Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

58. Phẩm “Tập Cận”

03/09/202008:17(Xem: 7830)
58. Phẩm “Tập Cận”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-447

PHẨM “TẬP CẬN”(1)


Phần đầu quyển 452, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Khéo Học”, phần sau quyển 331 cho đến

phần đầu quyển 332, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Gợi ý:

Phẩm “Tập Cận” này nêu vấn đề căn bản trong việc tu trì: Nói về học và quán nhưng không tác chứng. Bồ Tát phải nhiếp tâm vào định, chứ không buộc tâm vào cảnh, Bồ Tát khi quán các pháp đều không, chẳng nên cầu chứng đắc. Vì học mà quán, không phải vì chứng mà quán. Đây là thời học, chẳng phải thời chứng, nên gọi là “học không bất chứng”.

 

Tóm lược:

 

(Quán không, chẳng chứng)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Tu hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, các Bồ Tát làm sao tập để gần không, làm sao nhập vào Không Tam ma địa? Làm sao tập để gần Vô tướng, làm sao nhập vào Vô tướng Tam ma địa? Làm sao tập để đến gần Vô nguyện, làm sao nhập vào Vô nguyện Tam ma địa? Làm sao tập để đến gần bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo? Làm sao tập để gần Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, làm sao tu Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Tu hành Bát nhã  Ba la mậ thẳm sâu như thế, các Bồ Tát nên quán sắc không, nên quán thọ tưởng hành thức không. Nên quán mười hai xứ cho đến mười tám giới không. Nên quán nhãn xúc cho đến ý xúc không. Nên quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không. Nên quán địa giới cho đến thức giới không. Nên quán vô minh cho đến lão tử không. Nên quán bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật không. Nên quán nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Nên quán chơn như cho đến bất tư nghì giới không. Nói rộng ra, nên quán tất cả pháp Phật không. Nên quán pháp hữu lậu, vô lậu không. Nên quán pháp thế gian, xuất thế gian không. Nên quán pháp hữu vi, vô vi không. Nên quán quá khứ, vị lai, hiện tại không. Nên quán pháp thiện, bất thiện, vô ký không. Nên quán cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc không.

Thiện Hiện! Bồ Tát này khi khởi quán đây chẳng để tâm loạn. Nếu tâm chẳng loạn thời chẳng thấy pháp. Nếu chẳng thấy pháp thời chẳng tác chứng(2). Vì sao? Vì Bồ Tát này khéo học các pháp tự tướng đều không. Không có pháp khá tăng, không có pháp khá giảm, nên đối các pháp chẳng thấy chẳng chứng. Vì sao? Thiện Hiện! Ở trong thắng nghĩa đế, tất cả pháp năng chứng, sở chứng, thời chứng và do đây chứng, hoặc hợp hoặc tan đều bất khả đắc, bất khả kiến vậy.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã nói, các Bồ Tát nên quán các pháp là không mà không chứng đắc. Vì sao các Bồ Tát nên quán các pháp là không mà không chứng đắc?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi quán các pháp đều không, chẳng nên cầu chứng đắc. Vì học mà quán, không phải vì chứng mà quán. Đây là thời học, chẳng phải thời chứng.

Này Thiện Hiện! Bồ Tát này chưa vào định nên phải buộc tâm vào đối tượng, lúc đã vào định thì họ không buộc tâm vào cảnh nữa.

Thiện Hiện! Bồ Tát này mặc dù quán như vậy, nhưng chẳng lui bố thí Ba la mật chẳng chứng lậu tận, cho đến chẳng lui Bát nhã Ba la mật chẳng chứng lậu tận, chẳng lui nội không chẳng chứng lậu tận, cho đến chẳng lui vô tánh tự tánh không chẳng chứng lậu tận. Chẳng lui chơn như cho đến chẳng lui bất tư nghì giới chẳng chứng lậu tận. Chẳng lui bốn tĩnh lự; chẳng lui bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng chứng lậu tận. Chẳng lui tám giải thoát; chẳng lui tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ chẳng chứng lậu tận. Chẳng lui 37 pháp trợ đạo, chẳng lui tam giải thoát môn, chẳng lui Đà la ni, Tam ma địa môn chẳng chứng lậu tận. Chẳng lui năm nhãn, sáu thần thông, chẳng lui Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng chứng lậu tận. Chẳng lui pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả chẳng chứng lậu tận. Chẳng lui Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, chẳng lui Bồ Tát hạnh chẳng chứng lậu tận. Chẳng lui Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng chứng lậu tận. Vì sao?

Thiện Hiện! Bồ Tát này trọn nên vi diệu đại trí như thế, khéo trụ pháp không và tất cả Bồ đề phần pháp(3), thường khởi nghĩ: Nay là thời học chẳng phải thời chứng.

Thiện Hiện! Bồ Tát này hành Bát Nhã thẳm sâu, hằng khởi nghĩ này: Ta đối bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nay thời học chẳng phải thời chứng. Ta đối nội không cho đến vô tánh tự tánh không, nay thời học chẳng phải thời chứng. Ta đối chơn như cho đến bất tư nghì giới, nay thời học chẳng phải thời chứng. Nói rộng ra, Ta đối với tất cả pháp Phật, nay thời học, chẳng phải thời chứng.

Thiện Hiện! Bồ Tát này hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu nên tập gần Không, nên an trụ Không, nên hành Không Tam ma địa, mà đối thật tế chẳng nên tác chứng. Nên tập để gần Vô tướng, nên an trụ Vô tướng, nên hành Vô tướng Tam ma địa mà đối thật tế chẳng nên tác chứng. Nên tập để gần Vô nguyện, nên an trụ Vô nguyện, nên hành Vô nguyện Tam ma địa mà đối thật tế chẳng nên tác chứng. Như vậy, cho đến nên tập để gần tất cả các pháp Phật, mà đối thật tế chẳng nên tác chứng.

Thiện Hiện! Bồ Tát này dù tập gần Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng an trụ Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng tu hành Không, Vô tướng, Vô nguyện Tam ma địa, mà chẳng chứng quả Dự lưu cho đến chẳng chứng quả Độc giác Bồ đề. Dù tập gần tất cả pháp Phật, cũng an trụ tất cả pháp Phật, cũng tu hành tất cả pháp Phật mà chẳng chứng quả Dự lưu cho đến chẳng chứng quả Độc giác Bồ đề. Do nhân duyên đây chẳng đọa vào bậc Thanh Văn và Độc giác, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Như có tráng sĩ hình mạo trang nghiêm oai dũng hơn người, giỏi binh pháp, thông thạo vũ khí, tất cả kỹ thuật thao tác không môn nào chẳng thông thạo, chẳng giỏi. Ai trông thấy thảy đều kính phục. Vì giỏi sự nghiệp nên phí công ít mà được lợi nhiều. Do đấy được mọi người tán thưởng ngợi khen không ít. Vì có nhân duyên nên phải đem cha mẹ, vợ con quyến thuộc đi tới phương khác lập nghiệp, giữa đường trải qua đồng nội hiểm ác. Trong lúc ấy có nhiều ác thú, giặc cướp, oan gia tiềm phục, quyến thuộc lớn nhỏ không ai mà không khiếp sợ, kinh hoàng. Người ấy ỷ có kỹ thuật, oai mãnh, thần sắc ung dung, an ủi cha mẹ và các quyến thuộc rằng chớ quá lo sợ. Người ấy dùng tuyệt kỹ, đem các quyến thuộc đến nơi yên ổn, mừng vui hưởng lạc. Nhưng tráng sĩ kia đối ác thú oán tặc giữa đồng nội không có ý gia hại. Vì sao? Vì tự cậy oai lực dũng mãnh, đủ các kỹ thuật nên không lo sợ gì cả.

Này Thiện Hiện! Ông phải biết các Bồ Tát cũng như vậy. Vì thương xót các hữu tình phải chịu nỗi khổ sanh tử, nên Bồ Tát phát nguyện hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, kết duyên với tất cả hữu tình, phát tâm cùng họ thực hành bốn vô lượng, trụ vào bốn vô lượng, mạnh mẽ tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật cho mau được viên mãn. Ở vị trí chưa viên mãn đối với sáu pháp Ba la mật này, vì muốn tu học Nhất thiết trí trí, Bồ Tát đó không chứng lậu tận. Tuy trụ pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện nhưng chẳng theo thế lục kia mà chuyển, cũng chẳng bị thế lực kia làm chướng ngại cướp dẫn. Đối giải thoát môn cũng chẳng tác chứng, bởi chẳng tác chứng nên chẳng đọa Thanh Văn và bậc Độc giác, tất thẳng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện! Như chim xí (đại bàng) bay lượn tự tại rất lâu trên hư không, mà chẳng rơi xuống. Tuy nương hư không bay mà chẳng trụ hư không, cũng chẳng bị hư không làm câu ngại.

Thiện Hiện! Phải biết các Bồ Tát cũng lại như vậy. Tuy đối Không, Vô tướng, Vô nguyện giải thoát môn hằng thường tập cận an trụ tu hành mà chẳng tác chứng. Do chẳng tác chứng nên chẳng đọa bậc Thanh Văn và Độc giác. Tu Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; Đà la ni, Tam ma địa môn; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô lượng vô biên Phật pháp khác. Nếu chưa viên mãn, trọn chẳng nương Không, Vô tướng, Vô nguyện tam muội mà chứng lậu tận.

Thiện Hiện! Như có tráng sĩ giỏi thạo nghề bắn cung, muốn trổ tài mình ngửa mặt lên trời bắn lên hư không. Muốn tên trong hư không chẳng rơi xuống đất, lại đem tên sau bắn đuôi tên trước. Cứ như vậy, tên nọ tiếp nối tên kia qua nhiều thời gian, tên tên nối nhau chẳng cho rơi xuống đất. Nếu muốn cho chuỗi tên rơi xuống thì ngừng bắn, bấy giờ các tên mới rơi.

Thiện Hiện! Phải biết các Bồ Tát cũng lại như vậy, hành Bát Nhã thẳm sâu phương tiện khéo léo nhiếp thọ lâu dài cho đến chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nếu thiện căn chưa được thành thục, quyết giữa đường chẳng chứng thật tế. Khi tất cả thiện căn thành thục, bấy giờ Bồ Tát mới chứng thật tế thì được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì thế, này Thiện Hiện! Khi thực hành Bát Nhã thẳm sâu các Bồ Tát nên quan sát kỹ thật tướng các pháp như trước đã nói.

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát rất là hiếm có, thường làm việc khó làm. Tuy học các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế; tuy học các pháp rốt ráo đều không cho đến tự tướng cũng không; tuy học khổ tập diệt đạo Thánh đế; tuy học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tuy học Không, Vô tướng, Vô nguyện giải thoát môn mà giữa đường chẳng rơi vào bậc Thanh Văn và Độc giác, lui mất Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các Bồ Tát đối các hữu tình thề chẳng lìa bỏ nên đã khởi nguyện: Nếu các hữu tình chưa được giải thoát, ta trọn chẳng bỏ gia hạnh(4).

Thiện Hiện! Các Bồ Tát nguyện lực thù thắng thường khởi nghĩ: Tất cả hữu tình nếu chưa giải thoát ta trọn chẳng bỏ. Do khởi tâm rộng lớn như thế, nên ở giữa đường tất chẳng thối thất lui bỏ.

Thiện Hiện! Các Bồ Tát hằng khởi nghĩ: Ta chẳng bỏ tất cả hữu tình muốn họ được giải thoát. Nhưng các hữu tình hành pháp bất chính, vì cứu độ nên thường dẫn phát Không, Vô tướng, Vô nguyện giải thoát môn. Tuy thường dẫn phát mà chẳng chứng lấy.

Thiện Hiện! Bồ Tát này trọn nên sức phương tiện khéo léo, nên dù hằng hiện khởi ba môn giải thoát mà ở khoảng giữa chẳng chứng thật tế nếu chưa chứng Nhất thiết trí trí. Cần đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mới chứng lấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các Bồ Tát đối với chỗ thẳm sâu thường vui thích muốn quán sát: Quán nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, bổn tánh không, tự cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không. Cũng muốn quán sát bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo và Không, Vô tướng, Vô nguyện giải thoát môn, tất cả đều không tự tướng.

Thiện Hiện! Bồ Tát này khởi quán đây rồi khởi nghĩ như vầy: Các loại hữu tình do bạn ác lôi cuốn, từ xưa khởi tưởng chấp ngã, khởi tưởng chấp hữu tình, cho đến chấp tri giả, kiến giả. Bởi tưởng chấp đây hành hữu sở đắc, trôi lăn sanh tử chịu nhiều thứ khổ. Bồ Tát vì dứt tưởng chấp, nên hướng tới Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình thuyết thậm thâm diệu pháp khiến dứt tưởng chấp, lìa khổ sanh tử.

Thiện Hiện! Bồ Tát này bấy giờ tuy học Không giải thoát môn mà chẳng nương đây chứng thật tế. Tuy học Vô tướng, Vô nguyện giải thoát môn mà chẳng nương đây chứng thật tế. Vì đối thật tế chẳng lấy chứng nên chẳng rơi vào quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán, cũng lại chẳng rơi vào Độc giác Bồ đề.

Thiện Hiện! Bồ Tát này nhờ hành Bát nhã Ba la mật thẳm sâu như thế, trọn nên căn lành chẳng chứng thật tế. Tuy đối thật tế chẳng tác chứng nên chẳng lui mất bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng chẳng lui mất ba mươi bảy pháp trợ đạo. Cũng chẳng lui mất tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Cũng chẳng lui mất nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng chẳng lui mất chơn như cho đến bất tư nghì giới. Cũng chẳng lui mất bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng ra, cũng chẳng lui mất tất cả pháp mầu Phật đạo.

Thiện Hiện! Bồ Tát này bấy giờ trọn nên tất cả Bồ đề phần pháp, cho đến chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đối với các công đức trọn chẳng suy giảm.

Thiện Hiện! Bồ Tát này hành Bát Nhã thẳm sâu được phương tiện khéo léo nhiếp thọ, nên pháp lành tăng trưởng trong từng sát na, các căn bén nhạy, vượt khỏi tất cả Thanh Văn, Độc giác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát thường khởi nghĩ: Từ xưa bị bạn ác nhiếp thọ, các loài hữu tình thường làm theo ba cách(5) với bốn loại điên đảo(6), đó là: Tâm điên đảo, thấy điên đảo, tưởng điên đảo về thường; hoặc là tâm điên đảo, thấy điên đảo, tưởng điên đảo về lạc; hoặc là tâm điên đảo, thấy điên đảo, tưởng điên đảo về ngã; hoặc là tâm điên đảo, thấy điên đảo, tưởng điên đảo về tịnh. Vì các hữu tình này ta nên hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu Bồ Tát hạnh. Khi đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề ta sẽ thuyết pháp không điên đảo cho các hữu tình nghe, như thuyết về sanh tử, vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh; chỉ có Niết bàn vi diệu, vắng lặng là đầy đủ các công đức chơn thật của thường, lạc, ngã, tịnh.

Thiện Hiện! Bồ Tát này trọn nên nghĩ đây, hành Bát Nhã thẳm sâu được phương tiện khéo léo nhiếp thọ, nên đối Phật mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng và vô lượng vô biên Phật pháp khác, nếu chưa viên mãn quyết chẳng chứng vào thắng định Như Lai.

Thiện Hiện! Lúc ấy tuy học và tự tại ra vào pháp môn giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện nhưng Bồ Tát đó chưa chứng đắc ngay thật tế. Bởi vì thực hành công đức ấy chưa viên mãn nên vị ấy không chứng thật tế và các công đức khác. Đến khi đắc được Vô thượng Chánh Đẳng Giác thì vị ấy mới chứng đắc thật tế này.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này bấy giờ tuy đối các công đức khác tu chưa viên mãn, mà chỉ đối Tam ma địa môn tu đã viên mãn.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đã khéo tu học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Đã khéo an trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Đã khéo an trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới. Đã khéo an trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế. Đã khéo tu học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Đã khéo tu học không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Đã khéo tu học bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đã khéo tu học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Đã khéo tu học Bồ Tát thập địa. Đã khéo tu học Đà la ni, Tam ma địa môn. Đã khéo tu học năm nhãn, sáu thần thông. Đã khéo tu học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Đã khéo tu học pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Đã khéo tu học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đã khéo tu học Bồ Tát hạnh. Đã khéo tu học chư Phật Vô Thượng Bồ đề.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này trọn nên công đức trí tuệ như thế. Nếu đối sanh tử phát khởi tưởng vui, hoặc nói có vui, hoặc đối ba cõi an trụ chấp đắm, chắc không có lẽ ấy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nào đã khéo tu hành Bồ đề phần pháp, tất cả các pháp của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và của các đại Bồ Tát thì nên hỏi thử vị ấy? Nếu muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì đại Bồ Tát phải làm sao để tu học Bồ đề phần pháp mà chẳng chứng thật tế của không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô tánh. Bởi chẳng chứng nên chẳng được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A La Hán, Độc giác Bồ đề mà siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu thường không sở chấp?

Thiện Hiện! Bồ Tát này khi được hỏi đây, nếu đáp lại rằng: Các đại Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chỉ cần tư duy về thật tế của không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô tánh và không cần phải tu học tất cả Bồ đề phần pháp khác.

Thiện Hiện! Phải biết đại Bồ Tát này chưa được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trao ký Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này chưa được khai thị ký biệt rõ ràng pháp tướng tu học của đại Bồ Tát trụ bậc Bất thối chuyển.

Thiện Hiện! Bồ Tát này khi được hỏi đây, nếu đáp lời này: Các đại Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đại Bồ Tát phải tư duy chân chánh về thật tế của không, vô tướng, vô nguyện, vô sanh vô diệt, vô tác vô vi, vô tánh và tất cả Bồ đề phần pháp khác; và cũng nên phương tiện khéo léo tu học mà chẳng tác chứng như trên đã nói. Thiện Hiện! Phải biết đại Bồ Tát này đã được Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trao ký Bất thối chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Thiện Hiện! Đại Bồ này đã được khai thị ký biệt rõ ràng pháp tướng tu học của đại Bồ Tát trụ bậc Bất thối chuyển.

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát chưa được khai thị ký biệt rõ ràng pháp tướng tu học của đại Bồ Tát trụ bậc Bất thối chuyển, phải biết đại Bồ Tát này chưa khéo tu học sáu Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp khác, chưa vào bậc Bất thối chuyển khai thị ký biệt rõ ràng tướng an trụ Bất thối chuyển.

Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát đã được khai thị ký biệt rõ ràng pháp tướng tu học của đại Bồ Tát trụ bậc Bất thối chuyển, phải biết đại Bồ Tát này đã khéo tu học sáu Ba la mật và tất cả Bồ đề phần pháp khác, đã vào bậc Bất thối chuyển khai thị ký biệt rõ ràng tướng an trụ Bất thối chuyển.

Bấy giờ, Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Vả có đại Bồ Tát chưa được Bất thối chuyển có thể khởi như thật đáp như thế chăng?

Phật bảo:

- Này Thiện Hiện! Có đại Bồ Tát tuy chưa được Bất thối chuyển, nhưng có thể đáp như thật về việc đó. Này Thiện Hiện! Tuy chưa được Bất thối chuyển nhưng đại Bồ Tát này có thể tu học sáu pháp Ba la mật và tất cả các Bồ đề phần pháp. Vị ấy đã thành thục tuệ giác bén nhạy, hoặc được nghe hoặc không được nghe nhưng có thể đáp đúng như thật y như bậc đại Bồ Tát ở địa vị Bất thối chuyển.

Bấy giờ, Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Có nhiều đại Bồ Tát tu hành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng họ chưa khéo tu tập mà đã an trụ nên ít có thể đáp như thật y như bậc đại Bồ Tát ở địa vị Bất thối chuyển, là bậc đã khéo tu tập?

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng ông đã nói. Vì sao? Này Thiện Hiện! Ít có đại Bồ Tát chưa được thọ ký Bất thối chuyển mà có trí tuệ vi diệu như vậy. Nếu có người nào được thọ ký như vậy thì đều có thể đáp như thật về việc này. Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát có thể đáp như thật về việc này thì nên biết vị ấy có căn lành sáng suốt, trí tuệ sâu rộng, trời, người, A tu la v.v... không thể sai khiến.

 

Thích nghĩa:

(1). Dịch từ chữ Hán là tập cận”: Tập là tập luyện, tập tành; cận là gần: Tập tành để được gần gũi, thân cận.

(2). Nguyên văn câu chữ Hán trong Hoavouu.com là:

thiện hiện thị Bồ Tát Ma Ha Tát tác thử quán thời bất linh tâm loạn nhược tâm bất loạn tắc bất kiến pháp nhược bất kiến pháp tắc bất tác chứng”  

 (3). Bồ đề phần pháp: Nói chung là 37 pháp trợ đạo gồm tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát chánh đạo phần; nói riêng là thất Bồ đề phần hay còn gọi là bảy đẳng giác chi hay bảy chi Thánh đạo. (Xem lại phần thứ I Tổng luận). Đã giải thích nhiều lần.

(4). Gia hạnh: Gia công dụng hạnh.

(5). Ba cách nhận thức: Tâm (điên đảo), thấy (điên đảo), tưởng (điên đảo).

(6). Bốn điên đảo (tứ điên đảo, cũng gọi là tứ đảo): Bốn tư tưởng sai trái, đi ngược với chân lý. Đó là: 1- Vô thường cho là thường, thường cho là vô thường; 2- Khổ cho là vui, vui cho là khổ. 3- Không có ngã cho là có ngã, có ngã cho là không có ngã. 4- Bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh. Bốn sự điên đảo này khiến chúng sinh không có nhận thức được đúng về bản chất của đời sống, và do bốn điên đảo này mà phạm vào các việc làm trái ngược với Chánh kiến. (Mở Rộng Tâm Hồn)

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Tập Cận” của Hội thứ II tương đương với phẩm “Khéo Học”, phần sau quyển 331 cho đến đầu quyển 332, Hội thứ I, ĐBN thuyết về “quán không bất chứng”, một pháp quán (tam muội) Không, Vô tướng, Vô nguyện mà Bồ Tát dùng để thâm nhập các pháp môn Phật học và khi các Bồ Tát thông đạt tất cả pháp Phật rồi, các Ngài không chứng thật tế và nhập Niết bàn. Trái lại, hạnh nguyện của các Ngài là cứu khổ chúng sanh, nên Kinh nói các Bồ Tát học quán Không, Vô tướng, Vô nguyện nhưng không chứng thật tế Không, Vô tướng, Vô nguyện. Đây là thời học không phải thời chứng, nên gọi pháp quán này là Quán Không Bất Chứng. Đó là nội dung của phần đầu phẩm “Khéo Học” mà chúng ta đã tụng xong ở Hội thứ I, ĐBN.

Điểm đáng lưu ý trong phẩm thứ 60, “Học Không Bất Chúng”, tập 4, quyển 76, Đại Trí Độ Luận tương đương với phẩm “Tập Cận”, Hội thứ II, ĐBN là lời bình giảng sau đây:

“Phật dạy: Vì Bồ Tát đã thâm nhập vào pháp tánh, nên chẳng tác chứng vậy.

Ví như người cắt cỏ tranh, nếu nắm quá chặt thì cạnh lá tranh có thể cắt đứt tay; tóm lại, nếu khéo léo nắm nhẹ nhàng, nhanh nhẹn thì chẳng bị đứt tay. Cũng như vậy, người học pháp không mà chưa vào được pháp tánh, thì còn chấp pháp không, và còn thấy các tác chứng; trái lại, Bồ Tát đã thâm nhập vào pháp tánh, nên biết rõ “pháp không” cũng là “không”, Niết bàn cũng là “không”, là chẳng có chỗ chứng (vô sở chứng).

Khi chưa vào pháp không, Bồ Tát đã tự niệm rằng: Ta nên quán các pháp đều là tự tướng không, mà chẳng nên thủ chứng. Khi vào thiền định, ta chớ nên chuyên tâm nhiếp niệm nơi pháp không, (nếu luôn luôn nhiếp niệm nơi pháp không)là ta đã buộc tâm vào “không”, chẳng thể nào thoát ly ra khỏi “không” được. Nếu chấp “không” như vậy, thì chẳng sao có thể nhiếp độ chúng sanh được”.

Hành giả lúc ban đầu vào thiền định phải thâm nhập vào pháp không; rồi lại phải quán biết “không” đó cũng là “không”. Có như vậy thì tâm mới chẳng còn chuyên nhiếp nơi “không”, chẳng còn bị trói buộc nơi thiền định. Do vậy mà được tâm chẳng tán loạn.

Lại nữa, Bồ Tát phải tự niệm: Ta phải tu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp; tu đầy đủ 10 Phật lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại trí... cùng tất cả các Phật pháp.

Do vậy mà chẳng trú Niết bàn.

Lại nữa, Bồ Tát phải tự niệm: Ta phải thành tựu các lực phương tiện, học đầy đủ các pháp môn, để giáo hóa chúng sanh, dẫn dắt họ vào Phật đạo.

Tự niệm như vậy, nên Bồ Tát phát nguyện rằng: “Nay là lúc ta học, chẳng phải lúc ta chứng. Bao giờ ta được đầy đủ hết thảy Phật sự rồi, thì lúc bấy giờ ta mới chứng”. Do phát nguyện như vậy, nên Bồ Tát vào 3 giải thoát môn, mà chẳng thủ chứng các pháp ấy”.

“Ngài Tu Bồ Đề, sau khi nghe Phật dạy, sanh tâm hoan hỷ, và bạch với Phật rằng: Thật là hy hữu! Chỗ hành pháp của Bồ Tát thật là thậm thâm, vi diệu, rất khó hành. Bồ Tát hành “không” mà chẳng thủ chứng “không”.

Phật dạy: Bồ Tát phát bổn nguyện độ thoát hết thảy chúng sanh, khiến họ dứt trừ được ưu bi, khổ não. Do bổn nguyện đại từ bi như vậy, nên Bồ Tát hành “không” mà chẳng chấp “không”. Bồ Tát biết chúng sanh chìm đắm trong đêm dài vô minh, chấp ngã, chấp pháp, nên dùng 3 giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác” độ thoát họ ra khỏi các tà kiến chấp.

Nhờ lực phương tiện Bát nhã Ba la mật hộ trì, nên Bồ Tát thường hành 3 giải thoát môn, mà vẫn chẳng xả ly chúng sanh. Bồ Tát biết rõ chúng sanh, từ vô thỉ đến nay, bị vô minh che tâm, nên chấp ngã, chấp pháp, mà chẳng biết rằng ngã và pháp đều là tự tướng không, đều bất khả đắc; do vậy mà khởi sanh phiền não, tà kiến, lạc về tà đạo.

Bồ Tát lại biết rõ người tu hành, dù đã biết được ngã không và pháp không, nhưng thường còn chấp không; do vậy mà lạc về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa.

Biết rõ như vậy, nên Bồ Tát phát nguyện: Ta vì chúng sanh phải tu tập thành Phật đạo, để đoạn trừ các chấp điên đảo nơi chúng sanh; do vậy mà ta phải hành 3 giải thoát môn, mà chẳng tác chứng thật tế. Tuy chẳng tác chứng thật tế, nhưng Bồ Tát chẳng mất các công đức thiền định. Do thường ở trong định, thường thâm nhập pháp không, nên Bồ Tát được căn trí thông lợi, thù thắng hơn hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật. Bồ Tát hành đầy đủ các pháp môn tu, thành tựu được vi diệu trí huệ như vậy, mà chẳng bao giờ chấp có hành các pháp ấy trong 3 cõi... dẫn đến chẳng chấp 3 cõi, vì biết rõ 3 cõi là hư vọng. Bồ Tát biết rõ các pháp đều bình đẳng, nhất như, nên thường quán “không”, mà chẳng chấp “không”, chẳng tác chứng thật tế”.

Nội dung của Phẩm “Tập Cận” của kinh ĐBN cũng như phẩm “Học Không Bất Chứng” của Kinh MHBNBLMĐ cũng như vậy. Quán không, vô tướng, vô tác mà chẳng tác chứng thật tế. Nếu chứng thật tế thì vào Niết bàn, bỏ đại nguyện phục vụ chúng sanh thì chẳng khác nào Nhị thừa. Vì vậy, mới gọi phẩm này là “quán không bất chứng”.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com