- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
XXVII. PHẨM “KIÊN CỐ” (1)
(Phần cuối Q.553 đến phần đầu Q.554, Hội thứ IV, TBBN).
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
Lúc ấy, Ngài Xá lợi Tử hỏi Ngài Thiện Hiện:
- Khi các đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã sâu xa là hành pháp bền chắc (kiên cố) hay hành pháp chẳng bền chắc?
Thiện Hiện thưa:
- Khi các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa là hành pháp không bền chắc. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì Bát Nhã sâu xa và tất cả pháp hoàn toàn không có tánh bền chắc. Khi các đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã sâu xa thì ngay nơi Bát Nhã sâu xa và tất cả pháp còn chẳng thấy có pháp không bền chắc có thể đắc, huống là thấy có pháp bền chắc có thể đắc.
Bấy giờ có vô lượng Thiên tử cõi Dục, Thiên tử cõi Sắc đồng nghĩ: Nếu các thiện nam tử Bồ Tát thừa v.v… có thể phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì tuy thực hành nghĩa lý sâu xa của Bát nhã Ba la mật nhưng thường không chứng đắc Niết bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác. Do nhân duyên này nên loài hữu tình này rất là hiếm có, thường làm được những việc khó làm, phải nên kính lễ. Vì sao? Vì các thiện nam tử Bồ Tát thừa v.v… này tuy hành pháp tánh nhưng ngay nơi đó không chứng đắc.
Khi ấy, Thiện Hiện biết tâm niệm các Thiên tử nên bảo họ:
- Các thiện nam tử Bồ Tát thừa v.v… này không chứng Niết bàn, không rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác, cũng chưa phải là rất hiếm có. Nếu đại Bồ Tát nào biết tất cả pháp và các hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, mà vẫn phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc áo giáp tinh tấn, thề độ vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, giúp họ được vào cảnh giới Vô dư bát Niết bàn, thì các đại Bồ Tát này mới thật là hiếm có, thường làm được việc khó làm.
Thiên tử nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào tuy biết hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc mà vẫn phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc giáp tinh tấn vì muốn điều phục các loài hữu tình thì giống như có người muốn điều phục hư không. Vì sao? Này Thiên tử! Vì hư không ly, nên biết tất cả hữu tình cũng ly. Hư không Không, nên biết tất cả hữu tình cũng Không. Hư không không chắc thật, nên biết tất cả hữu tình cũng không chắc thật. Hư không không sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng không sở hữu. Do nhân duyên này, đại Bồ Tát đó mới thật là hiếm có, thường làm được những việc khó làm.
Thiên tử nên biết! Đại Bồ Tát này mặc giáp thệ nguyện vì muốn điều phục tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc, thì giống như có kẻ mặc giáp mũ chiến đấu cùng hư không.
Thiên tử nên biết! Đại Bồ Tát này mặc giáp bị thệ nguyện vì muốn lợi ích tất cả hữu tình, nhưng các hữu tình và giáp mũ đại thệ nguyện hoàn toàn chẳng có, hoàn toàn bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên giáp mũ đại nguyện này phải biết cũng ly. Vì hữu tình Không, nên giáp mũ đại nguyện này phải biết cũng Không. Hữu tình không bền chắc, nên giáp mũ đại nguyện này phải biết cũng không bền chắc. Hữu tình vô sở hữu, nên giáp mũ đại nguyện này phải biết cũng không sở hữu.
Thiên tử nên biết! Việc đại Bồ Tát này điều phục lợi ích hữu tình cũng bất khả đắc. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng ly.
Hữu tình Không, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng Không. Hữu tình không bền chắc, nên việc điều phục lợi ích này phải biết cũng không bền chắc. Hữu tình vô sở hữu, nên việc điều phục phúc lợi này phải biết cũng vô sở hữu.
Thiên tử nên biết! Các đại Bồ Tát cũng vô sở hữu. Vì sao? Này các Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên các đại Bồ Tát phải biết cũng ly. Hữu tình Không, nên các đại Bồ Tát phải biết cũng Không. Hữu tình không chắc thật, nên các đại Bồ Tát phải biết cũng không chắc thật. Hữu tình vô sở hữu, nên các đại Bồ Tát phải biết cũng vô sở hữu.
Thiên tử nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào nghe như vậy tâm không chìm đắm, cũng không lo buồn, hối hận, chẳng kinh, chẳng sợ, thì nên biết đại Bồ Tát này là người có thể thực hành Bát Nhã sâu xa.
Vì sao? Này Thiên tử! Vì hữu tình ly, nên phải biết sắc uẩn cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhãn xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết 12 xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết 18 giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết địa giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết nhân duyên cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết vô minh cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết Thánh đế khổ cho đến Thánh đế đạo cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết 4 niệm trụ cho đến 8 chi Thánh đạo cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết 4 tịnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết 5 loại mắt, 6 phép thần thông cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết 10 lực của Như Lai cho đến 18 pháp Phật bất cộng cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết Dự lưu quả cho đến Độc giác Bồ đề cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết tất cả Bồ Tát hạnh, quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết Nhất thiết trí trí cũng ly. Hữu tình ly, nên phải biết tất cả pháp cũng ly. (Q. 553, TBBN)
Thiên tử nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng khiếp, chẳng chìm, chẳng đắm… nên biết đại Bồ Tát đó là người có thể thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:
- Vì nhân duyên gì các đại Bồ Tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, thì tâm vị đó không kinh, không sợ, không khiếp, không chìm đắm?
Cụ thọ Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Do tất cả pháp đều xa lìa nên các đại Bồ Tát khi nghe thuyết tất cả pháp đều ly, tâm vị đó không kinh, không sợ, không khiếp, không chìm, không đắm. Vì sao? Vì các
đại Bồ Tát đối với tất cả pháp hoặc năng sợ, sở sợ, hoặc chốn sợ, thời sợ, kẻ sợ v.v... do đây mà sợ đều vô sở đắc, vì tất cả pháp bất khả đắc vậy.
Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào nghe thuyết việc như vậy, tâm không chìm đắm, cũng không kinh sợ, không lo buồn, không ăn năn, thì nên biết đại Bồ Tát này là người có thể thực hành Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này thấy tất cả pháp đều bất khả đắc, chẳng thể thi thiết: Đây là năng chìm, sở chìm, nơi chìm, thời chìm, kẻ đắm chìm v.v... do đây mà chìm v.v... Vì nhân duyên này các đại Bồ Tát nghe việc như thế tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng kinh sợ, chẳng lo chẳng hối.
Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát nào có thể thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy thì chư Thiên, Đế Thích, đại Phạm Thiên vương chủ thế giới v.v... cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi.
Phật bảo Thiện Hiện:
- Nếu đại Bồ Tát nào thường thực hành Bát Nhã sâu xa như vậy thì chẳng những thường được chư Thiên, Đế Thích, đại Phạm thiên vương chủ thế giới v.v... cùng nhau kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi, mà đại Bồ Tát này cũng được trời Cực quang tịnh, hoặc trời Biến tịnh, trời Quảng quả, trời Tịnh cư và trời, rồng, A tu la v.v... khác cũng đều kính lễ, cung kính, cúng dường, tôn trọng, khen ngợi. Đại Bồ Tát này thường thực hành Bát Nhã sâu xa như vậy, cũng được tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng đại Bồ Tát ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương thường hộ niệm.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này thường thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa như vậy tức là làm cho tất cả công đức căn lành mau được viên mãn.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào thường thực hành Bát Nhã sâu xa như thế, thì thường được chư Phật và chư Bồ Tát cùng các trời, rồng, A tu la v.v... nhớ nghĩ, bảo vệ. Nên biết đại Bồ Tát đó là người đi đúng chỗ chư Phật đã đi, cũng tu hành đúng hạnh Phật đã tu hành, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này đã được không thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tất cả quân ma và các ngoại đạo, bạn bè xấu ác v.v... chẳng thể làm chướng ngại được. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này tâm của họ vững chắc hơn Kim cang. Giả sử các loài hữu tình trong thế giới Tam thiên đại thiên đều biến thành ma, mỗi một ma này lại hóa ra chừng ấy ác ma. Các ác ma đó đều có vô lượng, vô số thần lực, các ác ma đó dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại được đại Bồ Tát này thực hành Bát Nhã sâu xa, hoặc thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, biết tất cả pháp bất khả đắc vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Để việc các loài hữu tình trong thế giới Tam thiên đại thiên đều biến thành ma qua một bên. Giả sử tất cả hữu tình ở thế giới chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương đều biến thành ma. Các chúng ma này lại hóa thành chừng ấy ác ma, các ác ma này đều có vô lượng, vô số thần lực. Các ác ma này dùng hết thần lực của mình cũng chẳng thể làm chướng ngại đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã sâu xa, hay làm thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề được. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đã đắc phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, biết tất cả pháp bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào thành tựu được hai pháp thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến cho không thể thực hành Bát Nhã sâu xa, hay thối lui quả vị Vô Thượng Bồ đề. Hai pháp đó là:
- Một là chẳng bỏ tất cả hữu tình, hai là quán sát các pháp đều Không.
Lại nữa Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào thành tựu hai điều kiện, thì tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại, khiến cho không thể thực hành Bát Nhã sâu xa, hay thối lui quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hai điều kiện đó là:
- Một là thực hiện đúng những gì đã nói, hai là thường được chư Phật hộ niệm.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào thực hành Bát Nhã sâu xa như vậy thì các thiên thần v.v... thường đến lễ kính, cúng dường, thưa hỏi khuyến khích. Tất cả đều thưa thế này: “Lành thay Đại sĩ! Ngài thường thực hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể làm nơi nương tựa cho tất cả hữu tình không có nơi nương tựa, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có chỗ quay về nương tựa, làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ, làm chỗ hướng đến cho kẻ không nơi hướng đến, làm nhà cửa cho kẻ không nhà cửa, làm hòn đảo cho kẻ không hòn đảo, làm ánh sáng cho kẻ mù tối, làm tai mắt cho kẻ mù điếc. Vì sao? Thiện nam tử! Vì nếu thường an trụ phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, thì sẽ mau chứng Vô Thượng Bồ đề, tất cả ác ma chẳng thể làm chướng ngại được. (Hết Q.553, TBBN)
Quyển thứ 554
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào có thể trụ Bát Nhã như vậy thì được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương cùng với các chúng Bí sô vây quanh trước sau đang tuyên thuyết Bát Nhã ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của đại Bồ Tát này. Đó là công đức chơn tịnh của sự an trụ Bát Nhã sâu xa.
Thiện Hiện nên biết! Như Ta ngày nay ngự giữa đại chúng tuyên thuyết Bát Nhã cho mọi người, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán các đại Bồ Tát, như đại Bồ Tát Bảo Tràng v.v... và các đại Bồ Tát với danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức đang trụ vào Bát Nhã sâu xa tịnh tu phạm hạnh, ở cõi Phật Bất Động (Phật A Súc cõi Tịnh độ phương Đông). Đó là công đức chơn tịnh của sự an trú Bát Nhã sâu xa.
Tất cả các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới hiện tại trong mười phương tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, ở đó cũng có các đại Bồ Tát tịnh tu phạm hạnh, không lìa Bát nhã Ba la mật. Các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác kia đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của đại Bồ Tát kia. Đó gọi là công đức chơn tịnh không lìa Bát Nhã sâu xa.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Khi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của tất cả chúng đại Bồ Tát phải không?
Phật dạy:
- Chẳng phải vậy, chẳng phải khi các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, đều ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của tất cả chúng đại Bồ Tát.
Thiện Hiện nên biết! Có đại Bồ Tát được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Bồ đề, thực hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã sâu xa, đại Bồ Tát này được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, ở giữa đại chúng tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị đó.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Có chúng đại Bồ Tát nào chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng mà tự nhiên ở giữa chúng hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức không?
Phật dạy:
- Cũng có. Nghĩa là có chúng đại Bồ Tát tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật thì đại Bồ Tát này cũng được đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Người được nói đến đó là đại Bồ Tát nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Có các chúng đại Bồ Tát khi theo Phật Bất Động làm Bồ Tát để học sở tu và trụ sở hành, tu hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát này tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng. Lại có chúng đại Bồ Tát theo đại Bồ Tát Bảo Tràng v.v... để học sở tu, trụ sở hành, tu hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật; các đại Bồ Tát này tuy chưa được Bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhưng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.
Lại nữa, Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật sâu xa, ngay nơi tánh vô sanh của tất cả pháp tuy rất tin hiểu nhưng chưa chứng đắc Vô sanh pháp nhẫn. Tuy rất tin hiểu tánh của tất cả pháp hoàn toàn vắng lặng nhưng chưa được nhập vào địa vị Bất thối chuyển. Nhưng đại Bồ Tát này đã trụ phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật nên cũng được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào được các đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác khi tuyên thuyết Bát Nhã sâu xa cho đại chúng, tự nhiên hoan hỷ khen ngợi, tán thán danh tự, dòng họ, sắc tướng, công đức của vị ấy giữa đại chúng, thì đại Bồ Tát này vượt qua địa vị của các Thanh văn, Độc giác, gần được thọ ký bất thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, chắc chắn sẽ an trụ địa vị Bất thối chuyển, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào nghe thuyết về nghĩa thú của Bát Nhã sâu xa, hết lòng tin hiểu, không nghi ngờ, không hoang mang, chỉ nghĩ: Nghĩa thú sâu xa của Bát nhã Ba la mật như Phật đã dạy, tất nhiên quyết định không điên đảo. Đại Bồ Tát này nên nghĩ: Ta đối với nghĩa thú sâu xa của Bát Nhã hết lòng tin hiểu chắc chắn rồi, ngay nơi đây hoặc ở chỗ Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác Bất Động và chỗ các đại Bồ Tát nghe tất cả Bát nhã Ba la mật, đối với nghĩa thú sâu xa hết lòng tin hiểu. Tin hiểu rồi siêng năng tu phạm hạnh, sẽ được địa vị Bất thối chuyển. Trụ địa vị này rồi mau chứng quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện nên biết! Nếu đại Bồ Tát nào chỉ nghe Bát Nhã sâu xa như vậy còn được vô biên công đức lợi ích thù thắng, huống là hết lòng tin hiểu và tu hành đúng như lời dạy, buộc niệm tư duy về nghĩa thú sâu xa thì đại Bồ Tát này an trụ chơn như, gần Nhất thiết trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, sẽ tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình.
Bấy giờ Thiện Hiện bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Pháp nào lìa chơn như thì không thể đắc, vậy nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai năng gần Nhất thiết trí mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Ai vì ai thuyết pháp yếu nào?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Ngươi hỏi: Pháp nào lìa chơn như thì không thể đắc, vậy nói pháp nào an trụ chơn như? Lại nói ai năng gần Nhất thiết trí mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Ai vì ai thuyết pháp yếu nào?
Đúng như vậy! Đúng như lời người nói! Pháp lìa chơn như hoàn toàn không thể đắc, như thế thì làm sao có thể nói có pháp trụ chơn như. Thiện Hiện! Chơn như còn không thể đắc, huống là có pháp trụ chơn như và làm sao lại có người có thể gần Nhất thiết trí mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Và làm sao lại có người có thể vì người khác thuyết pháp.
Thiện Hiện phải biết: Chơn như chẳng thể tự trụ chơn như, vì trong ấy trọn không năng sở trụ vậy. Chơn như chẳng thể gần Nhất thiết trí, vì trong ấy trọn không năng gần sở gần vậy. Chơn như chẳng thể chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì trong ấy trọn không tánh năng đắc sở đắc sai khác vậy. Chơn như chẳng năng vì người thuyết pháp, vì trong ấy trọn không năng thuyết sở thuyết vậy. Tùy thuận thế tục nên nói có Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật sâu thẳm, an trụ chơn như, gần Nhất thiết trí, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình tuyên nói pháp yếu.
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Nghĩa thú Bát nhã Ba la mật sâu xa, rất khó tin hiểu như vậy. Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật tuy biết các pháp đều bất khả đắc nhưng vẫn cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, muốn tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình là việc làm rất khó. Vì sao? Vì nhất định không có pháp có thể trụ chơn như, cũng không có pháp có thể gần Nhất thiết trí mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không có người có thể tuyên thuyết pháp yếu. Nhưng các Bồ Tát nghe việc như vậy mà tâm không chìm đắm, không nghi, không ngờ, không kinh, không sợ, cũng không hoang mang… thì những việc như vậy thật là hiếm có.
Khi ấy, Thiện Hiện bảo trời Đế Thích:
- Này Kiều thi ca! Như lời ông nói, các chúng Bồ Tát nghe pháp sâu xa, tâm không chìm đắm, không nghi ngờ, không kinh, không sợ, cũng không hoang mang cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, muốn tuyên thuyết pháp yếu cho các hữu tình là việc làm rất khó, thật hiếm vậy.
Kiều thi ca! Các đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã sâu xa, quán các pháp đều Không, hoàn toàn vô sở hữu, thì ai chìm, ai đắm, ai nghi, ai ngờ, ai kinh, ai sợ, ai hoang mang? Thế nên việc này chưa phải là hiếm có, nhưng vì hữu tình ngu si điên đảo, chẳng thể thông đạt được các pháp đều Không, nên cầu Bồ đề, muốn tuyên thuyết phương tiện thiện xảo thì chẳng phải quá khó.
Trời Đế Thích thưa:
- Tôn giả Thiện Hiện! Những điều tôn giả nói ra đều y vào Không, thế nên những lời nói ra thường không ngăn ngại. Như có người lấy mũi tên, ngửa mặt bắn lên hư không, hoặc xa hoặc gần đều không ngăn ngại. Những lời tôn giả nói ra cũng như vậy, hoặc sâu hoặc cạn, tất cả nương Không, trong ấy ai là người có thể gây trở ngại?
Khi ấy, trời Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Những gì con cùng tôn giả Thiện Hiện đã luận bàn là thuận thật ngữ, pháp ngữ Như Lai. Đối với pháp tùy pháp mà thuyết là chân chính thuyết phải không?
Thế Tôn bảo trời Đế Thích:
- Những sự luận bàn của ông và Thiện Hiện đều thuận với thật ngữ, pháp ngữ của Như Lai. Đối với pháp tùy pháp mà nói là không điên đảo. Vì sao? Kiều thi ca! Vì cụ thọ Thiện Hiện có biện tài nương Không mà thi thiết. Vì sao? Vì cụ thọ Thiện Hiện quán sát thấy tất cả pháp hoàn toàn Không: Bát Nhã sâu xa còn chẳng đắc, huống là có người thực hành Bát Nhã sâu xa. Quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật. Nhất thiết trí còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc Nhất thiết trí. Chơn như còn chẳng đắc, huống là có người đắc chơn như, thành Như Lai. Tánh vô sanh còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc tánh vô sanh. Bồ đề còn chẳng đắc, huống là có người chứng đắc Bồ đề của Phật. Mười lực còn chẳng đắc, huống là có người thành tựu mười lực. Bốn điều không sợ còn chẳng đắc, huống là có người thành tựu bốn điều không sợ. Các pháp còn chẳng đắc, huống là có người thuyết pháp.
Vì sao? Này Kiều thi ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối tất cả pháp trụ trụ xa lìa, đối tất cả pháp trụ trụ vô sở đắc. Vì quán tất cả pháp rốt ráo đều không, năng hành sở hành thảy bất khả đắc vậy. (Q.554, TBBN)
Kiều thi ca! Cụ thọ Thiện Hiện đối với tất cả pháp trụ trụ xa lìa, trụ vô sở đắc, so với hành trụ vi diệu của các chúng đại Bồ Tát đã trụ Bát nhã Ba la mật thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, trăm ngàn phần không bằng một, cho đến vô số cực phần cũng không bằng một.
Vì sao? Này Kiều thi ca! Vì sự an trú vào hạnh vi diệu Bát Nhã của các chúng đại Bồ Tát này đã trụ, trừ sự an trụ của Như Lai; đối với các trụ của các Bồ Tát, Độc giác và Thanh Văn khác là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì vậy nên, Kiều thi ca! Những đại Bồ Tát nào muốn đối với tất cả hữu tình là tối, là thắng, là tôn, là cao, là diệu, là vi diệu, là thượng, là vô thượng trong chúng thì phải trụ hạnh trụ vi diệu của Bát nhã Ba la mật, không được tạm rời bỏ.
Thích nghĩa:
(1). Kiên cố: (C: jiāngù; J: kengo) Có vững chắc, kiên định.
Kinh Đại Bát Nhã do HT. Thích Trí Nghiêm dịch từ Hán sang Việt có hai bản, một bản đăng ở thuvienhoasen.org dịch nguyên văn câu chữ Hán “堅 kiên 等 đẳng 讚 tán 品 phẩm” là phẩm “Khen tánh chắc thật”; bản khác đăng ở tuvienquangduc.com lại dịch là “Khen bền chắc thảy”; trong khi Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa do Ngài Thích Trí Tịnh dịch từ Hán sang Việt lại dịch “Pháp chơn thật”. Và câu mở đầu nguyên văn bản chữ Hán là: “菩 Bồ 薩 Tát 摩 Ma 訶 Ha 薩 Tát . 行 hành 深 thâm 般 Bát 若 Nhã 波 Ba 羅 La 蜜 Mật 多 Đa 時 thời . 為 vi 行 hành 堅 kiên 實 thật 法 pháp . 為 vi 行 hành 無 vô 堅 kiên 實 thật 法 pháp 耶 da” . Cụm từ “hành kiên thật pháp” có thể tạm dịch là “hành pháp chắc thật”, vì từ “kiên” có nghĩa là chắc chắn, bền chắc hay kiên cố. Hội thứ II, có phẩm tựa “Kiên Cố, Chẳng Kiên Cố”, website thưvienhoasen. org lại dùng từ “kiên cố” giống như Hội thứ IV này. Từ chắc thật, bền chắc, kiên cố, kiên định dịch từ chữ Hán “堅固”.
Lược giải:
1. Tánh chắc hay không chắc thật?
Khi Bồ Tát hành Bát Nhã, đối với Bát Nhã còn chẳng thấy “tánh kiên cố” có thể nắm bắt được huống là thấy “tánh chẳng kiến cố”; đối với thiền định, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố
thí còn chẳng thấy tánh kiên cố có thể nắm bắt được, huống là thấy có tánh không kiên cố có thể nắm bắt được.
Nếu chúng ta tin tưởng một pháp dù pháp đó là Nhất thiết trí trí và cố nắm lấy tướng, nhiếp thọ để trở thành Vô Thượng Bồ đề thì Nhất thiết trí trí không còn là Nhất thiết trí trí nữa nói chi đó là pháp kiên cố hay không kiên cố, chắc thật hay không chắc thật. Kinh nói: “Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải lấy tướng tu đắc. Các kẻ lấy tướng đều là phiền não. Vì sao? Vì Nhất thiết trí trí này chẳng phải thủ tướng mà tu đắc. Người thủ tướng đều là phiền não”.
Tất cả phiền não đều do phân biệt. Phân biệt những gì? Phân biệt tướng. Do phân biệt nên có chấp. Rồi từ chấp mới đưa đến quyết định nắm bắt, giữ bỏ... Kết quả là được mất, có không. Đó chính là phiền não của con người trần tục. Thật ra, không phải pháp kiên cố hay không kiên cố, chắc hay không chắc v.v... Chính do phân biệt chấp trước đưa đến thủ đắc tướng mà sanh bệnh. Phạm Chí thắng quân chỉ sanh tín giải sâu sắc mà thâm nhập được Nhất thiết trí trí. Chỉ cần dùng bổn nguyện tu hành tất cả pháp Phật, nhưng không nắm bắt bất cứ pháp nào dù là Nhất thiết trí trí, thì vẫn có thể thành tựu quả Phật!
Phẩm “Vô Trụ”, phần cuối quyển 36 cho đến hết quyển 37, Hội thứ I, ĐBN. Nói:
“Phạm chí Thắng Quân này chẳng ở trong sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng ở ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng ở trong ngoài sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức quán Nhất thiết trí trí, cho đến chẳng phải ở trong tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng phải ở ngoài tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Chẳng phải ở trong ngoài tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng phải lìa tất cả Đà la ni môn, Tam ma địa môn mà quán Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc trong ngoài, hoặc lìa trong ngoài, tất cả đều không, bất khả đắc. Phạm chí Thắng Quân này do lìa các tướng môn như vậy, nên đối với Nhất thiết trí trí phát sanh lòng tin hiểu sâu sắc. Do tin hiểu như vậy nên đối với tất cả pháp đều không chấp trước. Vì thật tướng các pháp bất khả đắc. Như vậy, Phạm chí nhờ môn lìa tướng, đối với Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối với tất cả pháp đều không chấp tướng, cũng không tư duy các pháp vô tướng, vì pháp tướng, vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy, Phạm chí do lực thắng giải đối với tất cả pháp không lấy, không bỏ, vì trong pháp thật tướng không có lấy bỏ. Bấy giờ, Phạm chí đó với sự tự tin hiểu của mình cho đến Niết bàn cũng không chấp trước. Vì sao? Vì bản tánh tất cả pháp đều không, không thể nắm giữ”.
Vậy, tướng cũng bỏ mà vô tướng cũng bỏ, lìa tất cả tướng thì mới thấy Như Lai.
2. Tất cả pháp đều rỗng không.
Đại Bồ Tát ấy, tuy biết hữu tình hoàn toàn vô sở hữu, nhưng phát tâm cầu quả vị Giác ngộ, mang đội giáp bị đại công đức muốn điều phục các loài hữu tình, nhưng sự điều phục ấy như điều phục hư không. Vì sao? Vì hư không xa lìa, nên biết tất cả hữu tình cũng xa lìa; vì hư không rỗng không, nên biết tất cả hữu tình cũng rỗng không; vì hư không không chắc thật, nên biết tất cả hữu tình cũng không chắc thật; vì hư không vô sở hữu, nên biết tất cả hữu tình cũng vô sở hữu. Vì vậy, đại Bồ Tát ấy rất hiếm có, có khả năng làm việc khó làm.
Nên biết, việc điều phục phúc lạc cho các hữu tình của các đại Bồ Tát cũng chẳng thể nắm bắt được. Vì sao? Vì hữu tình là xa lìa, nên biết sự điều phục cũng xa lìa; vì hữu tình là không, là rỗng không, nên biết sự điều phục cũng rỗng không; vì hữu tình chẳng chắc thật, nên biết
sự điều phục cũng không chắc thật; vì hữu tình vô sở hữu, nên biết sự điều phục phúc lạc này cũng vô sở hữu.
Đối với Bát Nhã tất cả đều rỗng không: Các pháp kể cả hữu tình, Bồ Tát đều rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc, thì có gì có thể nói là chắc hay không chắc thật? Học Bát Nhã, hành Bát Nhã như hành hư không. Nếu đại Bồ Tát nghe như vậy mà tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng lo buồn, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ Tát ấy có thể tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật.
“Nếu đại Bồ Tát nghe nói các pháp xa lìa(viễn ly)mà tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng sầu lo, hối tiếc, thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã từng tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì tất cả pháp đều chẳng phải có, nên các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm đắm. Vì tất cả pháp đều viễn ly. Vì tất cả pháp đều vắng lặng, vì tất cả pháp đều vô sở hữu, vì tất cả pháp đều không sanh diệt, nên các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm đắm. Do những nhân duyên như thế, nên các đại Bồ Tát đối với Bát Nhã, tâm chẳng chìm đắm. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát đối với tất cả pháp hoặc năng chìm đắm, hoặc sở chìm đắm, hoặc thời chìm đắm, hoặc xứ chìm đắm, hoặc sự chìm đắm, do đó mà chìm đắm, đều chẳng thể nắm bắt được, vì tất cả pháp đều bất khả đắc. Nếu các đại Bồ Tát nghe nói như vậy, tâm chẳng chìm đắm, chẳng kinh, chẳng sợ v.v… thì nên biết đại Bồ Tát ấy đã từng tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật” (Q. 346, ĐBN)
Đối với Bát Nhã tất cả pháp đều chẳng phải có, tất cả pháp đều viễn ly, đều vắng lặng, không sanh diệt, vô sở hữu, bất khả đắc, không có tự tánh nên nói là không, là rỗng không. Vậy, trong cái rỗng không làm sao thấy biết là chắc thật hay chẳng chắc thật, kiên cố hay kiên cố?
Sở dĩ, chư Phật nói như vậy cũng vì muốn tháo đinh gỡ chốt cho tất cả hữu tình, không muốn hữu tình vì sắc trần nhiễm tịnh, có không mà bị trói, chỗ không được giải thoát. Nếu bỏ được cái lộn lạo không chân thường gọi là thường, không kiên cố bảo là kiên cố, không chắc thật bảo là chắc thật... thì pháp nào pháp nào, cũng đều thanh tịnh như nhau. Chính đó gọi là Niết bàn! Chính vì vậy chư Phật bảo: “Phải quán tất cả pháp đều không”, thì mới có thể tháo gỡ tất phiền não chướng cũng như sở tri chướng!”
Nói như thế để chúng sanh không bám trụ vào bất cứ thứ gì dù là Niết bàn. Đừng bám trụ vào bất cứ thứ gì dù là pháp mang lại nhiều thắng lợi hay nhiều công đức nhất!
Xin xem lại chiết giải phẩm “Khen Pháp Chẳng Chắc Thật”, phần sau Q.342 đến đầu Q.346, Hội thứ I, ĐBN./.
---o0o---