi lớn.
Nếu các Bồ Tát xả bỏ tất cả các tướng, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình, mới gọi là thiện lợi vô thượng. Nếu Bồ Tát làm Chuyển luân vương, thống lãnh thế giới bốn châu, được tự tại lớn, tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi lớn. Nếu các Bồ Tát xả bỏ ngôi vị Chuyển luân vương chủ thế giới bốn châu, mới đáng gọi là được lợi lớn. Nếu các Bồ Tát xả bỏ tất cả các tướng, hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình, mới được gọi là thiện lợi vô thượng.
Nếu các Bồ Tát muốn làm vua cõi Dục, thống lãnh cõi Dục, được tự tại lớn, tuy nói được lợi nhưng chưa đáng gọi là được tự tại lớn. Nếu các Bồ Tát xả bỏ ngôi vua tự tại cõi Dục, mới đáng gọi là được tự tại lớn.
Nếu các Bồ Tát xả bỏ tất cả các tướng, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, thì mới đáng gọi được thiện lợi vô thượng.
Nếu các hữu tình xả bỏ các tướng đắc quả Dự lưu, hoặc Nhất lai, hoặc Bất hoàn, hoặc A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi lớn. Nếu các hữu tình xả bỏ tất cả các tướng, hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình, thì mới đáng gọi là được thiện lợi vô thượng.
Nếu đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với trong các lợi kia thì là tối thượng, tối thắng, không gì sánh bằng. Vì sao? Vì các Bồ Tát cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể làm lợi ích lớn cho hữu tình. Còn Thanh văn, Độc giác và các phàm phu không làm việc này.
Nếu các Bồ Tát duyên tưởng tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các đệ tử ở khắp 10 phương, làm các đồ ăn thức uống thượng diệu, y phục, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, phòng xá, tài sản, hương hoa v.v..., đều dâng lên cúng dường, tuy gọi là được lợi nhưng chưa gọi là được lợi vô thượng. Nếu các Bồ Tát không bỏ tướng hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề, muốn làm lợi ích lớn cho hữu tình, thì mới đáng gọi là được thiện lợi vô thượng. Vì sao? Vì các vật thức ăn, nước uống v.v... đều có nhiều tướng. Pháp tướng ở các cõi đều có số lượng. Pháp có số lượng là có phần hạn. Duyên như thế nên không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí không phần hạn.
Nếu các Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo duyên tưởng tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử đầy đủ vô lượng công đức hi hữu, nhưng không chấp lấy tướng. Tuy nhớ nghĩ thức ăn, nước uống vô biên thượng diệu, y phục, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, phòng xá, tài sản, hương hoa v.v… đều dâng cúng dường nhưng không chấp lấy tướng. Tuy hồi hướng quả vị Vô thượng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho hữu tình nhưng không chấp lấy tướng. Do chứng đắc Nhất thiết trí trí này, nên làm lợi ích cho hữu tình đến tận đời vị lai. Nên biết, đây mới đáng gọi là được lợi vô thượng, và đối với tất cả lợi thì đây là lợi đệ nhất.
Nếu các Bồ Tát làm được phương tiện thiện xảo như vậy, tu hành bố thí, thì mới đáng gọi là Bồ Tát ở đỉnh cao, nhất định sẽ đắc Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí rất khó có thể chứng đắc. Như vậy, Bồ Tát có thể xả bỏ tất cả các tướng trong ngoài, tâm không dính mắc, cầu chứng Nhất thiết trí trí như vậy, đối với các Bồ Tát là trên hết, nên đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề tối tôn.
Bồ Tát ở quá khứ, vị lai, hiện tại đã, sẽ và đang chứng đắc Nhất thiết trí trí, đều do sự phát khởi phương tiện thiện xảo như vậy mà chứng đắc.
Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:
- Làm sao Bồ Tát được nhập vào số Bồ Tát đỉnh cao?
Xá lợi Tử đáp:
- Nếu các Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo, không chấp lấy tướng, thì các Bồ Tát này nhập vào số Bồ Tát ở đỉnh cao.
Mãn Từ Tử hỏi:
- Các Bồ Tát này đối với những pháp gì mà không chấp lấy tướng?
Xá lợi Tử đáp:
- Các Bồ Tát này đối với ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới không chấp lấy tướng thường vô thường, tướng vui không vui; tướng ngã vô ngã; không chấp lấy tướng tịnh bất tịnh; viễn ly không viễn ly; tịch tĩnh không tịch tĩnh.
Các Bồ Tát này đối với lục đại chủng không chấp lấy tướng thường vô thường, tướng vui không vui; tướng ngã vô ngã; không chấp lấy tướng tịnh bất tịnh; viễn ly không viễn ly; tịch tĩnh không tịch tĩnh.
Các Bồ Tát này đối với 12 nhân duyên; đối với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc không chấp lấy tướng thường vô thuờng; tướng vui không vui; tướng ngã vô ngã; không chấp lấy tướng tịnh bất tịnh; viễn ly không viễn ly; tịch tĩnh không tịch tĩnh.
Nếu các Bồ Tát nào dùng phương tiện thiện xảo như vậy, không chấp lấy tướng, kể cả tất cả pháp Phật là thường hay vô thường v.v... tu hành bố thí Ba la mật, thì các Bồ Tát này được nhập vào số Bồ Tát đỉnh cao, có thể đắc Nhất thiết trí trí tối tôn.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát biết tất cả pháp đều chẳng phải thật có, xa lìa các tướng mà hành bố thí Ba la mật, thì các Bồ Tát này được nhập vào số các Bồ Tát đỉnh cao, có thể đắc Nhất thiết trí trí tối tôn, cũng có thể giáo hóa tất cả hữu tình làm cho họ phát nguyện chứng Nhất thiết trí trí, mọi mong cầu đều được toại nguyện.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các hữu tình đối với pháp vô tướng chẳng khởi thắng giải, thì chẳng thể phát tâm Nhất thiết trí trí. Nếu chẳng thể phát tâm Nhất thiết trí trí, thì chẳng thể tu Bồ Tát hạnh. Nếu không tu Bồ Tát hạnh, thì không thể đắc Nhất thiết trí trí. Nếu các hữu tình đối với pháp vô tướng có thể phát khởi thắng giải, thì có thể khởi tâm Nhất thiết trí trí. Nếu phát khởi tâm Nhất thiết trí trí, thì có thể tu Bồ Tát hạnh. Nếu tu Bồ Tát hạnh thì có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Lại nữa, này Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát phát tâm cầu Nhất thiết trí trí rồi, tùy theo sự xả bỏ đều biết là Không, vô sở hữu mà hành bố thí Ba la mật. Nghĩa là như thật biết các sự xả bỏ đều như huyễn hóa, chẳng phải như chúng ta đã chấp lấy các tướng từ trước đến nay. Do biết như vậy nên đối với các sở hữu đều có thể xả bỏ, không chấp lấy tướng.
Các hữu tình không như thật biết các pháp chẳng phải có, đều như huyễn hóa. Do khởi tâm kiên cố chấp trước, nên không xả bỏ. Do không xả bỏ, nên nắm giữ keo kiệt. Do keo kiệt nên thân hoại mạng chung đọa vào các đường ác, chịu bần cùng khổ cực. Vì có sở đắc không chịu xả bỏ, lại mỗi lúc càng chấp chặt, keo kiệt càng tăng trưởng. Do đó lại đọa vào các đường ác, chịu nhiều khổ đau. Thọ khổ như vậy đều do chấp tướng.
Nếu các Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo biết pháp chẳng có, đều như huyễn hóa. Đã như huyễn hóa thì phải nên xả bỏ. Huyễn hóa chẳng phải ngã và ngã sở, nên đối với tất cả đều xả bỏ. Vì sao? Vì ngã, ngã sở bất khả đắc, không nên chấp trước. Không chấp trước nên xả bỏ được. Do xả bỏ được nên đối với Chánh pháp mà Phật Thế Tôn đã thuyết thâm tâm càng kính trọng. Nghĩa là suy nghĩ như vầy: Hi hữu thay đức Thế Tôn khéo thuyết các pháp đều như huyễn. Con dựa vào lời dạy của Phật nên xả bỏ tất cả, nghĩa là xả bỏ pháp như huyễn hóa, khiến cho con sẽ đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề như huyễn vô tướng.
Các Bồ Tát này lại nghĩ như vầy: Chư Phật Thế Tôn làm việc khó làm, nghĩa là dạy Bồ Tát như thật biết các pháp chẳng có, đều như huyễn hóa. Do biết rõ nên không sanh chấp trước, ít dụng công sức mà xả bỏ tất cả, mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Thế nên, Bồ Tát này muốn chứng quả Vô Thượng Bồ đề, nên biết các pháp chẳng có, đều như huyễn hóa, xả bỏ xa lìa các tướng, dùng tâm vô tướng siêng năng cầu Nhất thiết trí trí tối cao.
Ngài Mãn Từ Tử! Chớ bảo tôi thuyết pháp như vậy là tự biện tài. Đây đều do sức oai thần của Như Lai.
Bấy giờ, Phật dạy A nan đà:
- Những gì Xá lợi Tử đã thuyết đều nhờ thần lực của Phật, ngươi nên thọ trì. Sau khi Ta Niết bàn nên lưu truyền rộng rãi.
Lược giải:
1. Ai cũng biết có hai thứ phiền não làm chướng ngại Bồ đề: Đó là phiền não chướng và sở tri chướng. Vì vậy, tu là cốt tháo gỡ phiền não trói buộc. Một khi đã đoạn trừ phiền não, đập vỡ được các phiền não nhỏ nhiệm tương tục còn sót lại trong tâm, rồi chỉ trong một sát na tương ưng với diệu huệ thì có thể chứng Vô Thượng Bồ đề. Nói theo sách vở thì quá dễ, nhưng đoạn trừ hay phá vỡ các phiền não vi tế tương tục không phải là dễ. Phật phải mất đến ba A Tăng Kỳ kiếp mới làm được việc này. Nhưng một câu nói mà chư Phật, Thầy Tổ luôn luôn cảnh tỉnh là “phiền não tức Bồ đề”. Tại sao nói phiền não tức Bồ đề? Vì rằng, biết được phiền não luôn luôn đưa con người đến vô minh, khổ lụy. Muốn thoát khỏi vô minh, khổ lụy thì phải đoạn phiền não thì được giải thoát. Nên mới có câu phiền não tức Bồ đề.
Cũng vậy, như câu nói “Mỗi vọng niệm là một hóa thân Phật”. Vọng niệm là cái làm cho mình khổ, nó luôn luôn quấy rầy gặm nhắm tâm thức của chúng ta. Đi đứng nằm ngồi, ăn uống, ngủ nghỉ... nó như những bóng ma ẩn hiện làm cho cuộc sống của chúng ta không được an vui. Muốn sống an vui tự tại thì phải diệt vọng, vọng hết thì chân hiện, báo thân sẽ trở thành hóa thân. Nên, Cổ đức bảo “Mỗi vọng niệm là một hóa thân Phật”.
Tất cả những thứ đó đều nói nghịch, nhưng nhờ nói nghịch chúng ta mới thấy đâu là thuận. Nên Phật bảo: “Nếu thuận nghịch đều biết rõ ràng, nó sẽ hỗ trợ nhau, làm duyên dẫn đến Nhất thiết trí trí. Bồ Tát như vậy tâm không xen tạp đối với tất cả thời, tất cả cảnh, mau chứng Vô thượng Bồ đề”.
Trong “Tín Tâm Minh”, Tổ Tăng Xán nói:
“Đem thuận nghịch chỏi nhau
đó chính là tâm bệnh
chẳng nắm được mối huyền
hoài công lo tịnh niệm”.
So đo phải trái, thiện ác, đúng sai v.v... Đó là đem thuận nghịch chỏi nhau, nên sanh bệnh! Nhưng hiểu rõ đâu là đầu mối thì phải trái, thiện ác v.v... chỉ là những hỗ tương sanh khởi, viên dung vô ngại để tạo thành Thánh trí tự giác. Đó là vượt qua và vượt trên đối đãi thường tình. Nên Tổ Tăng Xán bảo cần nhất là nắm được chỗ huyền chỉ. Một khi nắm được nó rồi thì lo chi đạo lớn không thành.
Phần “Tịnh Giới Ba La Mật”, quyển 588, ĐBN, Phật bảo: “…Phiền não đối với các Bồ Tát có ân đức lớn. Nghĩa là tùy thuận theo Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát quán phiền não có thể hỗ trợ cho việc dẫn đến Nhất thiết trí trí, thì phiền não có ân đức lớn đối với chúng Bồ Tát. Các Bồ Tát nên biết, khi đạt đến sự chứng đắc thì mọi việc đều là phương tiện thiện xảo”. Nếu không hiểu phương tiện là gì, thì câu nói phiền não là ơn đức lớn chỉ là câu nói vu vơ. Phương tiện đây chính là cứu cánh, vì khi chứng đắc rồi thì mọi sự mọi việc đều xong hết!
Đến khi quán thuần thục, công phu vững chắc thì xấu tốt, thuận nghịch gì cũng bỏ. Phải vượt qua, vượt lên các đối thể thì tâm trí mới được như như. Tu chỉ là luyện tâm, luyện trí. Trăm ngàn pháp môn không ngoài tôi luyện cái tâm trí này, giống như người luyện vàng: Nung cho quặng đỏ, đập bỏ chất bẩn để được vàng ròng. Một khi được vàng ròng thì không cần dụng công nữa. Tâm trí một khi chuyển hóa rồi, thì xấu biến thành tốt, mê biến thành ngộ. Chính cuộc sống dạy rằng: Không cay đắng, không khổ đau không phải đời. Cay đắng, khổ đau mới làm cho công hạnh được vuông tròn. Vậy, có câu “Trần trần là báu”, “Sanh tử tức Niết bàn”, “Phiền não tức Bồ đề”, “Mỗi vọng niệm là một hóa thân Phật” đều là những châm ngôn “phản tỉnh” đáng yêu.
Biết sống là phiền não. Vậy mỗi lần bị phiền não thì phải biết, tự nhắc nhở để tránh. Nếu có thể tránh được thì phải biết ơn nó!
2. Điểm đáng lưu ý của quyển 580, phần “Bố Thí Ba La Mật” này, Kinh nhấn mạnh: Phải xả bỏ tướng. Kinh bảo: “Nếu các Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo duyên tưởng tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và chúng đệ tử đầy đủ vô lượng công đức hi hữu, nhưng không chấp lấy tướng. Tuy nhớ nghĩ thức ăn, nước uống vô biên thượng diệu, y phục, ngọa cụ, thuốc men trị bệnh, phòng xá, tài sản, hương hoa v.v…, đều cúng dường nhưng không chấp lấy tướng. Tuy hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho hữu tình nhưng không chấp lấy tướng. Do chứng đắc Nhất thiết trí trí này, nên làm lợi ích cho hữu tình đến tận đời vị lai. Nên biết, đây mới đáng gọi là được lợi vô thượng, và đối với tất cả lợi thì đây là lợi đệ nhất.
Nếu các Bồ Tát thực thi phương tiện thiện xảo như vậy tu hành bố thí, thì mới đáng gọi là Bồ Tát đỉnh cao, nhất định sẽ đắc Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí rất khó có thể chứng đắc. Như vậy, Bồ Tát có thể xả bỏ tất cả các tướng trong ngoài, tâm không dính mắc, cầu chứng Nhất thiết trí trí như vậy, đối với các Bồ Tát là trên hết, nên có thể đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề tối tôn”.
Tất cả pháp từ ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới cho đến tất cả pháp Phật, Bồ Tát không chấp lấy tướng thường-vô thường, tướng lạc-bất lạc; tướng ngã-vô ngã; không chấp lấy tướng tịnh-bất tịnh; viễn ly-không viễn ly; tịch tĩnh-không tịch tĩnh. Nếu các Bồ Tát nào dùng phương tiện thiện xảo như vậy, không chấp tướng kể cả phi tướng, xả bỏ trong ngoài, kể cả thân mạng... coi tất cả là không, vô sở hữu, bất khả đắc như hư không…, rồi hồi hướng Vô thượng Bồ đề mới được lợi ích lớn, mới có thể nhập vào số Bồ Tát đỉnh cao, đắc Nhất thiết trí trí tối tôn đem lại an vui giải thoát cho tất cả hữu tình.
Bồ Tát biết tất cả pháp đều không, chẳng phải thật có, như huyễn như hóa, vô sở hữu, bất khả đắc, nên có thể xả bỏ tất cả, xa lìa các tướng mà hành bố thí Ba la mật thì có thể giáo hóa hữu tình làm cho họ phát nguyện chứng Nhất thiết trí trí, các mong cầu đều được toại nguyện.
Chúng ta tụng tiếp Q.581 của phần “Bố Thí Ba La Mật”:
Quyển thứ 581
(Chẳng có gì để xả, chẳng có gì để đắc)
Lúc bấy giờ, Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều chẳng có thật, thì các Bồ Tát khi hành bố thí có cái gì để xả?
Phật dạy:
- Khi Bồ Tát hành bố thí hoàn toàn không xả gì hết!
Mãn Từ Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát khi hành bố thí hoàn toàn không xả gì hết, thì khi các Bồ Tát này chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đắc cái gì?
Phật dạy:
- Bồ Tát khi bố thí như vậy, đối với tất cả pháp hoàn toàn không có gì để xả, nên khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với tất cả pháp cũng không có gì để đắc. Như khi chúng Bồ Tát hành bố thí, đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sở tổn. Nên khi Bồ Tát chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với tất cả pháp cũng không có sở ích. Hai môn tổn, ích chỉ là tướng đối đãi nhau mà thành lập vậy.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như khi Bồ Tát hành bố thí, biết tất cả pháp đều như huyễn hóa không thật, có thể xả. Như khi Bồ Tát này chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, biết tất cả pháp cũng như huyễn hóa không thật, không thể đắc. Nếu các Bồ Tát hành bố thí, đối với tất cả pháp thật có xả bỏ, thì khi các Bồ Tát này chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng phải đối với pháp thật có chứng đắc. Tuy nhiên khi các Bồ Tát hành bố thí, đối với tất cả pháp thật không có xả bỏ, thì khi Bồ Tát này chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với tất cả pháp thật không có chứng đắc.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như hai nhà huyễn thuật làm trò đùa với nhau. Một bên giả làm thứ có giá trị, một bên hóa làm vật đẹp. Trong hai việc này đều chẳng thật có. Bồ Tát khi hành bố thí cũng như vậy, chẳng thật có vật xả bỏ, nên khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng thật có pháp đắc, tất cả đều như huyễn. Khi các Bồ Tát này bố thí cũng như vậy, thật không có tổn, và khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng không ích.
Các Bồ Tát này khi hành bố thí, tuy thật giống như có tổn nhưng thật sự không hao tổn, nên khi sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tuy giống như có lợi ích nhưng thật không có gì lợi. Cũng như nhà huyễn thuật kia, xả bỏ thứ giá trị huyễn, tuy giống như có hao tổn nhưng thật không hao tổn. Bồ Tát khi hành bố thí cũng lại như vậy, xả bỏ vật chẳng thật, tuy giống như có hao tổn nhưng thật không hao tổn. Như nhà huyễn thuật kia hóa được vật đẹp, tuy giống như có ích nhưng thật không lợi ích. Khi Bồ Tát chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng như vậy, tuy giống như có ích nhưng thật không lợi ích. Pháp dụ như vậy, nhân quả tương xứng, những người có trí phải biết rõ.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như nhà huyễn thuật giỏi hoặc đệ tử ông ta, ở ngã tư đường hóa làm người con gái bỗng nhiên mang thai, ngay đó thấy sanh con, đứa trẻ chỉ sống trong chốc lát lại chết. Ý thầy thế nào? Người con gái kia đối với đứa con có vui mừng khi sanh, có đau buồn khi nó chết không?
Mãn Từ Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nàng kia và con của cô ta đều là huyễn có, thật không có sanh tử, thì ai đối với ai mà có thể sanh vui buồn.
Phật dạy:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Các Bồ Tát cũng lại như vậy, khi hành bố thí không có xả bỏ, không có tổn hoại, nên khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không có chứng đắc, không có lợi ích. Cho nên khi Bồ Tát hành bố thí, tuy có sự xả bỏ nhưng không có ưu phiền, và khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tuy có sự chứng đắc nhưng không phấn khởi. Vì biết xả hay chứng đều như huyễn hóa.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ý ngươi thế nào? Ngươi có cho Như Lai đối với các thiện pháp có mong muốn lắm không?
Mãn Từ Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Không có. Bạch Thiện Thệ! Không có. Vì sao? Vì Như Lai sở chứng các pháp đều Không. Như Lai năng chứng các pháp cũng là Không, vì trong Không hoàn toàn không có năng sở.
Phật dạy:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Như Lai quán tất cả pháp đều Không. Trong thiện pháp cũng không có mong muốn lớn. Như Ta ngày nay đối với tất cả pháp hoàn toàn không có mong muốn. Ngày xưa, khi làm Bồ Tát, tuy hành bố thí nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có xả bỏ, thấu rõ các pháp rốt ráo Không. Chư Phật Thế Tôn đối với tất cả pháp không sân không ái. Vì sao? Vì thông đạt các pháp đều chẳng thật có, bản tánh là Không, tịch tĩnh nên sân, ái chấm dứt.
Mãn Từ Tử liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Các đại Bồ Tát đối với các pháp có sự xả bỏ. Như vậy rõ thấu các pháp đều không, hư dối chẳng thật, tánh chẳng bền chắc, nên được tự tại, không sở chấp đắm. Như con hiểu nghĩa lời Phật dạy các đại Bồ Tát, tuy đem châu báu đầy khắp hằng hà sa số thế giới bố thí cho các hữu tình, nhưng trong đó không nghĩ: Ta đã bố thí châu báu. Đối với việc ấy không sự chấp trước nên khiến cho bố thí Ba la mật mau được viên mãn. Bồ Tát như vậy là dùng bố thí tu tập thiện căn, đem cho các hữu tình một cách bình đẳng, rồi cùng nhau hồi hướng Vô Thượng Bồ đề. Làm việc đó rồi, lại nghĩ như vầy: Pháp của Bồ Tát là nên xả tất cả. Ta bây giờ tuy xả vật đáng xả nhưng vật đã xả đều như huyễn hóa. Nếu đại Bồ Tát biết như vậy, thì đại Bồ Tát này nhập vào số Bồ Tát. Tuy xả tất cả nhưng không xả gì cả. Tuy đắc tất cả nhưng không có chứng đắc. Nếu các Bồ Tát không biết rõ điều đó như vậy, thì chẳng phải chơn Bồ Tát. Nếu không thể xả bỏ tài sản, bố thí giáo pháp, thì không thể chứng đắc đại Bồ đề.
(Bồ Tát nên dùng những tâm gì hành bố thí?)
Bấy giờ, Xá lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:
- Các đại Bồ Tát nên dùng những tâm gì hành bố thí?
Mãn Từ Tử đáp:
- Thưa Tôn giả Xá lợi Tử! Tôn giả hãy giải nghĩa cho chúng tôi nghe trước. Sau đó với nghĩa này tôi cũng sẽ nói thêm.
Xá lợi Tử liền nói với cụ thọ Mãn Từ Tử:
- Nếu đại Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, thì đại Bồ Tát này trước hết phải suy nghĩ tánh tất cả pháp hoàn toàn Không, tịch tĩnh. Kế đến nên suy nghĩ Nhất thiết trí trí đầy đủ công đức thù thắng. Sau nữa, nên thương xót tất cả hữu tình nghèo thiếu của cải, chịu nhiều đau khổ. Nghĩ như vậy rồi, liền xả tất xả, hoặc có chấp thọ, hoặc không chấp thọ, tiền tài châu báu trong hay ngoài đều bố thí cho các hữu tình, tâm không chấp trước. Cũng dùng chánh pháp bố thí cho các hữu tình. Cũng dùng vô biên phẩm vật thượng diệu, cung kính dâng lên Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Các đại Bồ Tát khi hành bố thí như vậy, duyên Nhất thiết trí, tâm không chấp trước nên hành bố thí. Bố thí như vậy là tùy thuận Bồ đề, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Các đại Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên quán pháp Không, duyên Nhất thiết trí đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình mà hành bố thí, tâm không chấp trước. Nếu tu hành bố thí như vậy thì mau chứng Vô Thượng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.
(Phật dùng thần lực cho Xá lợi Tử và đại chúng thấy
Bồ Tát ở thế giới 10 phương hành bố thí)
Lại nữa, Xá lợi Tử! Bây giờ, ngươi muốn thấy Bồ Tát ở mười phương thế giới hành bố thí không?
Xá lợi Tử thưa:
- Cúi xin Thế Tôn! Con muốn thấy.
Khi ấy, Xá lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật liền thấy ở phương Đông, qua trăm thế giới có đông đảo đại chúng, Thanh văn, Bồ Tát vây quanh Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, để nghe Ngài tuyên thuyết bố thí Ba la mật, đầy đủ công đức thù thắng, đạt được quả báo lớn. Cõi kia có Bồ Tát tên là Vô Ngại, tuy ở cư gia nhưng không chấp trước điều gì, xả bỏ các vật sở hữu, bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của các hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi lại đem cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.
Xá lợi Tử và đại chúng, tất cả lại thấy Bồ Tát Vô Ngại có trăm ngàn xe vàng làm bằng bảy báu. Mỗi một xe chở một bảo nữ, hình mạo đoan trang đầy đủ vẻ đẹp. Mỗi một bảo nữ có một trăm thị nữ theo hầu, đều cưỡi một xe, trang hoàng các vật báu. Trên mỗi xe để trăm ngàn vàng và đầy đủ các vật dụng cá nhân, không thiếu thứ gì. Đến để ở chợ, cất tiếng: “Ai cần vật gì, cứ tùy ý lấy”.
Hành bố thí như vậy nhưng không nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.
Bấy giờ, Phật hỏi Xá lợi Tử:
- Ngươi có thấy Bồ Tát Vô Ngại ở phương Đông, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?
Xá lợi Tử liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.
Phật dạy:
- Bồ Tát cầu đại Bồ đề, đều nên tu hành bố thí như vậy. Lại nữa, Xá lợi Tử! Ý ngươi thế nào? Bồ Tát Vô Ngại bố thí có rộng lớn không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Bồ Tát Vô Ngại bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.
Phật dạy:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Nhưng nếu có Bồ Tát nào quán pháp Không, duyên nơi Nhất thiết trí trí, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, hơn gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của Bồ Tát Vô Ngại đạt được ở phương Đông kia.
Xá lợi Tử và đại chúng lại nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông, hằng hà sa số thế giới chư Phật ở phương Đông, cho đến vô số hằng hà sa số thế giới ở phương Đông. Mỗi một thế giới có vô lượng vô số Bồ Tát đều xả bỏ vật sở hữu bố thí tất cả. Của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi lại đem cho người khác tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán.
Rồi Phật hỏi Xá lợi Tử:
- Ngươi có thấy trăm ngàn thế giới ở phương Đông, mỗi một thế giới có vô lượng vô số Bồ Tát, tâm không nhiễm trước mà hành bố thí không?
Xá lợi Tử liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Bạch Thiện Thệ! Con đã thấy.
Phật dạy:
- Bồ Tát cầu đại Bồ đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Xá lợi Tử! Ý ngươi thế nào? Các Bồ Tát kia bố thí có rộng lớn không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ Tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.
Phật dạy:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Nhưng nếu có Bồ Tát nào quán pháp Không, duyên Nhất thiết trí trí, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng vô số Bồ Tát đạt được ở một thế giới, hoặc ở trăm ngàn thế giới, hằng sa số thế giới, cho đến vô số hằng sa số thế giới ở phương Đông.
Xá lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật lại thấy trăm ngàn thế giới, hằng hà sa số thế giới cho đến vô số hằng hà sa số thế giới chư Phật ở chín phương còn lại cũng lại như thế. Rồi Phật bảo:
- Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát nào muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, làm lợi lạc hữu tình đến tận đời vị lai, thì phải nên quán pháp Không, duyên nơi Nhất thiết trí, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình chịu nhiều đau khổ thiếu thốn, nên hành bố thí Ba la mật. Đem thiện căn này bố thí khắp tất cả, giúp họ thoát khỏi đường ác và các nỗi khổ sanh tử. Lập nguyện rằng: “Các hữu tình ở mười phương thế giới do nhờ oai lực công đức thiện căn của Ta, ai chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề thì mau chóng phát tâm. Ai đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì khiến vĩnh viễn không thối chuyển. Nếu đối với Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không thối chuyển, thì mau viên mãn Nhất thiết trí trí”.
Lược giải:
1. Xả bỏ cũng chẳng xả bỏ gì, chứng đắc cũng chẳng chứng đắc gì,
vì tất cả pháp đều không, vô sở hữu, bất khả đắc
như huyễn như mộng.
Vì vậy, Phật bảo Xá Lợi Tử:
“Bồ Tát khi bố thí như vậy, đối với tất cả pháp hoàn toàn không có gì để xả, nên khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với tất cả pháp cũng không có gì để đắc. Như khi chúng Bồ Tát hành bố thí, đối với tất cả pháp hoàn toàn không có sở tổn. Nên khi Bồ Tát chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với tất cả pháp cũng không có sở ích. Hai môn tổn, ích chỉ là tướng đối đãi nhau mà thành vậy.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như khi Bồ Tát hành bố thí, biết tất cả pháp đều như huyễn hóa không thật, có thể xả. Như khi Bồ Tát này chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, biết tất cả pháp cũng như huyễn hóa không thật, có thể đắc. Nếu các Bồ Tát hành bố thí, đối với tất cả pháp thật có xả bỏ, thì khi các Bồ Tát này chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng phải đối với pháp thật có chứng đắc. Tuy nhiên, khi các Bồ Tát hành bố thí, đối với tất cả pháp thật không có xả bỏ, thì khi Bồ Tát này chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với tất cả pháp thật không có chứng đắc.
(…)Các Bồ Tát cũng lại như vậy, khi hành bố thí không có xả bỏ, không có tổn hoại, nên khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không có chứng đắc, không có lợi ích. Cho nên khi Bồ Tát hành bố thí, tuy có xả bỏ nhưng không có ưu phiền, và khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tuy có chứng đắc nhưng không hoan hỷ. Vì biết xả hay chứng đều như huyễn hóa.
(...)Ngày xưa, khi làm Bồ Tát, tuy hành bố thí nhưng đối với các pháp hoàn toàn không có xả bỏ, thấu rõ các pháp rốt ráo Không. Chư Phật Thế Tôn đối với tất cả pháp không sân không ái. Vì sao? Vì thông đạt các pháp đều chẳng thật có, bản tánh là Không, tịch tĩnh nên sân, ái dứt”.
Xả chẳng có gì để xả, chứng cũng chẳng có gì để chứng. Thấu rõ tất cả pháp đều không, không năng không sở. Thông đạt tất cả pháp chẳng thật có, bản tánh Không, hư tịch. Nên không còn sân ái nữa. Đó là diệu dụng của tánh Không. Nếu quán hành thấu triệt được như vậy thì tâm không còn ưu não hay hoan hỷ nữa.
2. Bồ Tát dùng tâm gì để bố thí? Dùng tâm gì để chứng đắc?
Các đại Bồ Tát duyên Nhất thiết trí trí, dùng tâm không chấp trước hành bố thí. Muốn chứng Vô Thượng Bồ đề nên quán pháp Không, duyên Nhất thiết trí trí để đầy đủ công đức thù thắng, lại tùy thuận Bồ đề, thương xót hữu tình mà hành bố thí. Nếu hành bố thí như vậy thì mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.
3. Kế đến, Phật hỏi Xá Lợi Tử muốn thấy vô lượng vố số Bồ Tát
ở 10 phương thế giới như cát sông Hằng, dùng tâm
vô nhiễm tu bố thí như thế nào không?
Xá Lợi Tử đáp: Rất mong muốn. Rồi nhờ thần lực của Phật, Xá lợi Tử và đại chúng thấy hằng hà sa số thế giới mười phương. Mỗi một thế giới có vô lượng vô số Bồ Tát đều xả bỏ vật sở hữu, bố thí tất cả của cải châu báu chất đầy như núi, tùy theo sự cần dùng của hữu tình đều đem bố thí. Khuyên dạy hữu tình tự thọ dụng, rồi lại đem cho người khác thọ dụng mà tâm không chướng ngại. Hành bố thí như vậy không nhiễm trước. Ngày đêm tinh cần, thường không nhàm chán. Rồi Phật hỏi Xá Lợi Tử:
- “Bồ Tát cầu đại Bồ đề đều nên tu hành bố thí như vậy. Xá lợi Tử! Ý ngươi thế nào? Các Bồ Tát kia bố thí có rộng lớn không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Các Bồ Tát kia bố thí vô lượng, vô biên thiện căn.
Phật dạy:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Nhưng nếu có Bồ Tát nào quán pháp Không, duyên Nhất thiết trí trí, đầy đủ công đức thù thắng, thương xót hữu tình, tùy theo sở thích mà bố thí, thì phước bố thí này hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần so với phước bố thí của vô lượng vô số Bồ Tát đạt được ở mỗi một thế giới, hoặc nơi trăm ngàn thế giới, hằng sa số thế giới, cho đến vô số hằng sa số thế giới ở mười phương”.
Đoạn Kinh này không nói nhiều về giáo lý, chỉ khuyên người bố thí nên quán Không và duyên Nhất thiết trí trí thì được công đức vô bờ bến. Bố thí là phá ngã, quán Không là quên đi quyền tư hữu tức tu phước; đồng thời duyên Nhất thiết trí trí tức tu huệ. Bố thí như thế mới được gọi là Ba la mật. Vì phước huệ song tu, nên phước đức vô bờ bến. Nhưng phước đức cũng chỉ là hòn bọt nổi. Trong tâm từ và bi không dung chứa bất cứ thứ gì.
Công đức do mình làm mình hưởng, tuy có đem lại ích lợi cho người khác. Nhưng đó là công đức hữu lậu, chỉ hưởng được giàu sang phú quý trong cõi nhân thiên. Một khi công đức này cạn, lại khởi một niệm bất giác, cũng sẽ bị rơi rụng như ai.
Bố thí không chấp tướng, tam luân không tịch, mới được xem là Bố thí Ba la mật. Nhưng phải đem thiện căn công đức bình đẳng ban cho tất cả hữu tình, cùng nhau hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó chính là công đức vô lậu, không gì hơn!
Tới đây chỉ cần nhớ: Cái bí mật để thành tựu Bố thí Ba la mật là quán Không và duyên Nhất thiết trí trí, rồi đem công đức thiện căn ban cho tất cả hữu tình cùng hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đó chính là công đức vô lậu, không gì hơn!
Chúng ta tụng tiếp Q.582 của phần “Bố Thí Ba La Mật”:
Quyển thứ 582
Lúc bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát phát tâm ban đầu? Thế nào là Bồ Tát phát tâm lần thứ hai? Thế nào là Bồ Tát trụ bậc Bất thối? Thế nào là Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề? Cúi xin Thế Tôn thương xót dạy cho con hiểu?
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Nếu các Bồ Tát phát tâm ban đầu vượt hẳn A la hán, đáng nhận sự cúng dường thượng diệu của tất cả thế gian, trời người, A tu la v.v...
Nếu các Bồ Tát phát tâm lần thứ hai, vượt hẳn bậc Độc giác, hiểu rõ tất cả ngã Không, pháp Không, hiển lộ pháp giới bình đẳng chơn thật.
Nếu các Bồ Tát trụ bậc Bất thối vượt hẳn Bồ Tát bất định chưa nhận thọ ký, nhất định sẽ chứng đắc đại Bồ đề, tâm không bị phiền não xen tạp.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Ở quá khứ, vị lai, hiện tại, Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề khi chưa đắc Nhất thiết trí trí, trong khoảng thời gian đó không rời khỏi tòa này.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Các ngươi nên biết! Nếu khi Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề tức là ngồi tòa Bồ đề của Như Lai. Vì sao? Vì Bồ Tát như vậy, nhất định chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hiệu là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, như thật lợi lạc cho các hữu tình.
Khi ấy, Xá lợi Tử và đại chúng nương thần lực của Phật liền thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề, vô số Bồ Tát chứng đại Bồ đề, vô số Bồ Tát dùng tâm chánh tín, giải thoát các nẻo, tu hạnh Bồ Tát và vô số Bồ Tát tâm không nhiễm trước, ở tại gia tu hạnh Bồ Tát.
Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ Tát xả bỏ những điều khó xả, đem của cải châu báu cho các hữu tình, vô số Bồ Tát tự chém đầu mình bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ át cắt mũi, tai cho các hữu tình, vô số Bồ Tát chặt tay chân bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ Tát chích thân lấy máu bố thí các hữu tình, vô số Bồ Tát rút xương tủy bố thí các hữu tình, vô số Bồ Tát phân chia lóng, đốt bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ Tát đem vợ con yêu quý cho các hữu tình, vô số Bồ Tát đem ruộng đất nhà cửa bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ Tát đem các loại cầm thú: Voi, ngựa v.v... bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ Tát đem các người hầu nam, nữ bố thí cho các hữu tình, vô số Bồ Tát đem thức ăn, nước uống, y phục, ngọa cụ thượng diệu và nhiều loài tài vật bố thí cho các hữu tình.
Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ Tát làm Chuyển luân vương hành đạo Bồ Tát, vô số Bồ Tát làm trời Đế Thích hành đạo Bồ Tát, vô số Bồ Tát sanh về trời Đổ sử đa, thuyết nhiều pháp vi diệu cho các chúng trời, vô số Bồ Tát từ cõi trời kia mất, nhập vào thai mẹ giáo hóa hữu tình, vô số Bồ Tát lúc mới sanh ra liền thuyết pháp vi diệu cho các hữu tình, vô số Bồ Tát vì muốn cứu giúp các hữu tình nên chịu nhiều sự khổ.
Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, nên hành cước (đi bộ) trăm do tuần, hoặc đi bộ hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do tuần hoặc hơn thế nữa, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng các phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần thọ trì mười thiện nghiệp.
Vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, đi bộ trăm do tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do tuần, hoặc hơn thế nữa, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần quy y Phật, Pháp, Tăng bảo.
Vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, nên đi bộ trăm do tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do tuần, hoặc hơn thế nữa, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa vô số hữu tình, làm cho họ dần dần thọ trì 8 giới cận trụ.
Vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, đi bộ trăm do tuần, hoặc hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm, cho đến ngàn do tuần, hoặc hơn thế nữa, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng nhiều phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần thọ trì năm giới cận sự, làm cho họ dần dần thọ trì các giới xuất gia, làm cho họ phát tâm hướng đến quả Thanh văn, tinh cần tu học hạnh Thanh văn thừa, làm cho họ phát tâm hướng đến quả Độc giác, tinh cần tu học hạnh Độc giác thừa, hoặc làm cho họ phát tâm hướng đến quả Vô thượng, tinh cần tu học hạnh Vô thượng thừa.
Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc hay làm cho họ tu học 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 4 thần túc, 5 căn, 5 lực, 7 chi đẳng giác, 8 chi Thánh đạo, hay làm cho họ siêng năng tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật.
Vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, hoặc làm cho họ siêng năng tu học 18 pháp Không, hoặc làm cho họ siêng năng tu học chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, v.v... hoặc làm cho họ siêng năng tu học tam giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện, hoặc làm cho họ siêng năng tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ hoặc làm cho họ siêng năng tu học thập địa cộng tam thừa hay thập địa Bồ Tát.
Vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, tùy hỷ, làm cho họ siêng năng tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông, pháp môn Đà la ni, hoặc pháp môn Tam ma địa, hoặc bốn điều không sợ, hoặc bốn sự hiểu biết thông suốt, hoặc đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, hoặc mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc ba mươi hai tướng Đại sĩ, hoặc tám mươi vẻ đẹp, hoặc pháp không quên mất, hoặc tánh luôn luôn xả, hoặc vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.
Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ Tát xuất gia tu hành pháp ngoại đạo, không nghe, không thấy pháp tương ưng với Ba la mật, hơn trăm ngàn kiếp lưu chuyển trong vòng sanh tử, không chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vô số Bồ Tát xuất gia tu hành ở trong pháp Phật thường nghe, thường thấy pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật nên thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, thuyết giảng cho người khác, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Vô số Bồ Tát tuy siêng năng, tinh tấn cầu pháp tương ưng Bát Nhã không gián đoạn, nhưng không có phương tiện nên không chứng đắc. Vô số Bồ Tát tinh tấn cầu pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật, có dùng phương tiện, nên tuy dụng công ít nhưng mau chứng đắc. Vô số Bồ Tát tu hành các hạnh khổ khó hành. Vô số Bồ Tát xả bỏ hạnh khổ, tu hành trung đạo. Vô số Bồ Tát đến cội Bồ đề. Vô số Bồ Tát ngồi tòa Kim cang. Vô số Bồ Tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ đề.
Nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng sắc uẩn thường, vô thường bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn vui, không vui cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn ngã, vô ngã cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc; tuyên thuyết tướng sắc uẩn tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịch tĩnh, không tịch tĩnh cũng bất khả đắc.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng 12 xứ thường, vô thường bất khả đắc; 12 xứ vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng 12 xứ ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng 12 xứ tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng 12 xứ viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng 12 xứ tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng 18 giới thường, vô thường bất khả đắc tuyên thuyết tướng 18 giới vui, không vui bất khả đắc; tuyên thuyết tướng 18 giới ngã, vô ngã bất khả đắc; tuyên thuyết tướng 18 giới tịnh, bất tịnh bất khả đắc; tuyên thuyết tướng 18 giới viễn ly, không viễn ly bất khả đắc; tuyên thuyết tướng 18 giới tịch tĩnh, không tịch tĩnh bất khả đắc.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng lục đại chủng: Địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như vậy. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng như vậy. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng Đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng 12 nhân duyên: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng như vậy.
Nhờ thần lực của Phật, lại thấy hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Bồ Tát nên nhiều ức kiếp không nhập Niết bàn, ai chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề thì làm cho họ phát tâm. Ai đã phát tâm Vô thượng Bồ đề rồi thì làm cho vĩnh viễn không thối chưyển. Nếu ai đối với Vô Thượng Bồ đề không thối chuyển thì làm cho họ viên mãn Nhất thiết trí trí.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Thanh văn, các Độc giác, nên trải qua nhiều kiếp an trụ phương tiện giáo hóa. Ai chưa phát tâm, giáo hóa khiến họ phát tâm. Ai đã phát tâm rồi, làm cho họ siêng năng tu hành. Ai đã tu hành rồi thì giúp họ mau chứng quả A la hán, quả vị Độc giác.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích các hữu tình, nên trải qua nhiều kiếp an trụ phương tiện giáo hóa, làm cho vô lượng hằng hà sa các hữu tình, tùy theo chủng tánh của họ được nhập Niết bàn, hoặc vô lượng hằng hà sa các hữu tình thoát hẳn nỗi khổ nơi đường ác, được hưởng vui ở cõi trời, người.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng sức thần thông, qua vô lượng vô biên thế giới khác, bằng phương tiện thiện xảo làm lợi ích an lạc vô lượng hữu tình.
Xá lợi Tử thấy việc như vậy vui mừng hớn hở, liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Thế Tôn thành tựu sức đại thần thông như vậy, khiến cho chúng con được thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở phương Đông, có vô số Đại Bồ Tát hành Bồ Tát hạnh nhiều cách khác nhau. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác dùng nhiều phương tiện làm lợi ích hữu tình.
Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, làm cho Bồ Tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô Thượng Bồ đề.
Thế Tôn bảo Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, có thể giúp Bồ Tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô Thượng Bồ đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Xá lợi Tử và đại chúng nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng hà sa… thế giới ở mười phương, có vô số Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề, cho đến vô số Bồ Tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, tan rã, chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề cũng giống như trên.
Xá lợi Tử liền bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nếu có ai muốn được ở cõi người tăng thượng, không động chuyển nên tu thiện nghiệp, chiêu cảm sự thù thắng kia như vua Chuyển luân. Nếu có ai muốn được ở cõi trời tăng thượng, không động chuyển, nên tu thiện nghiệp, chiêu cảm sự thù thắng kia như trời Đế Thích. Nếu ai muốn tuổi thọ lâu dài, không động chuyển, nên tu định thù thắng kia, như sanh ở cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, nếu chúng Đại Bồ Tát muốn làm ruộng phước chơn tịnh đệ nhất ở thế gian, làm đại pháp sư ở ba ngàn đại thiên thế giới, và làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì nên quyết phát tâm cầu Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Phật dạy Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Nếu ai quyết phát tâm cầu Nhất thiết trí trí, thì người đó chắc chắn sẽ làm ruộng phước chơn tịnh đệ nhất ở thế gian, làm đại pháp sư ở ba ngàn đại thiên thế giới và làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mang lại lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. (Hết Q.582, phần “Bố Thí Ba La Mật”)
Lược giải:
Quyển 582 thuộc phần “Bố Thí Ba La Mật” này, Phật cốt chứng minh, bằng cách dùng thần lực cho chúng hội thấy tất cả Bồ Tát cũng như chư Như Lai ở phương Đông hay trong mười phương thế giới như cát sông Hằng tu bố thí như thế nào:
Các thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề hay vô số Bồ Tát sống tại gia dùng tâm chánh tín, tâm không nhiễm trước tu Bồ Tát hạnh, giải thoát các nẻo, chứng đại Bồ đề. Các Bồ Tát ấy hoặc đem ruộng vườn, nhà cửa, ngựa xe bố thí hoặc đem thân mạng, đầu mình, tay chân, lóng đốt, xương tủy… thí cho các hữu tình.
Có Bồ Tát đang làm Chuyển luân Thánh vương, hay trời Đế Thích hành Bồ Tát đạo hay vô số các Bồ Tát sanh về cõi trời Đổ sử đa thuyết pháp cho các chúng trời. Lại có vô số Bồ Tát nhập vào thai mẹ, thoát sanh chịu nhiều khổ nhọc vì muốn cứu giúp hữu tình, nên thuyết pháp. Lại có vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, nên hành cước (đi bộ) hàng trăm do tuần cho đến ngàn do tuần, hoặc hơn thế nữa, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng các phương tiện ân cần khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần thọ trì mười thiện nghiệp; hoặc khuyến hóa một số hữu tình, làm cho họ dần dần quy y Phật, Pháp, Tăng bảo; làm cho họ dần dần thọ trì tám giới cận trụ, năm giới cận sự, hoặc thọ trì các giới xuất gia phát tâm hướng đến quả Thanh văn tinh cần tu học hạnh Thanh văn thừa, tu học hạnh Độc giác thừa hay tu học hạnh Vô thượng thừa.
Nhờ thần lực của Phật, lại thấy vô lượng hằng sa thế giới ở phương Đông, có vô số Bồ Tát vì muốn hóa độ một số hữu tình, dùng sức thần thông qua một thế giới hoặc mười, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc vạn, cho đến qua vô lượng thế giới, tùy nghi đến chỗ nào cần hóa độ, dùng nhiều phương tiện thị hiện, hướng dẫn, dạy dỗ, khen ngợi, khích lệ, làm cho họ siêng năng tu học tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo, còn gọi là tư lương Bồ đề Bồ Tát.
Lại có vô số Bồ Tát xuất gia tu hành pháp ngoại đạo, không nghe, không thấy pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật, hơn trăm ngàn kiếp lưu chuyển trong vòng sanh tử, không chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Lại thấy có vô số Bồ Tát xuất gia tu hành pháp Phật thường nghe, thường thấy pháp tương ưng Bát Nhã thọ trì, đọc tụng, suy nghĩ đúng lý, thuyết giảng cho người khác, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.
Lại thấy có vô số Bồ Tát tuy siêng năng, tinh tấn cầu pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật không gián đoạn, nhưng không dùng phương tiện nên không chứng đắc. Lại thấy có vô số Bồ Tát tinh tấn cầu pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật, lại dùng phương tiện, nên tuy dụng công ít nhưng mau chứng đắc. Vô số Bồ Tát tu hành các hạnh khó hành. Vô số Bồ Tát xả bỏ hạnh khổ, tu hành trung đạo. Vô số Bồ Tát đến cội Bồ đề. Vô số Bồ Tát ngồi tòa Kim cang. Vô số Bồ Tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề.
Nhờ thần lực Phật, chúng hội lại thấy vô lượng hằng sa thế giới ở phương Đông, có vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng ngũ uẩn thường hay vô thường, vui hay không vui, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, viễn ly hay bất viễn ly, tịch tĩnh hay bất tịch tĩnh... đều bất khả đắc. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng 12 xứ, 18 giới, tướng nhãn xúc và các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng như vậy. Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì chúng đại Bồ Tát tuyên thuyết tướng lục đại chủng (địa, phong, thủy, hỏa, không, thức), tướng bốn duyên, tướng 12 duyên khởi cũng như vậy.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích các hữu tình, nên trải qua nhiều kiếp an trụ phương tiện giáo hóa, làm cho vô lượng hằng sa các hữu tình, tùy theo chủng tánh của họ được nhập Niết bàn, hoặc vô lượng hằng hà sa số các hữu tình thoát hẳn nỗi khổ nơi đường ác, được hưởng an vui ở cõi trời, người.
Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì muốn lợi ích cho các Nhị thừa, nên trải qua nhiều kiếp an trụ phương tiện giáo hóa. Ai chưa phát tâm, giáo hóa khiến cho phát tâm. Ai đã phát tâm rồi, làm cho siêng năng tu hành. Ai đã tu hành rồi thì giúp họ mau chứng quả A la hán, Độc giác Bồ đề.
Nhờ đại thần thông của Thế Tôn mà Xá Lợi Tử thấy vô số Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh bằng nhiều cách khác nhau làm lợi ích hữu tình, ở vô lượng hằng sa thế giới ở phương Đông, Xá Lợi Tử hớn hở bạch Phật:
- “Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, làm cho Bồ Tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô Thượng Bồ đề.
Thế Tôn bảo Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Chư Phật thành tựu diệu pháp rộng lớn, có thể giúp Bồ Tát phát tâm cầu sự thành tựu diệu pháp rộng lớn của chư Phật. Đó là quả vị Vô Thượng Bồ đề. Do đây nên tu viên mãn tư lương, mau chóng chứng đắc Nhất thiết trí trí”.
Xá lợi Tử và đại chúng lại nhờ thần lực Phật, lại thấy vô lượng hằng sa thế giới ở mười phương, có vô số Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề, cho đến vô số Bồ Tát chiến thắng vô lượng thiên ma oán địch, khiến chúng thối lui, chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề cũng giống như ở phương Đông.
Rồi Xá lợi Tử liền bạch Phật:
“... nếu chúng Đại Bồ Tát muốn làm ruộng phước chơn tịnh đệ nhất ở thế gian, làm đại pháp sư ở ba ngàn đại thiên thế giới, và làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, thì nên quyết phát tâm cầu Nhất thiết trí trí.
Bấy giờ, Phật dạy Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Nếu ai quyết phát tâm cầu Nhất thiết trí trí, thì người đó chắc chắn sẽ làm ruộng phước chơn tịnh đệ nhất ở thế gian, làm đại pháp sư ở ba ngàn đại thiên thế giới và làm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, mang lại lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình”.
Quyển 582 này của phần “Bố Thí Ba La Mật” không nói nhiều về giáo lý (trừ các pháp mầu Phật đạo đã được trình bày trong phần thứ I Tổng luận) mà chỉ mô tả nhiều phương cách tu hành khác nhau của các Bồ Tát ở hằng sa thế giới phương Đông nói riêng và ở vô vàn thế giới mười phương, để dạy dỗ khích lệ Xá Lợi Tử cùng các Bồ Tát khác trong pháp hội. Thế Tôn bảo rằng những ai tu hành các phương cách như đã thấy ở trên, thiết tha cầu Nhất thiết trí trí lại có phương tiện, chắc chắn sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, làm ruộng phước chơn tịnh đệ nhất thế gian, làm đại pháp sư của ba ngàn thế giới, mang nhiều lợi ích an lạc cho tất cả chúng hữu tình.
Mục đích của Phật trong việc dùng thần lực cho các Bồ Tát trong pháp hội mắt thấy tai nghe không ngoài giúp chư vị Bồ Tát tin tưởng tu học và thực hành các pháp mầu Phật đạo để có kinh nghiệm hóa độ chúng sanh được hiệu quả hơn trong cuộc đời hành đạo của các Ngài!
Đây chỉ là thuyết pháp theo lối trần thuật, ai cũng có thể hiểu, nên không cần nói thêm nữa!
Chúng ta tụng tiếp Q.583 của phần “Bố Thí Ba La Mật”:
Quyển thứ 583
(Phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau)
Lúc bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Sự phát tâm ban đầu có thù thắng hơn phát tâm sau không?
Phật bảo:
- Lành thay! Lành thay! Ngươi khéo hỏi Như Lai ý nghĩa sâu xa như vậy. Ngươi nên lắng nghe. Ta sẽ vì ngươi mà nói nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau. Nghĩa là, các A la hán với tâm vô lậu, tuy xa lìa tất cả phiền não tự thân, nhưng không thể hóa độ vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não. Bồ Tát mới phát tâm đại Bồ đề, tuy đối với phiền não tự thân chưa chấm dứt, nhưng có thể giáo hóa vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não, lần lượt lợi ích vô lượng hữu tình. Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau. Lại có các Độc giác với tâm vô lậu, tuy xa lìa tất cả phiền não tự thân, nhưng không giáo hóa vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não. Bồ Tát mới phát tâm đại Bồ đề, tuy đối với phiền não tự thân chưa chấm dứt, nhưng có thể giáo hóa vô lượng hữu tình đều phát tâm xả bỏ các phiền não, lần lượt lợi ích vô lượng hữu tình. Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Sự phát tâm đại Bồ đề của Bồ Tát, hoặc tu hoặc tập, hoặc làm nhiều việc đều dẫn đến bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên Phật pháp khác, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. Do đó hóa độ vô lượng hữu tình này đắc quả Thanh văn, Độc giác thừa, hoặc chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc tu thiện nghiệp thù thắng ở cõi trời, người, được an vui ở cõi trời, người, thoát khỏi khổ nơi đường ác.
Tâm của các vị Thanh văn, Độc giác đã được vô lậu, tự thân tuy đã chứng sự an vui Niết bàn, nhưng lại không thể dẫn đến bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên Phật pháp khác, cũng không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, không thể hóa độ vô lượng hữu tình, khiến chứng đắc quả Thanh văn, Độc giác thừa, hoặc chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, hoặc tu thiện nghiệp thù thắng ở cõi trời, người và được an vui ở cõi trời, người, thoát khỏi khổ nơi đường ác. Đó gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Sự phát tâm đại Bồ đề của Bồ Tát, oai lực thật thù thắng. Nếu khéo tu tập, thì mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, thọ ký không điên đảo cho hữu tình. Nghĩa là thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sanh tử tu Bồ Tát hạnh, sẽ chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sanh tử tu Độc giác hạnh, ở cõi trời, người gặp duyên chứng đắc Độc giác Bồ đề, đầy đủ sáu phép thần thông, tự tại an lạc. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, lưu chuyển trong vòng sanh tử tu Thanh văn hạnh, đắc quả Thanh văn ở cõi trời, người. Hoặc thọ ký hữu tình như vậy, như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp làm các nghiệp thiện, ác, sanh ở cõi trời, người, hoặc đọa đường ác, trôi lăn theo dòng sanh tử. Chẳng phải các Độc giác năng trao ký hữu tình không trái ngược. Nghĩa là không thọ ký như lời các Bồ Tát. Ông ở đời vị lai, trải qua bấy nhiêu kiếp sẽ được làm Phật hiệu…, tên..., cũng không thọ ký hữu tình như vậy, ở đời vị lai trải qua bấy nhiêu kiếp, nhất định sẽ đắc Độc giác Bồ đề, hoặc quả Thanh văn, hoặc ở các cõi thiện, ác chịu các khổ, vui. Cũng vậy, Thanh văn không thể thọ ký cho người khác, nếu có đều nghe từ Phật. Đó gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Bồ Tát đã phát tâm đại Bồ đề, muốn lợi ích tất cả hữu tình đến đời vị lai. Bấy giờ đại địa, các núi, biển cả biến động sáu cách. Ma vương kinh hãi sợ sệt. Các trời, rồng, thần đều rất vui mừng nói: “Bồ Tát sẽ chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, cứu vớt chúng ta thoát khổ lớn sanh tử, được an lạc. Thanh văn, Độc giác khi an trụ tâm vô lậu tối hậu, không làm được như thế”.
Đây gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Giả sử giáo hóa tất cả hữu tình đều trụ quả Độc giác, A la hán thì không thể hộ trì Ba la mật và Nhất thiết trí trí. Nếu có dạy dỗ giáo huấn Bồ Tát, làm cho họ phát tâm quả vị Vô Thượng Bồ đề, tức là hộ trì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác không thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được, bởi vì phát tâm rất yếu ớt, chỉ có các Bồ Tát mới thành tựu quả vị Vô Thượng Bồ đề. Đó gọi là nghĩa phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau. Do đó muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề đều nên phát tâm cầu Nhất thiết trí.
(Tu những hạnh gì gọi là Bồ Tát?)
Khi ấy, Xá lợi Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao biết được tướng các Bồ Tát, tu hạnh gì được gọi là Bồ Tát?
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Nếu có ai phát tâm đại Bồ đề, siêng năng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật không mệt mỏi, tuy gặp nhiều bạn xấu làm thối duyên nhưng không khuất phục. Đây là tướng Bồ Tát. Ai đầy đủ tướng này gọi là Bồ Tát.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu các hữu tình tu nhiều thiện pháp, tâm không nhàm chán, thọ trì tịnh giới, trọn không hủy phạm, thường ưa làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, tuy gặp khổ duyên nhưng không khiếp nhược. Tùy sự tu học nguyện cùng hữu tình đồng chứng Bồ đề rốt ráo an lạc. Đấy gọi là tướng đại Bồ Tát. Đầy đủ tướng này gọi là Bồ Tát.
Xá lợi Tử lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao hiểu được nghĩa sâu xa Phật đã thuyết? Đó là tâm Bồ Tát thù thắng hơn tâm vô lậu của các Độc giác và A la hán. Cúi xin Thế Tôn vì con mà giải thích nghĩa đó, làm cho chúng con hiểu rõ để thọ trì không sai trái.
Phật hỏi Xá lợi Tử:
- Ngươi cho tâm Bồ Tát còn có tham, còn có sân, còn có si, còn có mạn v.v... các tùy phiền não chăng?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy. Con cho tâm Bồ Tát còn có tham, còn có sân, còn có si và còn có mạn v.v... các tùy phiền não.
Phật lại hỏi Xá lợi Tử:
- Ngươi có cho tâm Độc giác và A la hán đã lìa tham, lìa sân, lìa si và lìa mạn v.v... các tùy phiền não không?
Xá lợi Tử thưa:
- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy. Con cho tâm Độc giác và A la hán đã lìa tham, lìa sân, lìa si và lìa mạn v.v... các tùy phiền não.
Phật lại hỏi Xá lợi Tử:
- Ngươi có cho Độc giác và A la hán đã dứt hẳn các lậu, khi muốn nhập vô lượng từ bi, hoá độ vô lượng vô biên hữu tình, làm cho họ được an lạc và xa lìa các khổ; những vị ấy có làm cho các hữu tình thật sự được an lạc và xa lìa các khổ chăng?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy. Bạch Thiện Thệ! Chẳng phải vậy. Các Độc giác và A la hán kia, tâm họ hoàn toàn không có phương tiện thiện xảo, làm sao nhập vào vô lượng từ bi, hóa độ vô lượng vô biên hữu tình, làm cho hữu tình thật sự được an lạc, xa lìa các khổ. Tạm thời xét như vầy: Chúng Bồ Tát phát tâm Bồ đề, quyết định cầu Nhất thiết trí trí, vì muốn tất cả hữu tình được lợi lạc đến tận đời vị lai, thường không gián đoạn. Cho nên Bồ Tát nhập định từ bi, khiến cho vô lượng vô biên hữu tình đều được an lạc và xa lìa các khổ. Ai nghiệp chướng không nặng thì chỉ trong sát na này thật sự được an lạc và xa lìa các khổ. Huống chi khi đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, chẳng lẽ không làm cho các hữu tình thật sự được an lạc và xa lìa các khổ ư? Do nhơn duyên này nếu nói Bồ Tát thật sự làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, thường không gián đoạn, điều này có lý. Còn nếu nói Độc giác và A la hán đầy châu Thiệm bộ, đủ tám giải thoát, đồng thời nhập vô lượng định từ bi, muốn lợi lạc vô lượng vô biên hữu tình, trong đó nếu có một người thật sự được lợi lạc, thì điều này không có lý.
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Do nhân duyên này nên tâm các Bồ Tát đối với tâm vô lậu của các Độc giác và A la hán là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.
(Tâm của Bồ Tát có thể bị lay chuyển không?)
Lại nữa, Xá lợi Tử! Giả sử tất cả hữu tình ở mười phương đều dứt các lậu thành A la hán, đầy đủ các công đức: Sáu thần thông, tám giải thoát v.v... Mỗi mỗi hữu tình lại hóa làm trăm ức quân ma. Các ma quân đó có nhiều không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Số các A la hán kia đã rất nhiều, huống chi tất cả đều hóa làm trăm ức quân ma. Các quân ma này đâu có thể tính đếm hết được.
Phật lại hỏi Xá lợi Tử:
- Như vậy, vô biên các A la hán đã hóa làm vô lượng, vô số quân ma, có năng lực làm cho tâm một vị Bồ Tát bất thối, bị biến chuyển tạm thời không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không thể được. Bạch Thiện Thệ! Không thể được. Vô lượng vô số quân ma như vậy, không thể làm cho tâm một Bồ Tát bất thối bị biến chuyển được.
Phật lại hỏi Xá lợi Tử:
- Ý ngươi thế nào? Như vậy, tất cả A la hán tâm dứt hẳn các lậu cùng với tâm một Bồ Tát bất thối, thì thế lực oai thần vị nào thù thắng hơn?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa lời Phật nói, tâm Bồ Tát bất thối thế lực thù thắng hơn, chẳng như tâm của vô số vô lượng A la hán.
Phật bảo:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Ngươi nên quán như vầy: Vô lượng tâm vô lậu các A la hán lìa hẳn tham dục, sân giận, ngu si và kiêu mạn v.v... Tất cả lại hóa làm trăm ức quân ma mạnh mẽ. Các quân ma này dùng hết thần lực của mình, cũng không thể làm cho tâm Bồ Tát còn phiền não tham, sân, si mạn v.v... bị thối chuyển được. Do đây, nên biết tâm lực Bồ Tát thù thắng hơn tâm lậu tận của các A la hán.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Ý ngươi thế nào? Tâm của Bồ Tát đối với tâm của A la hán tâm ai là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng hơn?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Tâm các Bồ Tát bất thối, tuy còn phiền não tham dục, sân giận, ngu si, kiêu mạn v.v... nhưng đối với tâm vô lậu A la hán là tối thắng, tối tôn, cao cả vi diệu, là thượng, là vô thượng hơn. Vì sao? Vì tâm vô lượng, vô biên A la hán vô lậu như vậy và người được hóa ra, đem hết thần lực đó cũng không thể làm cho tâm một Bồ Tát bất thối còn phiền não tham, sân, si, mạn v.v... thối chuyển được.
Phật lại hỏi Xá lợi Tử:
- Nay Ta hỏi ngươi, ngươi cứ tùy ý trả lời. Ý ngươi thế nào? Nếu có đống ngọc Ca già mạt ni (ngọc thủy tinh), trong đó đặt một viên ngọc Lưu ly, thì giá trị ánh sáng của Ca già mạt ni có thể lấn át, hay hút mất giá trị ánh sáng của viên ngọc Lưu ly không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không thể được. Bạch Thiện Thệ! Không thể được. Giá trị ánh sáng của một viên ngọc Lưu ly có thể che mất ánh sáng của một đống ngọc Ca già mạt ni. Vì sao? Vì ngọc Lưu ly trong suốt từ trong ra ngoài, Ca già mạt ni thì không được như vậy. Ánh sáng ngọc Lưu ly rực rỡ, Ca già mạt ni thì không được như vậy. Ngọc Lưu ly bản chất xanh biếc, Ca già mạt ni thì không được như vậy. Loại ngọc Lưu ly thù thắng, Ca già mạt ni không được như vậy. Ngọc Lưu ly oai đức rộng lớn, Ca già mạt ni không được như vậy. Ngọc Lưu ly giá trị vô lượng, Ca già mạt ni không được như vậy. Ngọc Lưu ly là vật trang sức của người tôn quí, do sức nghiệp tăng thượng nên sanh nơi bãi biển lớn. Ngọc Ca già mạt ni thì sang hèn đều dùng được, vì do công nghiệp tạo ra, nên giá trị ánh sáng của ngọc Lưu ly vượt hơn và che mất tất cả giá trị ánh sáng ngọc Ca già mạt ni.
Bấy giờ, Phật bảo Xá lợi Tử:
- Tâm đại Bồ Tát bất thối cũng lại như vậy, che khắp tâm tất cả Độc giác, Thanh văn giống như ngọc Lưu ly che mất ánh sáng ngọc Ca già. Ta quán nghĩa này nên nói như vầy: Tâm đại Bồ Tát bất thối đối với tâm vô lậu các Thanh văn và Độc giác đã chấm dứt xa lìa phiền não, là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng. Tâm Bồ Tát bất thối đầy đủ từ bi, có thể làm cho hữu tình được an lạc, xa lìa các khổ. Tâm Thanh văn, Độc giác đầy đủ từ bi, chỉ có giả tưởng nhưng không thực dụng.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Có A la hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: Sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., có thể dùng thần lực vứt thế giới này sang phương khác, nhưng không thể làm cho tâm Bồ Tát bất thối thối chuyển được.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Có A la hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: Sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., có thể dùng thần lực làm khô nước biển lớn, nhưng không thể làm cho tâm Bồ Tát bất thối thối chuyển.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Có A la hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: Sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., có thể dùng thần lực làm tan nát hằng hà sa số thế giới; trong ấy, tất cả núi Diệu Cao đều như tro bụi, nhưng không thể làm cho tâm Bồ Tát bất thối thối chuyển.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Có A la hán dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: Sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., có thể dùng sức thần thông, thổi đống lửa hằng hà sa số thế giới đại kiếp đang bốc cháy dữ dội đều tắt, nhưng không thể làm cho tâm Bồ Tát bất thối thối chuyển.
Do nhân duyên này nên Ta nói như vầy: Tâm đại Bồ Tát bất thối đối với tâm vô lậu các Độc giác và các Thanh văn là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng.
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu. Tâm đại Bồ Tát bất thối đầy đủ đại lực oai thần như vậy. Thanh văn, Độc giác không thể làm thối chuyển được.
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Vì sao? Xá lợi Tử! Lời nói của chư Phật, Thế Tôn không hai. Nghĩa Phật đã thuyết đều thật không dối. Ngươi nên thọ trì, thuyết rộng cho người khác.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Vô lượng, vô biên các loài hữu tình ở mười phương thế giới, giả sử trong vô lượng, vô biên hằng hà sa… các thế giới ở mười phương đó, mỗi một hằng hà sa lại biến thành bấy nhiêu loại hữu tình; giả sử đất, nước, lửa, gió ở mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới đó biến nát thành cực vi, tất cả đều biến làm bấy nhiêu hữu tình, thì các hữu tình này có nhiều không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.
Phật bảo:
- Tất cả hữu tình như vậy. Giả sử tất cả đồng thành A la hán, dứt hẳn các lậu, đầy đủ các công đức: Sáu thần thông, tám giải thoát v.v..., thành tựu thần thông tự tại rộng lớn như Đại Thái Thúc Thị (Đại Mục Kiền Liên). Tất cả đại A la hán ấy đều hóa làm bấy nhiêu quân ma. Mỗi ác ma lại hóa làm bấy nhiêu quân voi, quân ngựa, quân xe, quân bộ dũng mãnh. Các quân như thế có thể tính đếm nổi không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Không thể tính đếm nổi. Bạch Thiện Thệ! Không thể biết hết được.
Phật bảo:
- Giả sử có số lượng thiện nam, hoặc thiện nữ bằng ba ngàn đại thiên thế giới biết được số đó, họ dùng sức thần thông phá tan các quân ma. Ý ngươi thế nào? Thần thông oai lực của thiện nam, hoặc thiện nữ này có rộng lớn không?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Rộng lớn. Bạch Thiện Thệ! Rộng lớn. Thần thông oai lực của thiện nam, hoặc thiện nữ này không ai có thể địch nổi, chẳng thể nghĩ bàn.
Phật bảo:
- Giả sử thiện nam, thiện nữ như đã nói ở trước, và số các hữu tình như nói ở trước, mỗi người nam, người nữ ở mười phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới hằng hà sa… đại kiếp mà trụ từng niệm, từng niệm, hóa thành vô lượng ác ma như đã nói ở trước, mỗi ác ma lại hóa làm vô lượng quân ngựa, các quân dũng mạnh như đã nói ở trước, cũng không thể làm cho tâm Bồ Tát bất thối thối chuyển.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Ý ngươi thế nào? Có bấy nhiêu hữu tình thành A la hán. Tất cả lại hóa làm bấy nhiêu ác ma. Mỗi ác ma đầy đủ thần lực lớn. Thần lực như thế so với thần lực của tâm một Bồ Tát bất thối chuyển, bên nào thù thắng hơn?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Thần lực của tâm một đại Bồ Tát bất thối đối với nhóm người kia thù thắng hơn. Vì sao? Vì thần lực của tâm một đại Bồ Tát bất thối vô lượng vô số, không thể nghĩ bàn, không thể nói được.
Phật lại bảo Xá lợi Tử:
- Ý ngươi thế nào? Thần lực của tâm một đại Bồ Tát bất thối đối với thần lực vô lượng, vô biên các A la hán đầy đủ đại thần thông, như đã nói ở trước thì tâm ai có thể nói là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng?
Xá lợi Tử bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa lời Phật đã thuyết, thì chỉ có Phật Thế Tôn mới thuyết thần lực của tâm đại Bồ Tát bất thối kia, đối với thần lực của vô lượng, vô biên các A la hán đầy đủ đại thần thông như đã nói ở trước là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì sao? Vì thần lực của tâm đại Bồ Tát bất thối trừ thần lực của tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, thì không ai sánh bằng. Do nhân duyên này nên thần lực của tâm đại Bồ Tát bất thối, chỉ có Phật mới biết được, chỉ có Phật mới nói được, đối với các thần lực khác là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng.
Phật bảo Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì tâm đại Bồ Tát bất thối không có hữu tình nào khác làm biến chuyển được, cũng không có người biết, người thuyết đúng như sự thật. Chỉ có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biết tâm Bồ Tát bất thối chuyển kia, vì các hữu tình tuyên thuyết như thật.
Lúc bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:
- Do nhân duyên gì mà tâm đại Bồ Tát bất thối không bị biến chuyển?
Xá lợi Tử đáp:
- Do khi các Bồ Tát hành bố thí đều duyên nơi Nhất thiết trí trí, nên tâm kia vững chắc không thể lay động. Khi chứng đắc bất thối chuyển như vậy, tâm không tùy duyên mà bị biến đổi.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như có người khéo giải quyết, xử đoán mọi việc, từng ở trong vô lượng trưởng giả, cư sĩ, nhà buôn, xử đoán nhiều việc. Có người túng thiếu đến trưởng giả, cư sĩ v.v... vay mượn tiền tài vật chất. Vì sợ người kia đến đòi, không đủ sức trả nợ, bèn dựa vào vua để khỏi bị bắt. Các chủ nợ vì sợ oai vua nên không dám lôi kéo sỉ nhục người kia. Vì sao? Vì người kia dựa vào thế lực rất lớn, khó đương đầu nổi với vua. Bồ Tát cũng vậy, hoặc mới phát tâm, hoặc bất thối chuyển đều y vào đại thần lực của Nhất thiết trí trí. Nên tất cả Độc giác và A la hán đều không thể làm cho tâm kia có biến động.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như người dựa vào vua, tuy rất nghèo thiếu nhưng không bị nhục. Bồ Tát cũng vậy, dựa vào Nhất thiết trí trí, ác ma và nhị thừa không thể lay động mà lại chiến thắng tất cả ác ma. Đối với nhị thừa kia là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì vậy Bồ Tát muốn không thối chuyển thì thường y chỉ vào Nhất thiết trí trí, tu Bồ Tát hạnh, chớ ưa thích thừa nào khác.
(Bồ Tát khởi tác ý Nhị thừa làm chướng ngại
Nhất thiết trí trí và tổn hại Bồ đề tâm)
Mãn Tử Tử hỏi:
- Những gì Bồ Tát không bằng các Độc giác, Thanh văn?
Xá lợi Tử đáp:
- Nếu các Bồ Tát nghe nói thắng sự của Độc giác, Thanh văn lòng sanh ưa mến, nghĩ như vầy: Ta phải làm sao được pháp như vậy, cũng rất thích khen ngợi giáo lý nhị thừa. Các Bồ Tát này do khởi tác ý phi lý như vậy, liền bị tất cả Độc giác, Thanh văn chinh phục.
Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:
- Do duyên gì mà nói tác ý của Bồ Tát này là phi lý?
Xá lợi Tử đáp:
- Vì điều này chướng ngại Nhất thiết trí trí, có thể làm cho sự phát tâm Nhất thiết trí trí xa dần, nên gọi là Bồ Tát tác ý phi lý. Giống như thầy Du già muốn chứng thật tế, vui mừng nhập vào Chánh tánh ly sanh, nếu gặp nghịch duyên tham, sân, si chấp đắm, khởi tâm A la hán tức bị chướng ngại, nên nói là tác ý phi lý. Bồ Tát cầu đại Bồ đề như vậy, nếu khởi tác ý tương ưng nhị thừa thì chướng ngại Nhất thiết trí, tổn hại tâm Bồ đề. Cho nên gọi là tác ý phi lý. Nếu các Bồ Tát có tác ý này liền bị nhị thừa chinh phục.
Mãn Từ Tử liền bảo cụ thọ Xá lợi Tử:
- Nếu các Bồ Tát phát khởi tác ý tương ưng nhị thừa, liền bị nhị thừa chinh phục, nên biết, không được xem là Bồ Tát nữa. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì Bồ Tát chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nếu khởi tác ý tương ưng với nhị thừa, trái với bổn nguyện, không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Như bậc Dự lưu có phiền não hiện hành, liền trái với sự cầu hoặc trí hoặc đoạn. Vì siêng năng cầu trí đoạn nên gọi là Dự lưu. Chẳng phải phiền não hiện hành là có nghĩa cần cầu. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì bậc Dự lưu thì cầu hai biến tri:
1. Một là trí biến tri, và 2. Hai là đoạn biến tri.
Nếu phiền não hiện hành thì hai cần cầu trên đều hoại, cho nên bậc Dự lưu thường nên tinh cần diệt trừ các phiền não cầu trí biến tri. Bồ Tát nếu khởi tác ý tương ưng với nhị thừa như vậy, liền trái với bổn nguyện mong cầu Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát xa lìa tâm và tâm sở mong cầu Nhất thiết trí trí thì không gọi là chơn Bồ Tát nữa.
Vì sao? Xá lợi Tử! Vì điều cốt yếu của Bồ Tát là thường mong cầu tâm Nhất thiết trí trí, không gián đoạn. Nếu các Bồ Tát trụ tâm Bồ Tát, thì các ác ma nhị thừa không thể chinh phục được, mà còn chiến thắng được ác ma nhị thừa. Như người bắn cung giỏi đứng đúng tư thế, không bị sự chinh phục của tất cả oán địch, mà chinh phục được oán địch, xa lìa các sự sợ hãi. Bồ Tát trụ tâm Bồ Tát như vậy, tất cả ác duyên không thể phá hoại được, mà phá hoại tất cả sự nghiệp của chúng ma. Nếu nghe tuyên thuyết giáo pháp nhị thừa, liền nghĩ như vầy: Ta sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, cũng nên tuyên thuyết giáo pháp như vậy cho các hữu tình, giống như ngày nay Thế Tôn Năng Nhơn Tịch Tịnh Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết giáo pháp tương ưng nhị thừa cho các vị chủng tánh Độc giác, Thanh văn ở đời vị lai, khi ta được làm Phật, cũng vì các hữu tình như vậy mà tuyên thuyết giáo pháp như thế để họ được lợi lạc.
Bồ Tát như vậy trụ tâm Bồ Tát, dùng phương tiện khéo léo, tuy nghe giáo pháp tương ưng với nhị thừa nhưng không bị tổn giảm. Nghĩa là tuy nghe pháp giáo tương ưng kia, nhưng đối với nhị thừa không có sự tham nhiễm. Bồ Tát trụ tâm Bồ Tát như vậy, không bị ác ma nhị thừa chinh phục, mà chinh phục được ác ma nhị thừa. Như thầy Du già đối với cảnh không bị thu hút, vì định đã hoàn toàn thiện xảo. Vì sao? Vì định đã khéo điều phục tâm đối với cảnh, nên được tự tại. Bồ Tát trụ tâm Bồ Tát như vậy, ác ma nhị thừa không thể chinh phục. Vì các Bồ Tát này đối với Bồ đề tâm thường không xa lìa.
(Tâm Bồ Tát có thể bị khuất phục hay không?)
Xá lợi Tử hỏi Mãn Từ Tử:
- Tất cả Bồ Tát hoặc mới phát tâm, hoặc đã được bất thối, hoặc ngồi tòa Bồ đề đều không thể bị khuất phục được sao?
Mãn Từ Tử đáp:
- Tất cả Bồ Tát hoặc mới phát tâm, hoặc đã được bất thối, hoặc ngồi tòa Bồ đề, nên biết tất cả không thể khuất phục được. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì các Bồ Tát này đối với tất cả ác duyên, không làm cho xả bỏ bản nguyện. Nghĩa là các Bồ Tát phát Bồ đề tâm, đối với các hữu tình chỉ vì muốn làm lợi ích. Giữ vững hai điều thệ nguyện như thế thì tất cả ác duyên không lay động. Nếu các Bồ Tát an trụ tâm này thì ác ma nhị thừa không thể khuất phục được.
Lại nữa, này Xá lợi Tử! Cũng như các Như Lai, hoặc mới thành Phật, hoặc đã thành Phật, trụ trăm ngàn năm đều không lìa bỏ tâm Nhất thiết trí trí, tất cả thời sống trong Nhất thiết trí trí. Bồ Tát cũng vậy, hoặc mới phát tâm, hoặc đã được bất thối, hoặc ngồi tòa Bồ đề, đối với tất cả thời duyên Nhất thiết trí trí, suy nghĩ cầu chứng, chưa từng tạm bỏ.
Xá lợi Tử hỏi:
- Nếu như thế thì các ngôi vị Bồ Tát đâu có gì sai khác?
Mãn Từ Tử đáp:
- Các ngôi vị Bồ Tát tâm không khác biệt, chỉ có thành Phật mau chậm không đồng. Nghĩa là tâm Bồ Tát trước, sau, giữa đều cầu đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, an trụ tâm này thường không thối chuyển.
Lại, Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Nếu A la hán tâm có lui mất, thì có thể gọi là chơn thật A la hán chăng?
Xá Lợi Tử đáp:
- Thưa Đại sĩ, chẳng gọi. Nếu A la hán tâm có lui mất, phải biết kia là kẻ tăng thượng mạn, quyết chưa được quả A la hán.
- Mãn Từ Tử! Bồ Tát cũng vậy, nếu có Bồ Tát thối tâm Bồ đề nên biết, trước kia tự xưng Bồ Tát, chẳng phải Bồ Tát thật, là kẻ tăng thượng mạn, làm nhiễm ô chúng Bồ Tát. Như ốc sên làm dơ nước sạch, chẳng thể uống được.
- Xá lợi Tử! Đúng vậy! Đúng vậy! Nên biết hạng kia bị vô trí che lấp tâm, tự xưng là Bồ Tát, thật sự chưa được xem là chơn Bồ Tát, chỉ có giả danh. Ví như trượng phu, năm căn phải đầy đủ. Có người thiếu căn cũng tự xưng trượng phu, chỉ có hư ngôn nhưng không có nghĩa thật. Bồ Tát thối tâm Bồ đề cũng vậy, chỉ có giả danh, chẳng thật Bồ Tát. Như người thiếu căn gọi là dị hình. Bồ Tát thối tâm gọi là Bồ Tát hư ngụy. Cho nên Bồ Tát ở đầu, giữa, sau nhất định không thối tâm đại Bồ đề. Nếu thối tâm này chẳng phải Bồ Tát.
(Bồ Tát phải khởi tác ý tương ưng với những gì?)
Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:
- Nếu các Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải khởi tác ý tương ưng những gì?
Xá lợi Tử đáp:
- Nếu các Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề nên phát khởi tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí. Tất cả pháp Bồ Tát cần phải an trụ tác ý như vậy. Nếu các Bồ Tát trụ tác ý này tu hành bố thí, thì các Bồ Tát này liền hồi hướng Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát hồi hướng Nhất thiết trí trí như vậy, thì các Bồ Tát này gìn giữ bố thí Ba la mật. Nếu các Bồ Tát không hồi hướng Nhất thiết trí trí, thì sự tu hành bố thí của các Bồ Tát này không gọi là bố thí Ba la mật.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu khi các Bồ Tát hành bố thí, lại suy nghĩ: Ta xả phần ít, hay không xả phần ít. Ta xả vật này, hay không xả vật này. Ta bố thí loài này, hay không bố thí loài kia. Các Bồ Tát này do dự suy nghĩ đó làm chướng ngại Nhất thiết trí trí, phải trải qua thời gian lâu mới được Nhất thiết trí trí. Phải mất nhiều thời gian bố thí Ba la mật mới được viên mãn. Vì vậy, Bồ Tát muốn Nhất thiết trí trí không bị chướng ngại, muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, muốn làm cho bố thí mau được viên mãn, nên xa lìa suy nghĩ phân biệt như vậy. Nên xả bỏ tất cả phân biệt, nên bố thí tất cả vật, đối với tất cả loài nên bố thí bình đẳng.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề nên trụ bố thí Ba la mật, nên đối với bố thí Ba la mật mà trụ như vậy. Nếu các Bồ Tát vào buổi sáng trong ngày đem các loại thức ăn thượng diệu, bố thí cho hằng hà sa số hữu tình; đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu; vào buổi trưa trong ngày cũng dùng các loại thức ăn thượng diệu, bố thí hằng hà sa số hữu tình; đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu; vào buổi chiều trong ngày cũng đem các loại thức ăn thượng diệu, bố thí cho hằng hà sa số hữu tình; đã bố thí rồi lại bố thí y phục, vàng ròng thượng diệu, tiếp đến ba thời của ban đêm cũng lại như vậy. Bố thí như vậy trải qua hằng hà sa số đại kiếp thường không gián đoạn. Các Bồ Tát này bố thí như vậy rồi, nếu không hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, tuy gọi bố thí nhưng chẳng phải bố thí Ba la mật. Nếu hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí thì mới gọi bố thí Ba la mật. Nghĩa là sau khi bố thí không khởi phân biệt, tùy nhiều ít mà phát tâm rộng lớn, nhờ hữu tình bố thí tất cả. Khi Bồ Tát này hành bố thí, tuy không xả nhiều để bố thí tất cả, nhưng thành tựu bố thí Ba la mật. Vì sao? Vì muốn chứng đắc vô lượng Phật pháp mà hành bố thí Ba la mật. Nếu khi bố thí tâm có hạn lượng, nhất định không chứng vô lượng Phật pháp. Nếu tâm các Bồ Tát có hạn lượng mà hành bố thí, thì các Bồ Tát này nhất định không chứng Nhất thiết trí trí, chắc chắn đối với bố thí Ba la mật không được viên mãn. Vì vậy Bồ Tát muốn chứng vô lượng Nhất thiết trí trí phải nên phát khởi tâm không hạn lượng mà hành bố thí. Nếu các Bồ Tát có tâm hạn lượng mà hành bố thí, thì các Bồ Tát này còn tham lam không muốn dứt bỏ, không thể hộ trì Nhất thiết trí trí. Chống trái với tướng này, làm sao chứng đắc Nhất thiết trí trí, viên mãn bố thí Ba la mật.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Chúng Bồ Tát muốn hành bố thí nên khởi tâm này: Ta nên tu hành bố thí không hạn lượng khi chưa chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, đối với các hữu tình nên hành tài thí. Nếu chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, đối với các hữu tình phải hành pháp thí. Nghĩa là nếu chưa chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, đối với hữu tình nên cho tiền tài, khiến họ xa lìa nghèo khổ, được an lạc ở thế gian. Nếu chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, đối với các hữu tình phải cho chánh pháp, để họ xa lìa phiền não, được an lạc xuất thế gian. Như người phụng sự vua, trước thì được y phục, nuôi sống vợ con; sau được lòng vua thì được hưởng nhiều tiền của châu báu. Bản thân mình và vợ con đều thọ hưởng sự phú quý an ổn khoái lạc. Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề cũng vậy, tu hơn trăm ngàn hạnh khổ khó hành, trước thì dùng tiền tài bố thí cho các hữu tình, để họ xa lìa sự khổ nghèo ở thế gian; về sau khi chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, dùng pháp vô nhiễm dạy dỗ giáo huấn các hữu tình, giúp họ thoát khỏi các khổ sanh tử.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như có trăm ngàn các hữu tình siêng năng phụng sự vương tử suốt cả ngày đêm, cung cấp vương tử đủ mọi thứ như y phục, vật ăn uống, ngọa cụ v.v... Sau khi lên ngôi vua, tùy theo công lao xưa, khả năng kham nhiệm mà ban quyền cao tước lộc; hoặc là chủ sự nghiệp, hoặc chủ núi sông, hoặc chủ thành lớn, hoặc chủ cửa ải, hoặc chủ làng xóm, hoặc chủ quân lính. Bồ Tát cầu Nhất thiết trí trí cũng vậy, khi chưa chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, trước hết phải đem của cải cho hữu tình. Sau khi chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, tùy theo sự hiểu biết khác nhau của các hữu tình, dùng giáo pháp vô thượng dạy dỗ giáo huấn, làm cho họ an trụ quả A la hán, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả Nhất lai, hoặc quả Dự lưu, hoặc mười đường lành, hoặc thắng vị Bồ Tát.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát này cầu đại Bồ đề, hành Bồ Tát hạnh. Khi chưa chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu khi chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình. Sau khi Niết bàn cũng làm lợi ích lớn cho vô lượng, vô biên hữu tình. Ví như vương tử chưa nối ngôi vua, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu nối ngôi vua cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình. Sau khi băng hà cũng làm lợi ích lớn cho hữu tình.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như người phụng sự vua, tinh tấn đúng mực, trải qua thời gian lâu, bổng lộc cứ thế cứ thế tăng dần. Bồ Tát cầu Nhất thiết trí trí cũng như vậy, tinh tấn đúng mực, trải qua thời gian lâu dài, công đức cứ thế cứ thế dần dần tăng trưởng.
Lại này, Xá Lợi Tử! Các Bồ Tát này khi chưa chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem tiền của cho các hữu tình. Nghĩa là dùng các loại y phục, vật ăn uống, ngọa cụ, thuốc men và các tài vật khác, dùng phương tiện khéo léo nhiếp thọ nhiêu ích hữu tình. Nếu khi chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, dùng chánh pháp nhiếp thọ nhiêu ích hữu tình. Nghĩa là dùng các pháp như bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên Phật pháp khác nhiếp thọ nhiêu ích. Hoặc dùng các pháp như: Niệm, trụ, chánh, đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi và vô lượng vô biên Phật pháp khác nhiếp thọ nhiêu ích. Hoặc dùng các việc phước nghiệp của thí, việc phước nghiệp của giới, việc phước nghiệp của tu và vô lượng vô biên thiện pháp thế gian nhiếp thọ nhiêu ích. Sau khi vào Niết bàn cũng làm lợi ích lớn cho vô lượng vô biên hữu tình. Nghĩa là hữu tình tiếp tục cúng dường xá lợi Phật. Hoặc đối với chánh pháp vô thượng của Như Lai thọ trì, đọc tụng, tu hành như đã thuyết, đều được lợi ích rộng lớn vô biên. Nghĩa là được an lạc ở cõi trời, người, hoặc nhập Niết bàn, hoặc đại Bồ đề an lạc rốt ráo.
Mãn Từ Tử bảo Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Thật đúng như lời Tôn giả đã nói. Tôn giả đã thuyết đều đúng nghĩa. Cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nói Tôn giả là bậc trí tuệ biện tài đệ nhất trong hàng Thanh văn.
Lại nữa, Xá lợi Tử! Ví như vàng ròng thường lợi ích lớn cho hữu tình. Nghĩa là chưa ra khỏi quặng hoặc khi đã ra, hoặc biến chuyển thành các vật trang sức, hoặc đem ra bán đổi để mua vật khác, đều lợi ích cho vô lượng vô biên hữu tình. Tùy theo sự ứng dụng của họ làm lợi ích lớn. Như vậy, Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh, khi chưa chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nghĩa là dùng tài pháp, tùy theo sự thích ứng của họ mà dùng phương tiện khéo léo hộ trì lợi ích. Nếu khi chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, làm lợi ích lớn. Nghĩa là tuyên thuyết sắc uẩn thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết 12 xứ, 18 giới thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết địa giới thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết thủy, hỏa, phong, không, thức giới thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết nhân duyên thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết vô minh thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết ngã thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, Bổ đặc già la, ý sanh, thanh niên, người biết, người thấy thường, vô thường v.v... cũng bất khả đắc; tuyên thuyết cõi Dục thường, vô thường v.v... bất khả đắc; tuyên thuyết cõi Sắc, Vô sắc thường, vô thường v.v... bất khả đắc.
Tuyên thuyết các pháp môn như vậy, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Sau khi nhập Niết bàn, Chánh pháp, Tượng pháp và xá lợi cũng làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Thanh văn, Độc giác không có việc như vậy. Cho nên chúng đại Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh thường làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Do đây nên nói các Bồ Tát đối với nhị thừa kia là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng.
Lúc bấy giờ, Phật dạy A nan đà:
- Ngươi nên thọ trì những gì Xá lợi Tử đã thuyết. Chúng đại Bồ Tát mặc áo giáp đại nguyện, đến đại Bồ đề, đầy đủ khéo léo thù thắng, ý muốn tăng thượng, tu hành bố thí Ba la mật xả bỏ pháp, xả bỏ tiền tài, không nhiễm không trước.
Khi đức Bạc già phạm thuyết Kinh này, cụ thọ Xá lợi Tử, cụ thọ Mãn Từ Tử, cụ thọ A nan đà và các Thanh văn, chúng Bồ Tát cùng với thế gian, trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn v.v..., tất cả đại chúng, nghe lời Phật thuyết đều phấn khởi vui mừng và tin thọ phụng hành.
Lược giải:
1. Phát tâm ban đầu thù thắng hơn phát tâm sau.
Một trong những điều kiện tiên quyết tu Bồ Tát đạo để trở thành Bồ Tát hay Phật là trước hết phải phát Bồ đề tâm “trên cầu Vô thượng Bồ đề, dưới hóa độ chúng sanh”. Tâm này được nung nấu qua bao nhiêu đời kiếp, không ngừng nghỉ trước những thống khổ của bao sanh linh. Ngày nào hữu tình còn khổ, ngày đó ngọn lửa huyền diệu trong tâm Bồ Tát vẫn còn bốc cháy. Nó là ngọn đuốc truyền thừa của Phật đạo qua bao thế hệ đối với những ai tự phát nguyện cứu rỗi chúng sanh. Không có Bồ đề tâm thì không có Bồ Tát, không có quả Bồ đề, không có Phật đạo.
Muốn trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác, đạt Nhất thiết trí trí để cứu độ chúng sanh thì phải phát nguyện. Phát nguyện chẳng khác nào lời hứa khởi đầu, nó là chất xúc tác mạnh mẽ đối với những ai hành Bồ Tát đạo quyết tâm cứu rỗi chúng sanh. Không có phát tâm Bồ đề, thì khó hoàn thành hạnh nguyện. Nên nói phát tâm ban đầu thù thắng hơn hết.
2. Tu những hạnh gì gọi là Bồ Tát?
Bồ Tát siêng năng tu lục độ vạn hạnh, tu các thiện pháp, tâm không nhàm chán: Bố thí cứu độ không ngừng nghỉ, thọ trì tịnh giới trọn không hủy phạm, an nhẫn kiên định trong mọi tình huống khó khăn, tinh tấn từng phút từng giây, sống trong chánh niệm, tu phước huệ an lạc đối với tất cả hữu tình, tuy gặp nghịch duyên trái ý cũng không thối chí. Ai có đầy đủ các đặc tánh như thế thì có thể gọi là Bồ Tát. Đó là tu Bồ Tát hạnh hay tu Bồ Tát đạo.
3. Tâm Bồ Tát thù thắng hơn tâm vô lậu của Nhị thừa.
Phật lại hỏi Xá lợi Tử: “Ngươi có cho tâm Độc giác và A la hán đã lìa tham, lìa sân, lìa si và lìa mạn v.v... các tùy phiền não không?”
Xá lợi Tử thưa: “Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy. Con cho tâm Độc giác và A la hán đã lìa tham, lìa sân, lìa si và lìa mạn v.v... các tùy phiền não”.
Phật lại hỏi Xá Lợi Tử: “Vô lậu Nhị thừa muốn nhập vô lượng từ bi, hoá độ vô lượng vô biên hữu tình, làm cho họ được an lạc và xa lìa các khổ; những vị ấy có làm cho các hữu tình thật sự được an lạc và xa lìa các khổ chăng?”
Xá Lợi Tử đáp: “Bạch Thiện Thệ! Chẳng phải vậy. Các Độc giác và A la hán kia, tâm họ hoàn toàn không có phương tiện thiện xảo, làm sao nhập vào vô lượng từ bi, hóa độ vô lượng vô biên hữu tình, làm cho hữu tình thật sự được an lạc, xa lìa các khổ. Chúng Bồ Tát phát Bồ đề tâm, quyết định cầu Nhất thiết trí trí, vì muốn tất cả hữu tình được lợi lạc đến tận đời vị lai, thường không gián đoạn. Cho nên Bồ Tát nhập định từ bi, khiến cho vô lượng vô biên hữu tình đều được an lạc và xa lìa các khổ”.
Phật bảo Xá Lợi Tử: “Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Do nhân duyên này nên tâm các Bồ Tát đối với tâm vô lậu của các Độc giác và A la hán là tối thắng, tối tôn, cao cả, vi diệu, là thượng, là vô thượng”.
Điều này có nghĩa Bồ Tát có tâm thù thắng hơn tâm của Thanh văn và Độc giác. Câu trả lời này xác định sự khác biệt chính yếu giữa Nhị thừa và Đại thừa trong việc cứu rỗi cho toàn thể chúng sanh.
Toàn thể Kinh ĐBN thường lặp đi lặp lại nhiều lần là Nhị thừa muốn tu nhanh chóng để chứng đắc thật tế rồi nhập Niết bàn, trong khi Bồ Tát không nề hà hành các hạnh khó hành, quên cả thời gian, quên cả không gian, quên cả số kiếp, nguyện độ hết chúng hữu tình, nếu ngày nào còn một chúng sinh chưa được diệt độ, ngày đó Bồ Tát quyết không nhập Niết bàn. Đó chính là sự khác biệt chính yếu giữa Đại thừa và Nhị thừa chứ không phải ở hệ cấp.
Tu không có hệ cấp, vì bình đẳng vốn là tôn chỉ tối thượng của đạo Phật. Vì vậy, tùy theo căn cơ và hạnh nguyện khác nhau mà có các pháp tu và giai vị khác nhau.
4. Tâm bất thối của Bồ Tát có thể bị lay chuyển không?
Phật lại hỏi Xá lợi Tử: “Ý ngươi thế nào? Như vậy, tất cả A la hán tâm dứt hẳn các lậu cùng với tâm một Bồ Tát bất thối, thì thế lực oai thần vị nào thù thắng hơn?”
Xá lợi Tử bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu nghĩa Phật nói, tâm Bồ Tát bất thối thế lực thù thắng hơn”.
Phật bảo: “Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Ngươi nên quán như vầy: Vô lượng vô lậu các A la hán, tất cả lại hóa làm trăm ức quân ma mạnh mẽ. Các quân ma này dùng hết thần lực của mình, cũng không thể làm cho tâm Bồ Tát biến chuyển được. Do đây, nên biết tâm lực Bồ Tát thù thắng hơn tâm lậu tận của các A la hán”. Giống như ngọc Lưu ly giữa đám ngọc Ca già mạc ly, ánh sáng của ngọc Lưu ly chiếu sáng rực rỡ, thù thắng làm lu mờ ánh sáng của ngọc Ca già. “Do nhân duyên này nên Ta nói như vầy: Tâm Đại Bồ Tát bất thối đối với tâm vô lậu các Độc giác và các Thanh văn, là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng”.
Nếu đem hằng sa thế giới mười phương nghiền nát thành bụi, rồi bụi này lại được biến thành trăm ngàn ức A la hán có đầy đủ thần thông rộng lớn như Đại Thái Thúc Thị (Đại Mục Kiền Liên). Các A la hán này lại hóa thành quân ma. Thế lực của quân ma to rộng như vậy cũng không thể làm cho tâm Bồ Tát thối chuyển được. Vì thần lực của đại Bồ Tát bất thối vô lượng vô số, không thể nghĩ bàn, không thể nói hết được. Chỉ có Phật Thế Tôn mới có thể biết, mới có thể thuyết hết thần lực của tâm đại Bồ Tát bất thối kia.
Lúc đó, Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử: “Do nhân duyên gì mà tâm đại Bồ Tát bất thối không bị lay chuyển”?
Xá lợi Tử đáp: “Do khi các Bồ Tát hành bố thí đều duyên nơi Nhất thiết trí trí. Khi chứng đắc bất thối chuyển như vậy, tâm không tùy duyên mà bị biến chuyển”.
(...) Vì vậy, Bồ Tát muốn không thối chuyển thì thường y chỉ vào Nhất thiết trí trí, tu Bồ Tát hạnh, chớ ưa thích thừa nào khác”.
Thần lực của tâm các vị Bồ Tát bất thối vô lượng vô số không thể nghĩ bàn, không thể lay chuyển. Kinh thuyết như vậy quá đủ không cần giải thích thêm.
5. Bồ Tát khởi tác ý nhị thừa thì chướng ngại
Nhất thiết trí trí, tổn hại Bồ đề tâm.
Bồ Tát chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nếu khởi tác ý ưa mến, ngợi khen giáo pháp nhị thừa, sẽ trái với bổn nguyện, không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Bồ Tát trụ tâm Đại thừa, có thể tu học và thuyết giảng giáo pháp Nhị thừa như Thế Tôn, nhưng không tham nhiễm. Như vậy, không bị ác ma Nhị thừa chinh phục, mà còn chinh phục được tất cả.
6. Bồ Tát bố thí phải khởi tác ý tương ưng với những gì?
Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề nên phát khởi tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nhưng muốn Nhất thiết trí trí không bị chướng ngại, muốn cho bố thí Ba la mật mau viên mãn, thì Bồ Tát nên xa lìa phân biệt. Không phân biệt người cho, kẻ nhận, cũng không phân biệt của thí. Bố thí với tâm vô hạn, bình đẳng, đó chính là Bố thí Ba la mật.
Lúc bấy giờ, Phật dạy A nan: “Ngươi nên thọ trì những gì Xá lợi Tử đã thuyết. Chúng đại Bồ Tát mặc áo giáp đại nguyện, đến đại Bồ đề, đầy đủ khéo léo thù thắng, ý muốn tăng thượng, tu hành bố thí Ba la mật thì phải xả bỏ pháp, xả bỏ tiền tài, không nhiễm không trước”.
Muốn được gọi là bố thí Ba la mật thì trước hết Bồ Tát phải trên cầu Vô thượng Bồ đề, dưới hóa độ chúng sanh với một tấm lòng lân mẫn, một trái tim nồng ấm đầy nhiệt tình để thực thi những hạnh nguyện cứu rỗi hữu tình. Bồ Tát phải xả bỏ tất cả, xả bỏ tài và pháp, xả bỏ cả sanh mạng và luôn luôn hướng về Nhất thiết trí trí… thì mới được tán tụng là chơn Bồ Tát và bố thí do Bồ Tát thực hiện mới được gọi là bố thí Ba la mật thanh tịnh.
Câu nói luôn nhắc nhở mọi người là “cái gì cho đi thì còn,
cái gì giữ lại thì mất”.
---o0o---
“Đàn Na Ba La Mật”.
(Đại Trí Độ Luận)
Trước khi chấm dứt phần “Bố Thí Ba La Mật”, không gì hơn chúng tôi trích dẫn pháp tu “Đàn Na Ba La Mật” trong Đại Trí Độ Luận, do Bồ Tát Long Thọ, bậc thật tu thật chứng thuyết giảng pháp môn này để chúng ta cùng học cùng hành cho đúng ý nghĩa vi diệu của nó:
A. Nghĩa của Bố Thí Ba La Mât:
Hỏi: Bồ Tát hành bố thí là đã làm việc lợi ích cho chúng sanh rồi. Sao còn phải đầy đủ Đàn Ba La Mật?
Đáp: Bố thí vô lượng pháp làm lợi ích cho chúng sanh gọi là ĐÀN, nhưng phải biết tùy chúng sanh là bố thí.
ĐÀN là diệu pháp trừ khổ, ban vui cho mọi loài.
ĐÀN là đường dẫn đến cõi Trời, cõi Phật, nhiếp cả đạo Trời Người.
ĐÀN đem lại sự an ổn cho chúng sanh, khiến đến khi mạng chung vẫn giữ được tâm không sợ hãi.
ĐÀN là tâm từ, thường hay cứu giúp chúng sanh.
ĐÀN là nơi chứa nhóm các niềm vui, thường hay phá trừ các khổ.
ĐÀN là dũng tướng hàng phục xan tham.
ĐÀN là diệu quả, là ước mơ của các loài Trời, Người.
ĐÀN là đường thanh tịnh, nơi Thánh Hiền dạo chơi.
ĐÀN là nơí tích tập phước đức.
ĐÀN là duyên tu chứng.
ĐÀN là thiện hạnh dẫn đến thọ quả báo tốt.
ĐÀN là tướng phước nghiệp của các loài Trời, Người.
ĐÀN là lưỡi dao bén cắt đứt 3 đường ác, đoạn trừ bần cùng, khổ cực.
ĐÀN là quả báo phước đức an vui.
ĐÀN bước đầu dẫn vào Niết Bàn, diệu pháp dẫn vào Thánh Chúng.
ĐÀN là tâm kham nhẫn làm công đức, chẳng ngại khó khăn, chẳng hề luyến tiếc.
ĐÀN là nhà của các thiện pháp, là gốc của đạo hạnh, đem lại an vui hạnh phúc.
ĐÀN là ruộng phước dẫn chúng sanh vào đạo Niết Bàn, là bến mát của các bậc Thánh Hiền.
B. Tán thán nghĩa Bố Thí Ba La Mât:
Người có trí huệ mới rõ được nghĩa Đàn Ba La Mật. Ví như gặp cảnh nhà cháy, người có trí mới biết lượng theo thế lửa và hướng gió, để đưa người và tài sản ra khỏi nhà lửa một cách an toàn. Người trí rõ biết thân là khổ, tài vật là vô thường, nên kịp thời tu phước để đời sau được an lạc.
Người ngu gặp cảnh nhà cháy, chỉ biết tiếc của cải mà chẳng biết lượng thế lửa, hướng gió, đành để cho nhà bị thiêu rụi, tài sản tiêu tan.
Nếu suốt đời chỉ lo vơ vét cho đầy túi tham, thì đến khi chết rồi thân cũng trở về với 4 Đại, chẳng được lợi ích gì cho đời sau.
Người có trí huệ rõ biết thân là như huyễn, của cải là tạm bợ, vạn vật đều vô thường. Do ngộ lý Vô Thường, nên thường hành Bố Thí, được nhiều phước đức, lợi lạc cho mình người, ở đời này và cả về đời sau.
Lại nữa, người khéo bố thí được mọi người tin yêu, kính trọng ví như mặt trăng soi sáng suốt đêm dài, được mọi người chiêm ngưỡng. Trì giới thanh tịnh được sanh lên cõi trời.
Thiền Định không nhiễm trước dẫn đến Niết Bàn tịch tịnh.
Bố thí cũng tạo phước đức, làm tư lương dẫn đến Niết Bàn. Vì sao? Vì người hành bố thí, do nhất tâm quán sanh diệt, quán vô thường, mà được đạo Niết Bàn vậy.
C. Tướng của Bố Thí Ba La Mât:
Hỏi: Vì sao gọi Bố Thí là Đàn?
Đáp: Vì người hành Bố Thí có tâm tương ưng với thiện, luôn nhớ nghĩ đến người khác, nên gọi Bố Thí là Đàn. Vì sao ? Vì có nhớ nghĩ đến người khác mới có được ruộng phước để hành Bố Thí. Bố Thí phải hội đủ 3 điều kiện. Đó là: 1- Có thiện tâm, 2- Có ruộng phước và 3- Có tài vật.
Lại nữa, vì người hành Bố Thí có tâm xả, nên gọi Bố Thí là Đàn.
Phải có tâm xả pháp, mới phá được xan tham, mới sanh được niệm Từ, mới hành được Bố Thí.
Bố Thí cũng phải hội đủ 3 điều kiện. Đó là:
1- Tâm tương ưng pháp,
2- Tâm xả pháp và
3- Tâm hành pháp.
Lại nữa, người hành Bố Thí phải hội đủ 3 điều kiện nữa. Đó là:
1- Thân chứng,
2- Huệ chứng, và
3- Giác quán.
Trong A Tỳ Đàm có phân biệt 2 trường hợp Bố Thí. Đó là:
1- Tịnh thí và
2- Bất tịnh thí.
Phàm phu, vì tâm chấp đắm, so lường, nên chỉ hành Bất Tịnh Thí mà thôi. Vì sao? Vì phàm phu hành bố thí do nhiều nhân duyên bất tịnh như: Vì cầu tài mà bố thí, vì sợ thua người mà bố thí, vì sợ hoạn nạn mà bố thí, vì sợ chết mà bố thí, vì phú quí mà bố thí, vì tranh thắng mà bố thí, vì kiêu mạn mà bố thí, vì danh dự mà bố thí, vì chú nguyện mà bố thí, vì lợi dưỡng mà bố thí v.v… Các trường hợp Bố thí như vậy gọi là Bất Tịnh Thí.
Trái lại, vì Đạo Giải Thoát mà bố thí, thì gọi là Tịnh Thí. Phải đem tâm thanh tịnh, chẳng cầu phước báo, chẳng vì cung kính hay sợ hãi, chẳng vì thiên vị hay bị ép buộc v.v… mà bố thí mới gọi là Tịnh Thí. Tịnh Thí dẫn đến đạo Niết Bàn. Dù chưa được Niết Bàn cũng hưởng được nhiều phước lạc.
Lại nữa, vì Niết Bàn mà bố thí, thì cũng được quả báo thanh tịnh. Phật dạy “Có 2 hạng người rất khó được”. Đó là:
- Tỳ Kheo xuất gia được giải thoát.
- Cư sĩ tại gia thanh tịnh bố thí.
Bố Thí thanh tịnh như vậy được vô lượng phước báo đời đời chẳng mất; ví như trồng cây đúng thời tiết thì cây được tốt tươi, đơm hoa kết trái. Vì sao? Vì:
- Diệt hết các kiết sử là khai mở đạo Niết Bàn.
- Không luyến tiếc vật sở hữu là trừ được xan tham.
- Sanh tâm cung kính người thọ thí là trừ được tật đố.
- Trực tâm bố thí là trừ được siễm khúc.
- Nhất tâm bố thí là trừ được trạo cử.
- Tư duy bố thí là kết tụ công đức.
- Không chấp thủ tài vật là trừ được tham ái.
- Thương xót người thọ thí là trừ được kiêu mạn.
- Biết làm các pháp thiện là trừ được vô minh.
- Tin có quả báo là trừ được tà kiến.
- Biết quyết định có quả báo là trừ được tâm nghi.
Bố thí như vậy thì 6 căn đều được thanh tịnh, thiện tâm tăng trưởng, nội tâm nhu nhuyến khinh an. Do quán quả báo công đức, nên được tín tâm thanh tịnh.
Bố thí như vậy là được đầy đủ các pháp thiện, được thân tâm nhu nhuyến, hỷ lạc, được nhất tâm, được thật trí huệ.
Lại nữa, do bố thí như vậy, mà làm nảy sanh ở trong tâm đầy đủ 8 Thánh Đạo, 37 Phẩm Trợ Đạo v.v…
Lại có trường hợp, do bố thí mà được 32 tướng tốt, được làm vị Chuyển Luân Thánh Vương, có được đầy đủ 7 báu v.v…
Phật dạy: “Bố thí cho người từ xa đến, cho người bệnh, cho người đang gặp hoạn nạn, như nạn lửa, nạn gió, nạn nước, nạn giặc giã v.v… được thêm phần phước báo”.
Lại nữa, ruộng phước càng lớn thì phước đức càng nhiều. Ví như đem vườn nhà bố thí cho người tu hành, cúng dường cho Tăng Chúng thì được phước báo rất lớn.
Trong kinh có chép mẫu chuyện sau đây:
Thời xưa, ở nước Đại Nguyệt Thị, trong thành Thích Ca La, có một họa sĩ đi qua nước Đà La ở về phương Đông để hành nghề. Sau 15 năm, ông dành dụm được 30 cân vàng đem về cho gia đình.
Khi vừa đến nơi, ông nghe trong thành đánh trống triệu tập đại hội và
thấy Chúng Tăng thanh tịnh tề tựu ở hội trường, ông hỏi vị Duy Na: “Cúng dường một ngày ăn uống cho cả Chúng Hội phải tốn kém bao nhiêu?”
Vị Duy Na đáp: “Khoảng 30 cân vàng”.
Ông liền nói: “Cho phép tôi được cúng dường một ngày ăn uống”.
Cúng dường Chúng Tăng xong, ông trở về nhà với hai bàn tay trắng.
Bà vợ ông hỏi: “Ông đi làm ăn xa suốt 15 năm dài. Nay trở về nhà, ông có đem được gì về chăng?”
Ông đáp: “Tôi dành dụm được 30 cân vàng. Nhưng nay tôi đã đem số vàng ấy cúng dường cho Chư Tăng và Chúng Hội cả rồi”.
Bà vợ giận quá, bèn trói ông lại, dẫn ông đến cửa quan, và thưa rằng: “Chồng tôi chẳng nghĩ gì đến bổn phận đốí với vợ con. Dành dụm được bao nhiêu ông đem cho người khác hết sạch”.
Vị quan hỏi ông lý do, ông đáp: “Đời trước tôi chẳng khéo tu công đức bố thí, nên ngày nay phải chịu cảnh bần khổ. Nay có được duyên lành, gặp được ruộng phước chư tăng, mà tôi không trồng, cội phước thì về sau còn sẽ phải bị bần khổ mãi mãi”.
Vị quan ấy là một vị Ưu Bà Tắc có tín tâm thanh tịnh, kính Phật, trọng Tăng. Vừa nghe xong vị quan, bèn khen rằng: “Ngươi quả thật là một người thiện, biết xả tài hành thí, đem của mồ hôi nước mắt của mình dành dụm trong nhiều năm để cúng dường Chư Tăng. Thật là một tấm gương sáng để người khác noi theo”.
Nói như vậy rồi, vị quan truyền lấy vàng của mình đem bố thí lại cho nhà họa sĩ, và nói rằng: “Bố thí với tâm thanh tịnh được phước đức rất lớn”.
Lại nữa, phải nên biết có 2 thứ ĐÀN. Đó là:
- Thế Gian Đàn.
- Xuất Thế Gian Đàn.
Thế Gian Đàn và Xuất Thế Gian Đàn hoàn toàn khác nhau:
Bố thí với tâm hữu lậu, thì gọi là Thế Gian Đàn.
Các bậc Thánh, đã được Vô Tác Tam Muội, đã trừ sạch kiết sử, xan tham, nên dù phương tiện dùng tâm hữu lậu bố thí, mà vẫn gọi là hành Xuất Thế Gian Đàn.
Thế Gian Đàn là Bất Tịnh Thí, tức là bố thí không thanh tịnh.
Xuất Thế Gian Đàn là Tịnh Thí, tức là bố thí thanh tịnh.
Thế Gian Đàn là bố thí mà còn vướng mắc kiết sử.
Xuất Thế Gian Đàn là bố thí không trụ tướng, bố thí mà chẳng có niệm phân biệt giữa người cho, người nhận và vật cho, vì rõ biết tất cả đều là nhất tướng, là vô tướng, là thường trụ như hư không. Bố thí mà còn sanh tâm chấp chỉ là Thế Gian Đàn, là điên đảo, là không thật.
Bố thí với tâm như như, không điên đảo, rõ biết Thật Tướng Pháp, mới là Xuất Thế Gian Đàn.
Xuất Thế Gian Đàn được các bậc Thánh Nhân xưng tán, vì Xuất Thế Gian Đàn là bố thí theo đúng nghĩa của Thật Tướng Pháp, hòa hợp với Thật Tướng Trí Huệ.
Bố thí chỉ cầu giải thoát sanh tử cho mình là Thanh Văn Đàn.
Bố thí vì sự giải thoát sanh tử cho hết thảy chúng sanh là Bồ Tát Đàn.
Bố thí vì sợ sanh tử là Thanh Văn Đàn.
Bố thí vì giáo hóa chúng sanh mà không sợ sanh tử là Bồ Tát Đàn.
Trong kinh Bổn Sanh có chép mẫu chuyện về vua Ba La Bà và Bồ Tát Vi La Ma, như sau:
Bồ Tát Vi La Ma là vị Bổn Sư của vua Ba La Bà, dạy nhà vua rằng: “Ngài đã được vô lượng vinh hoa phú quí rồi; nay ngài cần phải nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng sanh”.
Nhà vua nghĩ rằng: “Dù ta chẳng còn mong cầu phú lạc, nhưng vì vạn pháp là vô thường nên ta phải hành đại bố thí”.
Nghĩ như vậy rồi, nhà vua tự tay thảo bố cáo cho các Bà La Môn và hết thảy các hàng xuất gia hãy đến cung vua để thọ nhận cúng dường.
Nhà vua được 8400 vị Quốc Vương và hảo tâm khác giúp sức, nên nguyện bố thí và cúng dường đầy đủ các vật dụng cần thiết trong 12 năm.
Bồ Tát Vi La Ma tán thán rằng:
Làm vừa lòng tất cả,
Là việc rất khó làm.
Nay ngài, vì Phật Đạo,
Quyết tâm hành Tịnh Thí.
Lúc bấy giờ, chư Thiên ở cõi Tịnh Cư Thiên dùng kệ hỏi:
Do đại nhân duyên gì,
Mở cửa đại bố thí ?
Vì thương xót chúng sanh,
Hay vì cầu Phật Đạo?
Chư Thiên lại suy nghĩ: “Nay chúng ta hãỵ đóng kín bình vàng lại, khiến nước không còn chảy xuống nữa”.
Biết rõ ý nghĩ của chư Thiên, các Ma vương hỏi rằng: “Các Bà La Môn cũng đều là những người xuất gia, cầu đạo. Vì sao lại cho họ chẳng phải là ruộng phước, lại đóng kín bình vàng khiến nước không chảy xuống được?”
Chư Thiên đáp: “Bố thí phải vì Phật Đạo. Nay các Bà La Môn toàn là những người theo tà kiến. Họ chẳng phải là ruộng phước”.
Các Ma Vương lại hỏi chư Thiên: “Làm sao có thể biết đích thật ai là người thực tâm cầu Phật Đạo?”.
Lúc bấy giờ, có một vị Trời ở cõi Tịnh cư Thiên, tự hóa thành một người Bà La Môn, đến hỏi vua Ba La Bà rằng: “Ngài cầu gì mà hành đại bố thí?”
Nhà vua dùng kệ đáp:
Tôi nguyện được Vô Dục,
Lìa Sanh Già Bệnh Chết,
Nhất tâm cầu Phật Đạo,
Nhằm độ hết chúng sanh.
Hóa Bà La Môn lại nói: “Phật Đạo rất khó được. Ngài nên cầu được phước báo khác”.
“Dù cho vành bánh xe lữa quay trên đầu tôi, tôi vẫn nhất tâm cầu Phật Đạo, chẳng mảy may hối hận. Vì sao? Vì chúng sanh trôi lăn trong 3 đường ác, chịu vô lượng khổ đau, nên tôi nhất tâm cầu Phật Đạo, chẳng bao giờ thối chuyển”.
Hóa Bà La Môn tán thán: “Lành thay! Lành thay!”. Rồi nói kệ:
Ngài dõng mãnh tinh tấn,
Thương xót mọi chúng sanh.
Trí huệ vô quái ngại,
Không lâu sẽ thành Phật
Lúc bấy giờ, trời mưa hoa cúng dường. Nhà vua lấy bình nước đổ lên tay Hóa Bà La Môn, nhưng nước không chảy. Nhà vua tự nghĩ: “Tâm ta chưa thanh tịnh chăng?”
Chư Thiên bèn nói rằng: “Người tà kiến, bị lưới nghi phiền não phá chánh kiến, khiến phải xa lìa thanh tịnh giới sẽ đọa vào các đường khổ”.
Rồi dùng kệ nói rằng:
Ác tà trong biển người
Không thuận với Chánh Đạo
Những người ở nơi đây,
Chẳng đại tâm như ngài.
Nhà vua nghe xong, dùng bài kệ đáp lại:
Nếu trong khắp mười phương,
Có ai tâm thanh tịnh.
Tôi xin nguyện quy mạng,
Đảnh lễ và cúng dường.
Nói xong, tay phải cầm bình nước dốc xuống tay trái, nhà vua tự lập nguyện rằng: “Nếu tôi thật sự hành đại bố thí, thì xin cho nước trong bình tự chảy ra”.
Ngay lúc bấy giờ, Hóa Bà La Môn thấy nước trong bình chảy trên tay nhà vua, liền dùng kệ tán thán rằng:
Nước từ bình chảy ra,
Thanh tịnh tợ lưu ly.
Nước chảy khắp tay ngài
Lành thay Đại Bố Thí!
Nhà vua nghe như vậy, càng sanh tâm cung kính, nói kệ rằng:
Tôi nay hành Bố Thí
Chẳng Cầu phước ba cõi,
Mà vì mọi chúng sanh,
Bố thí cầu Phật Đạo.
Nhà vua vừa nói dứt bài kệ, thì Đại Địa chấn động.
Kinh Bổn Sanh còn nêu nhiều trường hợp bố thí chẳng tiếc thân mạng như sau:
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi còn là Bồ Tát, đi khắp 4 Châu Thiên Hạ để cầu Phật Đạo. Gặp một Bà La Môn, Bồ Tát xin cầu Đạo. Vị Bà La Môn ấy nói: “Ông hãy lấy mỡ nơi thân ông thắp đèn, rồi ta sẽ thuyết kệ cho nghe”. Bồ Tát chẳng ngần ngại làm theo, để được nghe thuyết kệ.
Lại nữa, có thời Bồ Tát làm thân chim bồ câu trên núi Tuyết Sơn, thấy một người nghèo khổ, lạnh cóng, đang cần được sưởi ấm, chim liền tự đốt thân mình để bố thí cho người ấy.
Như vậy gọi là Nội Bố Thí, không tiếc thân mạng; cũng còn gọi là Đàn Ba La Mật.
D. Pháp Thí Ba La Mật:
Hỏi: Thế nào gọi là Pháp Thí?
Đáp: Đem những lời hay đẹp, có lợi ích, nói cho người khác nghe, gọi là Pháp Thí.
Ví như đem Giáo Pháp của 3 Thừa Giáo dạy người, đem 4 Pháp Tạng dạy người, đem những lời diệu thiện trong Phật pháp dạy người... đều gọi là Pháp Thí cả.
Hỏi: Đề Bà Đạt Đa cũng đem Giáo Pháp của 3 Thừa Giáo dạy cho người. Như vậy, vì sao thân Đề Bà Đạt Đa lại bị đọa vào Địa Ngục?
Đáp: Đề Bà Đạt Đa, vì tà kiến, vì cầu lợi danh, chẳng phải vì Đạo Thanh Tịnh mà thí pháp, nên phải đọa vào Địa Ngục.
Người thí pháp phải thường giữ tâm thanh tịnh; hành động thí pháp phải bắt nguồn từ thiện tâm. Thí pháp như vậy mới có được phước đức bố thí.
Lại nữa, người thuyết pháp phải thường tịnh tâm, tư duy, tán thán Tam Bảo, chỉ rõ tội phước, nói rõ 4 Thánh Đế... để giáo hóa chúng sanh, dẫn họ vào Phật Đạo.
Pháp thí chân tịnh phải hội đủ 2 điều kiện. Đó là:
- Không làm não hại chúng sanh, mà trái lại phải làm tăng trưởng thiện tâm nơi họ.
“Thường quán pháp KHÔNG. Lấy đó làm nhân duyên cho Niết Bàn. Bởi nhân duyên vậy, nên người thuyết pháp, ở trong đại chúng, phải luôn luôn giữ tâm thanh tịnh; nói pháp chỉ vì cầu Phật Đạo, chẳng phải vì danh vọng hoặc vì lợi dưỡng.
--o0o--
Hỏi: Giữa Tài Thí và Pháp Thí, lối bố thí nào hơn?
Đáp: Phật dạy “Trong 2 lối bố thí, thì Pháp Thí là hơn hết”.
Vì sao? Vì Tài Thí phải nhờ đến ngoại vật, còn Pháp Thí chỉ ở tại tâm. Tài Thí chỉ nuôi dưỡng sắc thân người, Pháp Thí nuôi dưỡng Pháp Thân. Bởi vậy nên so sánh 2 lối bố thí, thì Pháp Thí thắng hơn.
Hỏi: Vì sao nói “Pháp Thí là việc khó làm”?
Đáp: Thuyết pháp để độ chúng sanh là việc rất khó làm.
Hàng Thanh Văn chỉ độ được mình mà không độ được người. Vì sao? Vì không thuyết pháp đúng với Thật Tướng các pháp.
Lại nữa, nhờ hành pháp Thí mà hành giả phân biệt được hữu lậu với vô lậu, rõ được Thật Tướng các pháp, được tâm thanh tịnh, không bị lay chuyển, không bị phá hoại, thẳng tiến đến Phật Đạo.
Hỏi: Có 4 hạnh xả là Tài Xả, Pháp Xả, Vô úy xả và Phiền Não Xả. Vì sao chỉ nói đến Tài xả và Pháp xả mà không nói gì đến 2 hạnh xả kia?
Đáp: Vô Úy xả cùng với Thi La chẳng khác nhau nên không nói. Hơn nữa, đã có Bát Nhã thì chẳng còn có phiền não, tức là đã xả sạch phiền não rồi, nên không nói đến Phiền Não xả làm gì nữa.
Bởi nhân duyên vậy, nên khi nói đến 6 pháp Ba La Mật, thì chẳng cần phải nói đến 4 hạnh xả nữa, vì ở nơi Bát Nhã Ba La Mật đã đầy đủ cả 4 hạnh xả rồi vậy.
Hỏi: Thế nào gọi là Đàn Ba La Mật?
Đáp: ĐÀN đã được giải nghĩa rồi.
BA LA MẬT có nghĩa là đáo bỉ ngạn, tức là qua bờ bên kia.
Bờ bên này là bờ mê, bờ bên kia là bờ giác, hành giả phải vượt qua sông Ái mới đến được bờ bên kia.
Hỏi: Thế nào gọi là “Không đến bờ bên kia”?
Đáp: “Không đến bờ bên kia” có nghĩa là vượt sông Ái nhưng chưa đến được bờ bên kia thì đã vội quay trở về.
Trong kinh có dẫn dụ trường hợp của ngài Xá Lợi Phất như sau; Ngài Xá Lợi Phất tu bố thí trong 60 kiếp. Một hôm ngài gặp 1 người đến xin bố thí, ngài liền nói: “Ông đến xin tài vật của tôi, dẫn đến xin thân của tôi, tôi cũng sẵn sàng cho ông cả”.
Người ấy nói: “Tôi chỉ muốn xin con mắt của ông thôi. Tôi chẳng muốn xin tài vật của ông cũng chẳng muốn xin hết cả thân của ông”.
Ngài Xá Lợi Phất tự móc mắt của mình trao cho người ấy. Vừa cầm con mắt trên tay, người ấy liền vứt ngay xuống đất, lấy chân chà lên. Ngài Xá Lợi Phất tự nghĩ rằng: “Hạng người tội ác như vậy, ta không thể độ được”. Nghĩ như vậy rồi, ngài bỏ đại tâm làm lợi tha, trở về Thanh Văn Thừa lo phần tự lợi.
Lại nữa, phải nên biết “Bờ bên này là bờ xan tham”, cho nên hành giả phải hành bố thí để làm phương tiện vượt qua sông Ái, đến bờ bên kia, là bờ Giác, là Phật Đạo.
Còn chấp “Hữu-Vô” là còn ở bờ bên này; phá được chấp “Hữu-Vô” mới có được trí huệ dẫn đến bờ bên kia. Cho nên siêng năng tu bố thí là phương tiện hữu hiệu giúp hành giả vượt sông Ái qua đến bờ bên kia vậy.
Lại nữa, có 2 thứ Đàn. Đó là:
1- Ma Đàn và
2- Phật Đàn
- Nếu do bị kiết sử, phiền não chi phối, mà bố thí, thì gọi là Ma Đàn.
- Nếu bố thí với tâm thanh tịnh, không sợ hãi, không hối tiếc, không thối chuyển, thì gọi là Phật Đàn. Phật Đàn đưa hành giả đến bờ bên kia.
Trong Kinh Độc Xà Dụ có kể mẩu chuyện như sau:
Có 1 ông vua trao cho một tội nhân một hộp dựng 4 con rắn độc, bảo phải chăm sóc, nuôi nấng.
Người ấy quá lo sợ, tự nghĩ rằng “Loài rắn độc nguy hại, chẳng nên nuôi dưỡng làm gì”. Nghĩ như vậy rồỉ, người ấy bèn vứt bỏ hộp rắn đi, rồi tìm cách chạy trốn.
Nhà vua sai 5 người cầm dao rượt đuổi theo. Đến một nơi đồng trống, người ấy gặp 1 người hiền khuyên rằng “Chỗ này nhiều giặc cướp, chắc chắn ngươi sẽ bị sát hại. Ngươi hãy mau mau tìm đến con sông lớn ở đằng xa kia tìm cách vượt qua bờ bên kia; ngươi sẽ được an lạc thanh tịnh”.
Người ấy nghe xong, lấy 8 khúc cây kết lại thành bè, vượt qua được sông an toàn.
Trong mẩu chuyện này:
- Nhà vua dụ cho Ma Vương.
- Hộp đựng 4 rắn độc dụ cho thân 4 đại, đầy tham dục xấu ác.
- 5 người cầm dao dụ cho 5 ấm.
- Nơi đồng trống hoang vắng đầy giặc cướp dụ cho tâm thâm độc, tà ác, chẳng chút phước đức.
- Không nên trú dụ cho vứt bỏ 6 tình.
- Người hiền dụ cho bậc minh sư.
- Sông lớn dụ cho sông Ái.
- Bè kết bằng 8 khúc cây dụ cho 8 Thánh Đạo.
- Bờ bên này dụ cho Thế Gian.
- Bờ bên kia dụ cho Niết Bàn.
- Qua được bờ bên kia là được Vô Lậu Giải Thoát, chứng được Lậu Tận A La Hán.
Bồ Tát hành bố thí chẳng chấp “Có Ta là người hành thí, có người thọ thí của ta, có vật ta đem ra thí”. Bồ Tát, ở nơi cả 3 pháp ấy, được thanh tịnh, vô ngại, được chư Phật thán khen.
Vì sao? Vì khi bố thí mà sanh chấp tâm thì liền đọa vào cảnh giới của Ma vậy.
Bồ Tát Tu Đàn Ba La Mật và các Ba La Mật khác đầy đủ, nên đến được bờ bên kia.
Hỏi: Qua bờ bên kia rồi còn có gì khác nhau nữa chăng?
Đáp: Tuy cùng qua được bờ bên kia, nhưng cũng có sai khác:
- Nếu qua bờ bên kia, mà chỉ nhằm thoát ly sanh tử, chỉ cầu được vô úy, vô lậu cho riêng chính mình, là chưa có được tâm đại bi, chưa phải vì hết thảy chúng sanh hành bố thí, nên chưa được gọi là Đàn Ba La Mật.
- Nếu qua bờ bên kia nhằm độ thoát hết thảy chúng sanh, vì rõ biết tướng của bố thí thường thanh tịnh, chẳng có sanh, chẳng có diệt, là vô lậu vô vi như tướng của Niết Bàn mới thật là Đàn Ba La Mật.
Lại nữa, bố thí chẳng cùng tận mới gọi là Đàn Ba La Mật. Vì sao? Vì chúng sanh chẳng cùng tận, nên bố thí cũng chẳng cùng tận.
Bồ Tát tu đầy đủ 6 pháp Ba La Mật qua được bờ bên kia là đầy đủ Đàn Ba La Mật. Hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật thoát ly sanh tử cũng qua bờ bên kia, nhưng không được đầy đủ Đàn Ba La Mật.
Hỏi: Bố thí như thế nào mới được đầy đủ viên mãn Đàn Ba La Mật?
Đáp: Xả thân mạng mà không tiếc, dùng tâm bình đẳng mà bố thí chẳng cầu phước báo, mới gọi là đầy đủ, viên mãn Đàn Ba La Mật.
Bồ Tát từ khi sơ phát tâm đến khi thành Đạo, hành bố thí như vậy nên được đầy đủ viên mãn Đàn Ba La Mật.
Bồ Tát tu đến Đệ Thất Địa, rõ biết Thật Tướng các pháp, đem trí huệ giáo hóa chúng sanh, trang nghiêm Phật độ, cúng dường chư Phật khắp 10 phương, lại bố thí đầy đủ các thức ăn uống cho các loài Ngạ Quỷ, Địa Ngục, Súc Sanh, khiến họ có được thiện duyên tiêu trừ các tội lỗi, lại vì hết thảy chúng sanh bố thí pháp, khiến họ sanh tâm hoan hỷ, phát khởi tín tâm, hướng về Phật Đạo.
Trong Kinh có chép mẩu chuyện sau đây:
Ở nước Nguyệt Quang có người bị bệnh nặng, đến xin Thái Tử cứu chữa. Thái Tử hỏi ý kiến vị Ngự Y: “Bệnh của người này quá nặng, phải dùng phương thuốc gì để chữa trị?”
Vị Ngự Y thưa: “Chỉ có thể dùng huyết và tủy não mới chữa trị được”.
Thái Tử nghe vậy, liền bảo người đồ tể giết mình để lấy huyết và tủy não cho người bệnh, chẳng mảy may luyến tiếc. Như vậy Thái Tử đã xả bỏ sanh thân, hành Bố Thí Ba La Mật để được viên mãn Pháp Thân.
Hỏi: Vì sao hành Bố Thí Ba La Mật mà được viên mãn Pháp Thân?
Đáp: Bồ Tát đem đầu, mắt, tủy, não bố thí mà chẳng hề luyến tiếc.
Như vậy là đã xả nhục thân, để được Vô Sanh Pháp Nhẫn, cho nên được viên mãn Pháp Thân.
Trong Kinh Bổn Sanh có chép các mẩu chuyện sau đây:
“Vào một thời trong quá khứ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn là Bồ Tát, đã làm thân voi 6 ngà.
Một hôm, thấy người thợ săn đang chuẩn bị bắn mình, voi cất tiếng hỏi: “Ông muốn bắn tôi để làm gì?”
Người thợ săn đáp: “Tôi cần lấy ngà”.
Tức thì voi đến sườn núi tự nhổ các ngà để cho người thợ săn, máu chảy ra lênh láng mà vẫn thanh tịnh, chẳng chút sợ hãi, luyến tiếc. Như vậy là Bồ Tát Bố Thí Ba La Mật để được viên mãn Pháp Thân”.
--o0o--
Bồ Tát dùng đủ mọi phương tiện thiện xảo, thị hiện sanh trong các loài, hóa tác ra vô lượng tài vật quý báu để bố thí, nhằm giáo hóa chúng sanh và cúng dường chư Phật.
Hành bố thí như vậy là được viên mãn Pháp Thân.
Đàn Ba La Mật có 3 thứ , đó là Vật thí, Cung kính thí, và Pháp thí:
- Vật thí: Là đem nội ngoại vật sở hữu của mình mà bố thí cho người khác.
- Cung kính thí: Là cung kính lễ bái, cúng dường các bậc mà mình tôn kính.
- Pháp thí: Là đem pháp nhiệm mầu của Phật, đem những điều đạo đức giảng nói cho người khác nghe, khiến họ trừ được nghi hối và sanh được tín tâm thanh tịnh, hướng về Đạo Giải Thoát.
Hỏi: Dạy 5 giới cho người có phải là pháp thí không ?
Đáp: Bố thí phải hội đủ 3 nhân duyên. Đó là: - Tín tâm thanh tịnh, - Tài vật và - Ruộng phước (phước điền)
1-Bố thí với tín tâm thanh tịnh là bố thí bình đẳng, vừa thương xót chúng sanh, vừa cung kính các bậc tôn túc có đầy đủ công đức.
Đối với cả hai hạng người này, đều phải cung kính, lân mẫn, trong lúc hành bố thí cúng dường…
2- Tài vật thí là bố thí những tài vật của chính mình có, chẳng phải do mình cướp trộm, lường gạt dối trá mà có được.
3- Ruộng phước có 2 nghĩa. Đó là:
1/. Ruộng phước do thương xót (lân mẫn),
2/. Ruộng phước do cung kính.
Như vậy do thương xót hay cung kính chúng sanh mà trao 5 giới cho họ cũng là một hình thức pháp thí vậy.
Ví như vua A Dục đem đất đai, thành quách cúng dường Phật và chư Tăng là một trường hợp điển hình về tài vật thí. Lại như có người nữ đem chuỗi anh lạc và 7 báu của mình cúng dường tháp Phật Ca Diếp là tín tâm thanh tịnh thí vậy.
Hỏi: Nếu nói “Đàn là pháp xả tài vật”, thì sao còn nói là pháp “vô sở xả”?
Đáp: Có hai thứ Đàn. Đó là :
- Thế Gian Đàn
- Xuất Thế Gian Đàn
Xuất Thế Gian Đàn là vô tướng, cho nên là pháp Vô Sở Xả.
Tuy thật có tài vật đem ra bố thí, nhưng khi hành bố thí, hành giả không chấp có ta là người hành thí, không chấp có người thụ thí của ta, cũng không chấp có tài vật của ta đem ra để bố thí.
Cả 3 pháp “Người thí, người thụ và vật thí” đều thanh tịnh, đều là bất khả đắc cả.
Bố thí như vậy gọi là pháp Vô sở xả, có đại công đức, vì không sanh kiêu mạn, không sanh ái kiết.
Người thế gian dù chẳng còn kiêu mạn, nhưng cũng còn có ái pháp, nên khi bố thí chỉ mới xả tài mà chưa có xả thí.
Các bậc xuất thế gian, do chẳng còn có kiêu mạn, chẳng còn có ái kiết nên khi hành bố vừa xả tài, vừa xả thí. Bố thí như vậy mới là pháp xả đầy đủ, là pháp vô sở xả vậy…
Hỏi: Vì sao nói “Đầy đủ Đàn Ba La Mật cũng chỉ là danh, cũng là bất khả đắc?” Đã nói đến bố thí thì phải có người thí, có người thụ, có vật thí. Như vậy là đã có nhân duyên, có quả báo bố thí rõ ràng. Sao lại nói chỉ là danh, là bất khả đắc?
Đáp: Đây chỉ là do nhân duyên tạo tác có sai khác, mà khởi phân biệt các danh từ “Thật” hay “Không thật” vậy thôi.
Ví như tấm vải do nhiều sợi vải dệt thành. Khi còn là những sợi vải thì nói tấm vải là “không thật”, khi đã dệt xong thì nói tấm vải là “Thật”.
Lại nữa nhân duyên tạo tác các vật cũng có thể là “thật có” hay là “không thật có”. Ví như cảnh vật trong mộng, bóng trăng dưới nước đều không có nhân duyên tạo tác. Do phân biệt, đối đãi mà nói “trăng trên trời là thật”, “trăng dưới nước là không thật”. Tất cả các pháp ấy đều là giả danh, đều là giả pháp cả. Ví như ngắn đối đãi với dài, phương Đông đối đãi với phương Tây v.v… Thật ra “ngắn”, “dài”, “Đông”, “Tây”... đều là bất khả đắc cả.
Các pháp tướng đều chẳng thật có, nên chỉ là danh. Ví như sữa, do sắc, hương, vị cùng nhiều duyên khác mà thành. Thật sự sữa chỉ là danh, là bất khả đắc, chỉ ví như lông rùa sừng thỏ vậy thôi.
Cũng như tấm lụa do nhiều sợi tơ và nhiều nguyên nhân khác nữa tạo thành. Từ tấm lụa đó, lại phải có thêm nhiều nguyên nhân khác nữa mới tạo thành ra chiếc Y. Tất cả tấm lụa, chiếc y đó cũng chỉ là danh, cũng là bất khả đắc cả.
--o0o--
Hỏi: Phật đã dạy “Thật Tướng các pháp là vô sanh, vô tác” thì cần gì phải minh định rằng “người thí, người thọ và vật thí đều là thanh tịnh, là bất khả đắc” làm gì nữa?
Đáp: Phàm phu điên đảo chấp có người thí, người thọ và vật thí. Còn Bồ Tát hành Thật Đạo, được thật quả báo nên thấy rõ cả 3 pháp “người thí, người thọ và vật thí” đều thanh tịnh, đều bất khả đắc, làm sáng tỏ lời dạy của Phật nói “Thật tướng các pháp là vô sanh, vô tác”. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều là tự tánh KHÔNG. Bố thí như vậy là đầy đủ Đàn Ba La Mật.
Thay lời kết luận, chúng tôi trích dẫn từng đoạn của phẩm thứ nhất, “Đàn Ba La Mật”, tập 1, quyển 11 và 12, Đại Trí Độ Luận. Bao nhiêu lời giải thích chi ly như vậy là quá đủ. Cái gì chúng tôi thiếu sót, thì Luận bao che(cover) hết. Quý vị cố gắng thọ trì thôi!
---o0o---
Đến đây chấm dứt phần mười một,
(Hội thứ XI).
Tôn chỉ của Phật đạo là phá ngã, diệt tội, thành thục chúng sanh, thanh tịnh quốc độ. Phương pháp tốt nhất để phá ngã là phát Bồ đề tâm, hành Bồ Tát đạo, thực hiện độ tha mà tu lục độ vạn hạnh. Hạnh nguyện độ tha là Bố thí tài vật để giúp chúng sanh thoát khỏi đói khổ, hoạn nạn(đó là cứu sắc thân); Bố thí pháp để giúp chúng sanh thoát khỏi vô minh, u tối(đó là cứu pháp thân). Vô úy thí bảo vệ người cô thân, yếu kém khỏi lo âu sợ hãi trước mọi áp bức của bạo quyền. Nhưng Bố thí bất cứ dưới hình thức nào cũng phải quán Không và duyên Nhất thiết trí trí. Quán Không là xả bỏ quyền tư hữu, tức phá ngã, tu phước; duyên Nhất thiết trí trí tức tu huệ. Phước huệ song tu nên nói là phước đức vô lượng vô biên.
Nhưng còn nghĩ đến phước đức thì cũng chưa được gọi là Bố thí Ba la mật. Bố thí chỉ được gọi là Ba la mật, khi tam luân không tịch. Bố thí xong rồi mang phước đức thiện căn ban cho tất cả hữu tình, đồng hồi hướng Vô Thượng Bồ đề, thì mới gọi là bố thí vô thượng.
Phần “Bố Thí Ba La Mật” ĐBN không thuyết nhiều về giáo lý, chỉ nói nhiều về hạnh nguyện của Bồ Tát so với hạnh nguyện của Nhị thừa (Thanh văn và Duyên giác) mà thôi. Phần trích dẫn phẩm thứ nhất, “Đàn Na Ba La Mật”, Đại Trí Độ Luận đã nói lên đầy đủ tính cách vi diệu của pháp môn này.
Nói chung, Bố thí không phải là đổi chác: Tu bố thí để có cuộc sống phú quý đời này đời sau hay sanh lên cõi trời giàu sang sung sướng. Đó là tu có sở đắc. Tuy có phúc đức, nhưng chỉ là nhân hữu lậu của cõi nhân thiên. Bố thí là xả kỷ, là phá ngã, trừ tham... quên mình mới có thể hy sinh cho kẻ khác. Đó là nhân vô lậu, phước đức vô bờ bến. Nhưng Kinh cũng dạy rằng nếu vì nghiệp duyên không cho phép, thì tùy hỷ công đức cũng là điều tốt. Đó là tinh thần tương thân tương ái rộng lớn của những người sống theo mạch sống Đại thừa, với tôn chỉ hồi hướng cho kẻ khác.
Tóm lại, tham lam keo kiệt là bệnh ngàn đời của chúng sanh, tu bố thí để tiêu diệt cái nhân này. Nên nói tu bố thí độ xan tham.
Hội thứ XII kế tiếp thuyết về “Tịnh Giới Ba La Mật”. Khóa thứ V của Phật học Phổ Thông, mục nói về “Tôn chỉ và đặc điểm của Luật Tôn” có ghi rằng “...Như chúng ta đã biết trong phần giáo lý căn bản, nghiệp là động lực chính của vũ trụ nhân sinh. Nghiệp định đoạt tất cả đời sống chúng ta. Nghiệp có ba loại: Nghiệp của hành động, nghiệp của lời nói và nghiệp của ý nghĩ. Nếu những nghiệp ấy được thanh tịnh, không tạo ra các điều ác, thì ta không thọ quả báo sinh tử luân hồi. Không có quả báo sinh tử luân hồi tất nhiên là được giải thoát. Muốn các nghiệp được thanh tịnh thì ta phải giữ gìn giới luật, chính là một phương pháp tu hành trong nhiều phương pháp mà Phật đã chia ra. Phương pháp này rất thiết thực và rất hiệu nghiệm đối với Phật tử chúng ta”.
“(...) Nhờ giữ “giới luật” không làm các việc tội lỗi, nên tâm được “định”; do tâm định nên phát khởi “trí huệ”. Nhờ có trí huệ sáng suốt nên phá trừ được vô minh si ám, và được minh tâm kiến tâm thành Phật”.
Tịnh giới chính là hạnh cao cả của Bồ Tát hạnh. Giới thanh tịnh thì hạnh cũng thanh tịnh. Không ai trong cõi đời này mà không gây tội, không phạm giới. Nên nói người nào không phạm giới trong cõi đời này người ấy được xem là Thánh nhân. Vì vậy, tu trì giới để được tịnh tâm! Tâm có tịnh thì hạnh mới tịnh. Hạnh tịnh thì chết cũng được về cõi Phật. Một hạnh thanh tịnh thì mười phương thế giới đều thanh tịnh.
Đến đây chấm dứt Hội thứ XI, ĐBN.
---o0o---