- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM "THIẾT LỢI LA HAY XÁ LỢI"
Phần cuối quyển 430, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với Đoạn sáu, phẩm "So Lường Công Đức",
phần sau Q.127 đến phần đầu Q.130, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Phẩm “Thiết Lợi La” của Kinh ĐBN, cũng giống như phẩm “Xá Lợi” của Kinh MHBNBLMĐ, so sánh công đức của người xây bảo tháp thờ phụng cúng dường xá lợi Phật với người biên chép thọ trì… Kinh ĐBN, ai có công đức hơn? Ai cũng có thể trả lời câu hỏi này, nên không cần bàn thêm nữa. Phẩm này đáng chú ý là Phật thuyết thêm “pháp môn bất nhị”. Tu mà thủ tâm chấp tướng là chưa nhập được pháp môn bất nhị. Đó là còn phân biệt, chấp đắm. Nếu còn thấy thọ trì Bát Nhã là công đức hơn người lập bảo tháp để cúng dường xá lợi Phật là năng sở chưa tiêu, còn hữu sở đắc tức còn sống trong nhị pháp, chưa nhập được “pháp không”. Nên Phật nêu thí dụ “Nếu có ai muốn phân biệt “pháp tánh”... nhẫn đến muốn phân biệt “thật tế, bất khả tư nghì tánh” là “nhị tướng”, thì người đó muốn Bát Nhã Ba La Mật “nhị tướng”. Bát nhã Ba la mật là pháp môn bất nhị, một pháp môn được xem là tối cao trong 84.000 pháp môn Phật học.
Tóm lược:
- Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp châu Thiệm bộ đây, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm lại chọn lấy một phần. Trong hai phần đây, ngươi lấy phần nào?
Trời Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Chắc chắn con lấy Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Vì đối với Xá lợi của chư Phật, chẳng phải con không tín thọ, chẳng phải con chẳng vui thích cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, nhưng Kim thân và Xá lợi của chư Phật đều do Bát nhã Ba la mật như thế sanh ra, và đều do công đức thế lực huân tu Bát nhã Ba la mật, nên mới được tất cả thế gian, trời, người, A tu la… đem vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa, cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Khi ấy, Xá lợi Tử bảo trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật thậm thâm vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng. Pháp vô tướng đã chẳng thể thủ được, vậy ông làm sao mà lấy? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm không lấy không bỏ, không thêm không bớt, không tụ không tan, không ích không tổn, không nhiễm không tịnh; chẳng đồng với pháp chư Phật, chẳng đồng với pháp Độc giác, chẳng đồng với pháp A la hán, chẳng đồng với pháp học, chẳng bỏ pháp dị sanh; chẳng đồng với vô vi giới, chẳng bỏ hữu vi giới, chẳng đồng với nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng đồng với bốn niệm trụ, cho đến Nhất thiết tướng trí, chẳng bỏ pháp tạp nhiễm. (Q.430, ĐBN)
Trời Đế Thích bèn nói với cụ thọ Xá lợi Tử:
- Đúng vậy! Đúng như Đại đức đã nói. Bạch Đại đức! Nếu như thật biết Bát nhã Ba la mật thậm thâm không lấy không bỏ, cho đến chẳng đồng với Nhất thiết tướng trí, chẳng bỏ tạp nhiễm, đó là chơn Bát nhã Ba la mật, cũng là chơn tu Bát nhã Ba la mật. Nhưng Bát nhã Ba la mật đây chẳng theo hai hạnh, vì không hai tướng. Tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật cũng như vậy, chẳng theo hai hạnh, vì không hai tướng.
Khi ấy, đức Phật khen trời Đế Thích rằng:
- Hay thay! Đúng như ông đã nói. Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật thậm thâm đều chẳng theo hai hạnh. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì sáu pháp Ba la mật như thế đều không hai tướng. Những người có ý muốn khiến Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật có hai tướng, tức là muốn pháp giới, chơn như, pháp tánh, thật tế, bất tư nghì giới cũng có hai tướng. Vì sao? Này Kiều Thi Ca! Vì Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật thậm thâm cùng với pháp giới cho đến bất tư nghì giới không hai, không hai phần.
Trời Đế Thích lại thưa:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, thế gian, trời, người, A tu la… đều nên chí thành lễ bái, đi nhiễu, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Vì sao? Vì tất cả Bồ Tát đều nương vào Bát nhã Ba la mật đây, tinh tấn siêng năng tu học, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Bạch Thế Tôn! Như khi con ngồi trên tòa Thiên Đế, trong điện Thiện pháp của cõi trời Ba mươi ba, vì các thiên chúng mà tuyên nói Chánh pháp thì có vô lượng các thiên tử… đi đến chỗ con cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, đi nhiễu lễ bái, rồi chắp tay lui về. Nhưng khi con chẳng ở trên pháp tòa kia, các thiên tử… cũng đến chỗ ấy, dù chẳng thấy con ngồi trên pháp tòa, họ vẫn cung kính cúng dường, nói rằng: Đây là chỗ ngồi của trời Đế Thích, vì chư thiên… thuyết pháp, chúng ta nên xem như có thiên chủ ở đây mà cúng dường, đi nhiễu, lễ bái.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như vậy, nếu nơi nào có người biên chép, thọ trì đọc tụng, rộng vì hữu tình giảng nói lưu bố thì phải biết rằng, chỗ ấy luôn có vô lượng vô số trời, rồng, Dược xoa, kiện đạt phược, A tu la, yết lộ trà, khẩn nại lạc, mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn… ở cõi đây và mười phương vô biên thế giới khác, đều đến nhóm hội. Giả sử ở chỗ ấy không có người thuyết pháp, vì kính trọng pháp, họ cũng cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, lễ bái rồi lui. Vì sao? Vì tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, tất cả hữu tình có được sự an vui là đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà được. Xá lợi của Phật được cúng dường cũng do công đức huân tu Bát nhã Ba la mật mà được vậy.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật cùng với Bồ Tát hạnh và chỗ chứng được Nhất thiết tướng trí làm nhân, làm duyên, làm chỗ nương dựa, hay khéo dẫn phát. Vậy nên con nói: Giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp châu Thiệm bộ đây, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật Thậm thâm như thế, chọn lấy một phần. Trong hai phần đây, nhất định con lấy Bát nhã Ba la mật.
Bạch Thế Tôn! Do vậy, Bát nhã Ba la mật có thể thọ nhận vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu tân kỳ quý lạ v.v… của trời, người, A tu la đem cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Bạch Thế Tôn! Nếu ai đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố, hoặc lại biên chép, trang hoàng bằng các thứ báu, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen thì quyết định chẳng đọa địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, hoặc bị đài nơi biên địa quê mùa; những người đó cũng chẳng rơi vào hàng Thanh văn và Độc giác, nhất định huớng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thường thấy chư Phật, luôn nghe Chánh pháp, chẳng lìa bạn lành, nghiêm tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình; từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn và các chúng Đại Bồ Tát.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp Tam thiên đại thiên thế giới đây, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm, lại chọn lấy một phần. Trong hai phần này, nhất định con lấy Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và Xá lợi của Phật khắp Tam thiên đại thiên thế giới đều từ Bát nhã Ba la mật đây sanh ra. Hơn nữa, Xá lợi của Phật là do thế lực công đức huân tu từ Bát nhã Ba la mật, nên được các trời, người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Bởi nhân duyên đây, nên các thiện nam, thiện nữ nào cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Xá lợi của Phật thì quyết định chẳng đọa vào ba đường ác, thường sanh cõi trời người hưởng an vui phú quí, tùy theo sở nguyện mà nương pháp Tam thừa hướng tới Niết bàn.
Bạch Thế Tôn! Hoặc thấy đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc thấy Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã thư tả. Hai công đức đây bình đẳng không khác nhau. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm cùng với các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác bình đẳng không hai, không hai phần.
Bạch Thế Tôn! Nếu có đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nào trụ ba phen chỉ dẫn, vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp, tức là Khế Kinh cho đến Luận nghị(1); hoặc có thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba la mật đây, thọ trì đọc tụng, rộng vì người thuyết; thì hai công đức đây bình đẳng, không khác nhau. Vì sao? Vì nếu đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hoặc ba phen chỉ dẫn, hoặc tuyên thuyết mười hai phần giáo thì đều phải nương vào Bát nhã Ba la mật mà sanh ra vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương cõi, trụ ba phen chỉ dẫn, vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp, tức là Khế Kinh cho đến Luận nghị; hoặc có thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba la mật đây, thọ trì đọc tụng, rộng vì người thuyết, thì hai công đức đây bình đẳng không khác nhau. Vì sao? Vì nếu tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhiều như cát sông Hằng khắp mười phương cõi, hoặc ba phen chỉ dẫn, hoặc tuyên thuyết mười hai phần giáo thì đều phải nương vào Bát nhã Ba la mật mà sanh ra vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu có thiện nam thiện nữ đem vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ v.v… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như cát sông Hằng khắp mười phương thế giới; hoặc có thiện nam, thiện nữ biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật, cũng dùng vô lượng phẩm vật thượng diệu cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, thì hai công đức đây bình đẳng không khác nhau. Vì sao? Vì các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà sanh ra vậy.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba la mật đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý, rộng vì hữu tình tuyên nói lưu bố thì tương lai, vị ấy chẳng bị đọa vào địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ; chẳng rơi vào hàng Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì thiện nam, thiện nữ này quyết định sẽ trụ bậc Bất thối chuyển, xa lìa tất cả tai họa, tật dịch, khổ não.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba la mật đây chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh chuyên tu học, suy nghĩ đúng lý v.v… biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp, lại dùng vô lượng phẩm vật thượng diệu cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen thì nhất định các vị ấy dứt hẳn tất cả sự sợ hãi. Như kẻ mắc nợ sợ hãi chủ nợ, bèn gần gũi phụng sự quốc vương, nương thế lực nhà vua tránh được sợ hãi. Bạch Thế Tôn! Vua dụ cho Bát nhã Ba la mật, kẻ mắc nợ người dụ cho thiện nam, thiện nữ nương vào Bát nhã Ba la mật thoát khỏi sợ hãi.
Bạch Thế Tôn! Ví như có người nương dựa vua, nhờ vua bảo hộ nên họ được mọi người cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Xá lợi của Phật cũng lại như thế, do huân tu từ Bát nhã Ba la mật nên được các trời, người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Bạch Thế Tôn! Vua dụ cho Bát nhã Ba la mật, Xá lợi của Phật dụ cho kẻ nương vua.
Bạch Thế Tôn! Chư Phật đạt được Nhất thiết tướng trí cũng là nhờ nương vào Bát nhã Ba la mật mà được. Vậy nên con nói, giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp Tam thiên đại thiên thế giới, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật lấy làm một phần. Trong hai phần đây, con nhất định lấy Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Xá lợi của Phật cứng chắc hơn kim cương, đủ các màu sắc và ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân, mười lực của Phật, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết tướng trí của Như Lai đều do Bát nhã Ba la mật mà thành tựu.
Bạch Thế Tôn! Do sức oai thần của Bát nhã Ba la mật đây nên năm pháp: Bố thí, trì giới… cũng được gọi là Ba la mật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nếu không có Bát nhã Ba la mật thì bố thí, trì giới… chẳng thể đạt đến chỗ rốt ráo được.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Nếu trong vương quốc, Kinh đô, thành ấp, xóm làng nào của Tam thiên đại thiên thế giới, hoặc các thế giới khác mà có người thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói, cúng dường cung kính tôn trọng, ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế, thì hữu tình ở chỗ đó chẳng bị các loài nhơn phi nhơn… làm não hại, chỉ trừ ác nghiệp đã chín mùi phải chịu. Hữu tình trong đây lần lượt tu học chánh hạnh Tam thừa, tùy theo sở nguyện mà sớm chứng được Niết bàn của Tam thừa.
Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế làm lợi ích lớn cho cõi Tam thiên đại thiên thế giới. Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế đủ đại thần lực, ở chỗ nào thì chỗ đó có Phật, làm các Phật sự, nghĩa là luôn làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình.
Bạch Thế Tôn! Ví như thần châu đại bảo vô giá có đủ vô lượng oai đức thắng diệu. Thần châu này ở chỗ nào thì chỗ đó, nhơn và phi nhơn không có não hại. Giả sử có người nam hoặc người nữ nào bị quỷ bắt giữ, thân tâm khổ não, nếu cầm thần châu đây đưa cho họ thấy thì do oai lực của thần châu, quỷ liền bỏ chạy. Hoặc người bị bệnh nóng, bệnh gió, bệnh đàm, hoặc nóng gió đàm tập hợp sanh bệnh, nếu buộc thần châu nơi thân thì các bệnh như thế đều lành. Trong đêm tối, thần châu có thể soi sáng và khi nóng, làm cho mát, khi lạnh, làm cho ấm. Bất cứ nơi đâu có thần châu thì thời tiết nơi đó điều hòa, chẳng lạnh chẳng nóng. Nếu nơi nào có thần châu thì rắn độc, bọ cạp… không dám ở. Giả sử có người nam hoặc người nữ nào bị trúng độc đau khổ mê man, nếu cầm thần châu đưa cho họ thấy thì nhờ oai lực của thần châu độc liền tiêu mất. Nếu các hữu tình thân bị tật hủi, ghẻ dữ, đầy thủng, nhặm mắt, mù loà, bệnh mắt, bệnh tai, bệnh mũi, bệnh lưỡi, bệnh cổ, bệnh thân, bệnh khắp tứ chi, đeo thần châu vào thân thì các bệnh đều lành. Nếu nước trong các ao hồ, suối, giếng… bị đục uế, hoặc sắp cạn khô, đem thần châu bỏ vào trong ấy thì nước tràn đầy, thơm sạch tinh khiết, đủ tám công đức. Nếu dùng tấm vải đủ các loại màu: Xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng tía, bích lục xen tạp nhau, gói thần châu lại rồi cho vào nước, vải ngũ sắc kia có màu sắc như thế nào thì nước cũng có màu sắc như thế. (Q.430, ĐBN)
Viên thần châu đại bảo vô giá như vậy, oai đức vô biên, khen chẳng thể hết. Nếu đựng trong rương thì rương kia cũng thành tựu đầy đủ vô biên oai đức. Dù cho rương này hiện tại trống không, nhưng do trước đây từng đựng thần châu, nên nó vẫn được nhiều người mến trọng.
Bấy giờ, Khánh Hỷ hỏi trời Đế Thích rằng:
- Thần châu như thế chỉ độc nhất chư thiên mới có hay loài người cũng có?
Trời Đế Thích thưa:
- Bạch Đại đức! Trong cõi người và trên trời đều có châu này. Nhưng ở trong cõi người thì châu này hình nhỏ mà nặng, còn ở trên trời thì châu này lớn mà nhẹ. Thần châu này ở trong cõi người, tướng của nó chẳng đầy đủ, nhưng ở trên cõi trời thì tướng của châu này tròn trịa. Thần châu trên cõi trời oai đức thù thắng vô lượng bội phần hơn ở cõi người.
Khi ấy, trời Đế Thích lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật thậm thâm cũng lại như vậy, làm gốc các đức, năng diệt vô lượng pháp ác bất thiện; ở bất cứ nơi đâu, nó cũng khiến cho thân tâm khổ não của các hữu tình đều được trừ diệt; nhơn phi nhơn… chẳng làm hại được.
Bạch Thế Tôn! Cái gọi là thần châu đại bảo vô giá, chẳng những chỉ dụ cho Bát nhã Ba la mật thậm thâm, mà còn dụ cho Nhất thiết tướng trí của Như Lai, cũng dụ cho tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật, cũng dụ cho nội không cho đến vô tánh tự tánh không, cũng dụ cho bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, cũng dụ cho pháp giới, pháp tánh, pháp trụ, pháp định, chơn như, thật tế, bất tư nghì giới. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì công đức như thế đều do đại oai thần lực của Bát nhã Ba la mật dẫn phát hiển bày. Công đức này sâu rộng vô lượng vô biên. Xá lợi của Phật do các công đức đã huân tu, nên sau khi Phật Niết bàn mới có thể kham nhận tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Xá lợi của Phật là cực viên mãn tối thắng thanh tịnh; do nương vào Bát nhã Ba la mật cho đến bố thí Ba la mật, nội không cho đến vô tánh tự tánh không, bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, dứt hẳn tập khí phiền não nối nhau và nương vào vô lượng vô biên Phật pháp khác, nên sau khi Phật Niết bàn mới có thể kham nhận tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Bạch Thế Tôn! Xá lợi của Phật là công đức trân bảo cực viên mãn tối thắng thanh tịnh, do nương vào Bát nhã Ba la mật nên có thể kham nhận tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Xá lợi của Phật là cực viên mãn tối thắng thanh tịnh, không nhiễm không tịnh, không sanh không diệt, không vào không ra, không thêm không bớt, không đến không đi, không động không ngừng, không đây không kia; do nương vào Ba la mật nên sau khi Phật Niết bàn mới có thể kham nhận tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Xá lợi của Phật là thật tánh của các pháp cực viên mãn tối thắng thanh tịnh, do nương vào Bát nhã Ba la mật nên sau khi Phật Niết bàn mới có thể kham nhận tất cả thế gian, trời, người, A tu la… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. (Q.430, ĐBN)
Lại nữa, Bạch Thế Tôn! Ngoài việc nói Xá lợi của Phật đầy Tam thiên đại thiên thế giới, giả sử Xá lợi của Phật đầy khắp mười phương giới nhiều như cát sông Hằng, chọn lấy một phần; biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, chọn lấy một phần. Trong hai phần đây, con nhất định chọn lấy Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì Xá lợi của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều do Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế sanh ra, đều do Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế huân tu, đều do Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế làm chỗ nương tựa nên có thể kham nhận tất cả trời, rồng, dược xoa, kiện đạt phược, A tu la, yết lộ trà, khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Xá lợi của Phật thì vị đó sẽ hưởng được các sự giàu sang, an vui không cùng tận trong các cõi trời, người. Trong cõi người, đó là đại tộc Sát đế lợi, đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ. Trên cõi trời, đó là chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Tha hóa tự tại. Tức do căn lành thù thắng như thế nên đến thân cuối cùng dứt sạch các khổ.
Bạch Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với Bát nhã Ba la mật đây, chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, biên chép giải nói, suy nghĩ đúng lý thì do Bát nhã Ba la mật đây mà mau được viên mãn. Do được viên mãn Bát nhã Ba la mật như vậy, nên khiến cho tĩnh lự cho đến bố thí Ba la mật, bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng được viên mãn. Do đây, nên giỏi khéo vượt bậc Thanh văn và Độc giác, chứng nhập chánh tánh ly sanh của Bồ Tát, được thần thông thù thắng của Bồ Tát. Hóa thần thông dạo các cõi Phật; từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, phát tư nguyện thù thắng, thọ các loại thân, vì muốn làm lợi ích cho các loại hữu tình nên làm Chuyển luân vương, hoặc làm các Tiểu vương, hoặc làm Sát đế lợi, hoặc làm Bà la môn, hoặc làm Tỳ sa môn, hoặc làm Đế Thích, hoặc làm Phạm vương, hoặc làm các loài khác lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình.
Do vậy, bạch Thế Tôn! Đối với Xá lợi của chư Phật, con chẳng phải không tín thọ, chẳng phải không vui mừng, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Nhưng đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, con cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, thì được công đức rất nhiều hơn kia. Do nhân duyên đây, con quyết định chọn lấy Bát nhã Ba la mật thậm thâm.
Bạch đức Thế Tôn! Nếu thiện nam, thiện nữ… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Bát nhã Ba la mật như thế thì làm tăng trưởng tất cả Phật pháp, cũng là thu nhận sự giàu có, an vui tự tại của thế gian và xuất thế gian. Như vậy là đã cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen Xá lợi của Phật.
Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu có ai muốn được thường thấy Sắc thân, Pháp thân của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương ở vô lượng, vô số vô biên thế giới, nên đối với Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế chí tâm lắng nghe, thọ trì đọc tụng, tinh tấn siêng năng tu học, suy nghĩ đúng lý, biên chép giải nói, truyền bá cùng khắp thì vị ấy sẽ thấy được hai thân (sắc thân và pháp thân) của tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khắp mười phương vô lượng, vô số vô biên thế giới; rồi dần dần tu Bát nhã Ba la mật khiến cho mau viên mãn. Khi ấy, nên dùng pháp tánh để tu quán Phật tùy niệm.
Bạch Thế Tôn! Pháp tánh có hai: một là hữu vi, hai là vô vi.
Trong đây, cái gì gọi pháp tánh hữu vi? Đó là trí nội không cho đến trí vô tánh tự tánh không, trí bốn niệm trụ cho đến trí tám chi Thánh đạo, trí ba môn giải thoát, trí mười lực Phật cho đến trí mười tám pháp Phật bất cộng, trí pháp thiện phi thiện, trí pháp hữu ký vô ký, trí pháp hữu lậu vô lậu, trí pháp hữu vi vô vi, trí pháp thế gian xuất thế gian, trí pháp tạp nhiễm thanh tịnh. Các trí môn nhiều vô lượng như thế đều được gọi là pháp tánh hữu vi.
Trong đây, pháp tánh vô vi là gì? Đó là tất cả pháp không sanh, không diệt, không trụ, không dị, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, không tướng, không tạo tác, không tánh tự tánh. Vì sao gọi là không tánh tự tánh? Nghĩa là tất cả pháp lấy vô tánh làm tự tánh. Như vậy nói tên vô vi pháp tánh.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Này Kiều Thi Ca! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đệ tử Thanh văn của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà đã được, sẽ được, hiện được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán. Các vị Độc giác quá khứ, vị lai, hiện tại đều nương vào Bát nhã Ba la mật mà đã chứng, sẽ chứng, hiện chứng quả Độc giác Bồ đề. Vì sao? Vì trong tạng bí mật của Bát nhã Ba la mật như thế đã rộng nói pháp tương ưng với Tam thừa. Song những điều đã nói ở đây đều lấy vô sở đắc làm phương tiện, không tánh không tướng làm phương tiện, không sanh không diệt làm phương tiện, không nhiễm không tịnh làm phương tiện, không tạo không tác làm phương tiện, không nhập không xuất làm phương tiện, không tăng không giảm làm phương tiện, không thủ không xả làm phương tiện. Những điều đã nói như thế đều là do thế tục mà nói, chẳng phải thắng nghĩa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế, chẳng phải bờ đây, chẳng phải bờ kia; chẳng phải ở hai bên, chẳng phải giữa dòng; chẳng cao, chẳng thấp; chẳng bình đẳng, chẳng phải chẳng bình đẳng; chẳng phải có tướng, chẳng phải không tướng; chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian; chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu; chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi; chẳng phải thiện, chẳng phải ác; chẳng phải hữu ký, chẳng phải vô ký; chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.
Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật như thế chẳng đồng với pháp Phật, chẳng đồng với pháp Bồ Tát, chẳng đồng với pháp Độc giác, chẳng đồng với pháp Thanh văn, cũng chẳng bỏ pháp dị sanh.
Trời Đế Thích lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật như thế là Đại Ba la mật, là Vô thượng Ba la mật, là Vô đẳng đẳng Ba la mật. Khi các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật như thế, tuy biết tâm hành cảnh giới của tất cả hữu tình sai khác, nhưng chẳng thủ đắc ngã; chẳng thủ đắc hữu tình cho đến chẳng thủ đắc tri giả, kiến giả; chẳng thủ đắc sắc cho đến thức; chẳng thủ đắc nhãn cho đến ý; chẳng thủ đắc sắc cho đến pháp; chẳng thủ đắc nhãn thức cho đến ý thức; chẳng thủ đắc nhãn xúc cho đến ý xúc; chẳng thủ đắc nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ; chẳng thủ đắc bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; chẳng thủ đắc nội không cho đến vô tánh tự tánh không; chẳng thủ đắc bốn niệm trụ cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; chẳng thủ đắc Bồ đề; chẳng thủ đắc Niết bàn; chẳng thủ đắc chư Phật và pháp chư Phật. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp, chẳng phải Bát nhã Ba la mật đây nương sở đắc mà xuất hiện. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đều không có tự tánh, cũng không có sở hữu, cũng chẳng thể nắm bắt. Năng đắc, sở đắc và hai chỗ nương tánh tướng đều là không, không thể thủ đắc.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Này Kiều thi ca! Các Đại Bồ Tát đã nhiều kiếp tu học Bát nhã Ba la mật thậm thâm, còn chẳng đắc Bồ đề, huống là đắc pháp Bồ Tát.
Trời Đế Thích thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát chỉ hành Bát nhã Ba la mật hay cũng hành năm pháp Ba la mật kia?
Phật đáp:
- Này Kiều Thi Ca! Các Đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện tu đủ sáu pháp Ba la mật. Nghĩa là các Đại Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, chẳng thủ đắc bố thí Ba la mật, chẳng thủ đắc người thí và kẻ thọ thí. Khi tu hành tịnh giới Ba la mật, chẳng thủ đắc tịnh giới Ba la mật, chẳng thủ đắc người trì giới và kẻ phạm giới. Cho đến khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thủ đắc Bát nhã Ba la mật, chẳng thủ đắc người đầy đủ diệu tuệ và kẻ đầy ác tuệ.
Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Nếu lấy Bát nhã Ba la mật mà làm tôn dẫn, thì các Đại Bồ Tát tu hành tất cả Ba la mật mau được viên mãn. Khi Đại Bồ Tát này hành bố thí lấy Bát nhã Ba la mật làm tôn đạo, tu tập bố thí không chấp trước thì mau được viên mãn. Cho đến khi hành Bát Nhã lấy Bát nhã Ba la mật làm tôn dẫn, tu tập Bát Nhã không chấp trước thì mau được viên mãn.
Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Đại Bồ Tát này đối với tất cả pháp, lấy không sở đắc làm phương tiện tu hành Bát Nhã nên không chấp trước, khiến cho sự tu hành mau được viên mãn. Nghĩa là đối với sắc, lấy vô sở đắc làm phương tiện, cho đến đối với Nhất thiết tướng trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện.
Này Kiều Thi Ca! Như các cây, nhánh, cọng, thân, hoa, lá, quả, hạt ở châu Thiệm bộ, tuy có nhiều loại hình sắc khác nhau, nhưng bóng che của nó đều không sai khác. Cũng vậy, năm pháp Ba la mật trước tuy có khác nhau, song do Bát nhã Ba la mật thu nhiếp, hồi hướng Nhất thiết tướng trí, lấy vô sở đắc làm phương tiện nên các tướng sai khác đều bất khả đắc.
Khi ấy, trời Đế Thích lại thưa Phật:
- Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật thành tựu công đức thù thắng rộng lớn, thành tựu công đức thù thắng viên mãn, thành tựu công đức thù thắng vô lượng, vô biên, vô đẳng.
Bạch Thế Tôn! Nếu có các thiện nam, thiện nữ biên chép, thọ trì Bát nhã Ba la mật sâu xa như thế, trang nghiêm bằng các báu, đem vô lượng phẩm vật thượng diệu cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen, y theo Kinh đây giảng nói, suy nghĩ đúng lý. Lại có các thiện nam, thiện nữ khác biên chép Kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, bố thí cho người khác thọ trì, truyền bá cùng khắp. Bạch đức Thế Tôn! Hai nhóm phước này nhóm nào nhiều hơn?
Phật đáp:
- Này Kiều Thi Ca! Ta lại hỏi ông, tùy ý ông đáp. Nếu có các thiện nam, thiện nữ thỉnh được Xá lợi của Phật rồi đựng trong hộp báu đặt trên cao; lại dùng vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Lại có các thiện nam, thiện nữ cũng thỉnh được Xá lợi của Phật, rồi lại chia ra nhiều phần nhỏ như hột cải đem cho người khác kính thọ, an trí như pháp, dùng đủ loại phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu trân kỳ quý lạ… cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Hai nhóm phước đây nhóm nào nhiều hơn?
Trời Đế Thích thưa:
- Bạch Thế Tôn! Con hiểu nghĩa Phật nói, hai nhóm phước đây, người sau nhiều hơn. Vì sao? Vì các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quán thấy các loài hữu tình đối với Xá lợi của chư Phật mà cúng dường cung kính thì sẽ được độ thoát. Nên khi sắp vào Niết bàn, các Ngài dùng lực Kim cương dụ Tam ma địa đập nát thân Kim cương vụn như hạt cải, lại dùng thần lực đại bi sâu rộng gia trì vào Xá lợi như thế, khiến cho hữu tình đối với Như Lai sau khi vào Niết bàn, có được một lượng bằng hạt cải, cúng dường cung kính thì được phước vô biên, ở trong trời người hưởng nhiều sự giàu sang an lạc, cho đến cuối cùng trừ sạch các khổ. Vậy nên kẻ chia Xá lợi cho người, phước ấy thù thắng hơn.
Bấy giờ, Phật bảo trời Đế Thích:
- Hay thay! Đúng như ông đã nói. Này Kiều Thi Ca! Bát nhã Ba la mật này cũng lại như vậy. Nếu tự thọ trì (Bát Nhã), so với bố thí (Bát Nhã) cho người khác, truyền bá cùng khắp thì hai nhóm phước đây, người sau nhiều hơn. Vì sao? Vì người bố thí thường khiến cho vô lượng vô biên hữu tình được pháp hỷ.
Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Nếu có người nào đối với nghĩa thú của thậm thâm đây đã nói, như thật vì người phân biệt giải nói, khiến cho họ được hiểu chơn chánh thì vị ấy được nhóm phước thù thắng hơn công đức bố thí (pháp) kia gấp trăm ngàn lần. Phải kính vị Pháp sư này như kính Phật, tôn trọng bậc đại trí đồng phạm hạnh cũng như Phật. Vì sao?
Này Kiều Thi Ca! Phải biết rằng vì Bát nhã Ba la mật tức là chư Phật, phải biết chư Phật tức là Bát nhã Ba la mật. Phải biết Bát nhã Ba la mật chẳng khác chư Phật, phải biết chư Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì ba đời chư Phật đều nương vào Bát nhã Ba la mật, tinh chuyên tu học, mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hoặc những người tu phạm hạnh theo chủng tánh Thanh văn, Độc giác cũng nương vào Bát nhã Ba la mật, tinh chuyên tu học mà được quả Thanh văn, Độc giác Bồ đề. Chúng sanh có chủng tánh Bồ Tát cũng nương vào Bát nhã Ba la mật, tinh tấn siêng năng tu học, vượt các bậc Thanh văn và Độc giác, chứng vào chánh tánh ly sanh của Bồ Tát, lần lượt tu hành Bồ Tát hạnh, được trụ bậc Bồ Tát Bất thối chuyển.
Vì vậy, này Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nào muốn được hiện tiền cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn thì nên biên chép Kinh Bát Nhã thậm thâm như thế, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Này Kiều Thi Ca! Khi mới thành Phật, Ta quán nghĩa này, suy nghĩ: Ta nên nương trụ ai? Ai có thể nhận sự cúng dường cung kính của Ta? Khi nghĩ như vậy, Ta đều chẳng thấy có các thiên, ma, Phạm và nhơn phi nhơn nào của thế gian v.v… ngang hàng với Ta, huống nữa là hơn Ta. Ta lại suy nghĩ như vầy: Ta đã nương pháp đây mà chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, pháp đây thậm thâm mầu nhiệm vắng lặng, Ta phải nương lại pháp đây mà an trụ, cúng dường cung kính. Đó chính là Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Ta đã thành Phật, song vẫn phải nương vào Bát nhã Ba la mật, cúng dường cung kính, huống nữa là các thiện nam, thiện nữ muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lẽ nào chẳng nương Bát nhã Ba la mật thậm đây, tinh tấn siêng năng tu học, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây năng sanh ra Bồ Tát. Từ Bồ Tát đây lại sanh ra Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nương vào các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Độc giác mới được xuất sanh.
Do vậy, này Kiều Thi Ca! Hoặc Bồ Tát thừa, hoặc Độc giác thừa, hoặc Thanh văn thừa, hoặc các thiện nam, thiện nữ… đối với Bát nhã Ba la mật đây đều nên chuyên cần tu học, dùng vô lượng phẩm vật thượng diệu như tràng hoa cho đến các ngọc diệu tân kỳ quý lạ… mà cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Thích nghĩa:
(1). Trụ ba phen chỉ dẫn, vì các hữu tình tuyên nói Chánh pháp, tức là Khế Kinh cho đến Luận nghị. Nguyên văn bằng chữ Hán là “住 trụ 三 tam 示 thị 導 đạo . 為 vi 諸 chư 有 hữu 情 tình 宣 tuyên 說 thuyết 正 Chánh 法 Pháp . 所 sở 謂 vị 契 Khế 經 Kinh 乃 nãi 至 chí 論 luận 議 nghị”: Ý muốn nói đến “Ba sự thị hiện, thuyết mười hai bộ Kinh từ Tu Đa La đến Ưu Bà Đề Xá” hay còn gọi là “ba lần chuyển mười hai hành pháp luân”, thuyết ở phẩm “So Lường Công Đức”, quyển 127, tập 06, Hội thứ I, nguyên văn bằng chữ Hán cũng giống như trên: “若 nhược 三 tam 示 thị 導 đạo . 若 nhược 所 sở 宣 tuyên 說 thuyết 十 thập 二 nhị 分 phần/phân 教 giáo ”. Nghĩa là: Ba sự thị hiện là ba thứ biến hóa của chư Phật hay Bồ Tát dùng để cứu độ chúng sanh. Kinh Đại Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch, quyển thứ 469, phẩm “Nhiều Đức Tướng” có nêu ba thứ chỉ dẫn gọi là “tam chủng thị đạo”: 1- Thần biến thị đạo, 2- Ký thuyết thị đạo và 3- Giáo giới thị đạo. Tuyên nói Chánh pháp từ Khế Kinh cho đến Nghị luận tức thuyết về 12 bộ Kinh từ Khế Kinh, Trùng tụng, Cô khởi, Thọ ký, Tự thuyết, Nhân duyên, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Vị tằng hữu, Nghị luận.
Ý kinh muốn nói đến “ba lần chuyển mười hai hành pháp luân”.
Sơ giải:
Mở đầu phẩm thứ 37,“Xá Lợi” này Đại Trí Độ Luận, tập 3, quyển 59, nói rằng:
“Người xuất gia cầu trí huệ, để liễu triệt thật tướng pháp. Trong lúc đó, thì người tại gia phần nhiều cần trí thức, để phân biệt các pháp tướng, dẫn đến đắm chấp các pháp tướng.
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đã được nhiều phước báo. Ở trong hàng tại gia, ngài là bậc tối thắng, nên nay ngài cầu trí huệ.
Bởi vậy nên khi Phật hỏi: Trong 2 phần, ông nhận phần nào? Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn liền bạch Phật rằng: Trong 2 phần, con xin nhận lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật. Chẳng phải con chẳng cung kính xá lợi Phật. Mặc dù cúng dường xá lợi Phật được vô lượng công đức, nhưng vì xá lợi Phật xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật, nên con xin lãnh phần Bát Nhã Ba La Mật”.
Đoạn kinh này thuyết quá rõ rồi, mục đích so sánh công đức của người thọ trì Bát Nhã với người thờ cúng xá lợi Phật. Kiều Thi Ca khi được hỏi như vậy liền bạch Phật trong hai phần: Một là lấy Bát Nhã và hai là lấy xá lợi Phật để thờ cúng, trong hai phần Thiên Đế Thích lấy Bát Nhã với lý do: Vì nhờ Bát nhã Ba la mật mà xá lợi Phật mới được tôn trọng, thờ kính, cúng dường. Nên Phật bảo:
“Vì vậy, này Kiều Thi Ca! Nếu các thiện nam, thiện nữ nào muốn được hiện tiền cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn thì nên biên chép kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen.
Này Kiều Thi Ca! Khi mới thành Phật, Ta quán nghĩa này, suy nghĩ: Ta nên nương trụ ai? Ai có thể nhận sự cúng dường cung kính của Ta? Khi nghĩ như vậy, Ta đều chẳng thấy có các thiên, ma, Phạm và nhơn phi nhơn nào của thế gian v.v… ngang hàng với Ta, huống nữa là hơn Ta. Ta lại suy nghĩ như vầy: Ta đã nương pháp đây mà chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, pháp đây thậm thâm mầu nhiệm vắng lặng, Ta phải nương lại pháp đây mà an trụ, cúng dường cung kính. Đó chính là Bát nhã Ba la mật.
Này Kiều Thi Ca! Ta đã thành Phật, song vẫn phải nương vào Bát nhã Ba la mật, cúng dường cung kính, huống nữa là các thiện nam, thiện nữ muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lẽ nào chẳng nương Bát nhã Ba la mật thậm đây, tinh tấn siêng năng tu học, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm đây năng sanh ra Bồ Tát. Từ Bồ Tát đây lại sanh ra Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nương vào các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Thanh văn, Độc giác mới được xuất sanh”.
Đoạn sáu, phẩm “So Lường Công Đức”, phần sau quyển 127 đến phần đầu quyển 130, Hội thứ I, ĐBN đã thuyết giảng quá đầy đủ, nên ở đây không cần nói thêm nữa. Xin Quý vị quay lại tụng đọc nếu muốn.
Câu cần nhớ trong phẩm này là: “Phải biết Bát nhã Ba la mật tức là chư Phật, phải biết chư Phật tức là Bát nhã Ba la mật. Phải biết Bát nhã Ba la mật chẳng khác chư Phật, phải biết chư Phật chẳng khác Bát nhã Ba la mật”.
Chẳng có ai ngang bằng Phật, nhưng Phật tức là Bát nhã Ba la mật và Bát nhã Ba la mật tức chư Phật không khác. Nên nói Bát nhã Ba la mật là thượng tôn chẳng có gì quá đáng. Vì vậy, Phật bảo: “Kiều Thi Ca! Ta đã thành Phật, song vẫn phải nương vào Bát nhã Ba la mật, cúng dường cung kính, huống nữa là các thiện nam, thiện nữ muốn cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà lẽ nào chẳng nương Bát nhã Ba la mật thậm đây, tinh tấn siêng năng tu học, cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen”.
Bao nhiêu lời nói như vậy là quá đủ đối với những ai đọc tụng thọ trì cũng vì mọi người truyền tụng, công đức như vậy vô lượng, vô biên, vô đẳng đẳng. Vậy làm sao có thể lấy việc thờ phụng cúng dường xá lợi Phật so sánh với việc tụng đọc, thọ trì, xiển dương Bát nhã Ba la mật được?
---o0o---