- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM "KHÔNG TẠP"
Phần sau quyển 467 cho đến phần đầu quyển 468, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương phẩm “Pháp Nghĩa Không Tạp”, phần sau Q.378
cho đến phần đầu Q.379, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Gợi ý:
Phẩm này của Hội thứ II, ĐBN có tên là “Không Tạp”, nghĩa là tất cả pháp rất nhiều nhưng chẳng khác nào như huyễn như hóa, như huyễn như hóa tức là không. Lại nữa, tất cả pháp đều là duyên hợp, không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh. Nếu tất cả pháp không có tự tánh, thì không có tướng, nếu không có tướng, pháp này là nhất tướng chỗ gọi là vô tướng. Vô tướng cũng nghĩa là không. Nhập vào tánh không rồi thì thấy nhân không, pháp không. Biết tất cả khe suối, lạch nước lớn nhỏ, sông hồ đều chảy vào đại hải tánh không rồi đều có cùng một vị mặn thì chẳng có gì là tạp loạn, sai khác.
Tương đương với phẩm này, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 77, tập 5, quyển 88, có tên là “Lục Dụ”, lại thuyết về sáu pháp Ba la mật.
Tóm lược:
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Làm sao đối trong tất cả pháp không tạp, vô tướng tự tướng không, có thể viên mãn sáu Ba la mật? Làm sao trong tất cả pháp không sai khác mà có thể thi thiết sai khác? Làm sao rõ biết tướng các pháp sai khác như thế? Làm sao đối với Bát nhã Ba la mật có thể nhiếp thọ tất cả pháp thế gian, xuất thế gian? Làm sao đối với tất cả pháp có tướng sai khác thi thiết nhất tướng chỗ gọi vô tướng, và đối với pháp nhất tướng vô tướng thi thiết pháp tướng sai khác?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng vang, như ánh nắng, như huyễn, như hóa. Vì các hữu tình bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tu định, học huệ như thật rõ biết năm uẩn như mộng cho đến như hóa đều đồng nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Vì sao? Mộng cho đến hóa đều không tự tánh. Nếu pháp không tự tánh, thời pháp này không tướng. Nếu pháp không tướng, pháp này nhất tướng, chỗ gọi vô tướng.
1. Do nhân duyên đây, phải biết tất cả kẻ thí, kẻ thọ, vật thí, tánh thí, quả thí, duyên thí đều đồng vô tướng. Nếu biết như thế mà hành bố thí, thời có thể viên mãn sở hành vô tướng bố thí Ba la mật. Nếu có thể viên mãn chỗ hành bố thí Ba la mật, thời chẳng xa lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.
An trụ sáu Ba la mật đây, thời năng viên mãn bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Cũng có thể viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Cũng có thể viên mãn ba môn giải thoát. Cũng có thể viên mãn nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Cũng có thể viên mãn chơn như cho đến bất tư nghì giới. Cũng có thể viên mãn khổ tập diệt đạo Thánh đế. Cũng có thể viên mãn tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng có thể viên mãn các Bồ Tát địa. Cũng có thể viên mãn năm trăm Đà la ni môn, năm trăm Tam ma địa môn. Cũng có thể viên mãn năm nhãn, sáu thần thông. Cũng có thể viên mãn Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng có thể viên mãn pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả. Cũng có thể viên mãn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.
Đại Bồ Tát này an trụ trong các pháp dị thục Thánh vô lậu như thế, thường qua thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, đem vô lượng phẩm vật đồ cúng thượng diệu cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, làm lợi ích an vui các hữu tình. Kẻ nên dùng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật thì dùng bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mà nhiếp thọ. Kẻ nên dùng các thứ thiện pháp khác, thì dùng các thiện pháp khác mà nhiếp thọ v.v…
Đại Bồ Tát này trọn nên tất cả căn lành thù thắng, đối tất cả pháp đều được tự tại, dù thọ sanh tử mà chẳng bị tội lỗi sanh tử làm ô nhiễm. Vì muốn lợi vui các hữu tình nên thọ sanh người trời giàu sang tự tại. Do oai lực giàu sang tự tại đây, nên có thể làm nhiều việc nhiêu ích hữu tình, đem bốn nhiếp sự mà nhiếp thọ. Đại Bồ Tát này biết tất cả pháp đều vô tướng, nên dù biết Dự lưu mà chẳng trụ quả Dự lưu, cho đến dù biết Độc giác Bồ đề mà chẳng trụ Độc giác Bồ đề. Vì sao? Đại Bồ Tát này như thật rõ biết tất cả pháp rồi, vì muốn chứng được Nhất thiết trí trí, nên chẳng chung cùng với tất cả Thanh văn, Độc giác.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát biết tất cả pháp đều vô tướng, nên như thật rõ biết bố thí cùng năm Ba la mật và vô lượng vô biên các Phật pháp khác đều đồng vô tướng. Do nhân duyên đây, khắp viên mãn tất cả Phật pháp, bèn có thể chứng được Nhất thiết trí trí.
2. Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn, như hóa, viên mãn tịnh giới Ba la mật.
Đại Bồ Tát này như thật rõ biết năm uẩn như mộng cho đến như hóa, bèn năng viên mãn vô tướng tịnh giới Ba la mật. Tịnh giới như thế không khuyết không hở, không tỳ không uế, không bị lấy đắm, đáng thọ nhận cúng dường, được kẻ trí khen ngợi. Đó là Thánh pháp vô lậu rốt ráo, thu nhiếp vào nhánh đạo xuất thế gian.
An trụ giới này thì có thể thọ trì tất cả các giới như là giới kiến lập, giới tự nhiên đắc, giới luật nghi, giới hữu biểu, giới vô biểu, giới hiện hành, giới không hiện hành, giới oai nghi, giới phi oai nghi. Đại Bồ Tát này dù đủ trọn nên các giới như thế mà đối các pháp không lấy đắm. Chẳng khởi nghĩ này: Ta do giới đây sẽ sanh đại tộc Sát đế lợi, hoặc đại tộc Bà la môn, Trưởng giả, Cư sĩ giàu sang tự tại. Cũng chẳng khởi nghĩ này: Ta do giới đây sẽ làm Tiểu vương, hoặc làm Đại vương, hoặc làm Luân vương, hoặc làm phụ tá giàu sang tự tại. Chẳng khởi nghĩ này: Ta do giới đây sẽ sanh trời Bốn đại vương chúng cho đến trời Tha hóa tự tại giàu sang tự tại. Chẳng khởi nghĩ này: Ta do giới đây sẽ được quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn hoặc vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, hoặc được Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn, hoặc được Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì các pháp như thế đều đồng nhất tướng, chỗ gọi vô tướng, vô trụ vô đắc. Pháp vô tướng chẳng đắc vô tướng. Pháp hữu tướng chẳng đắc hữu tướng. Pháp vô tướng chẳng đắc hữu tướng. Pháp hữu tướng chẳng đắc vô tướng. Do nhân duyên đây đều vô sở đắc. (Q. 467, ĐBN)
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi hành Bát Nhã, mau được viên mãn vô tướng tịnh giới Ba la mật. Đã được viên mãn vô tướng tịnh giới Ba la mật, mau vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, nên chứng đắc Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn. Đã được Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn, tu hành Đạo tướng trí tới Nhất thiết tướng trí được năm thần thông dị thục. Lại được năm trăm Đà la ni môn, cũng được năm trăm Tam ma địa môn. An trụ trong đây, lại có thể chứng được bốn vô ngại giải. Từ một nước Phật đến một nước Phật, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.
Đại Bồ Tát này vì hóa độ hữu tình dù thị hiện lưu chuyển các thú sanh tử, mà chẳng bị lỗi kia làm nhiễm. Như người huyễn hóa, tuy thị hiện các việc đi đứng ngồi nằm nhưng thật sự không có các nghiệp qua lại. Đại Bồ Tát cũng vậy, tuy hiện các pháp lợi ích hữu tình nhưng đối với hữu tình và sự kiến lập ấy vô sở đắc.
Như có Như Lai tên Thiện Tịch Tịnh(1) chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng, giúp họ ra khỏi sanh tử chứng đắc Niết bàn; nhưng vào lúc đó không có hữu tình nào kham nhận thọ ký quả vị Vô Thượng Bồ đề. Lúc ấy Như Lai hóa hiện 1 vị hóa Phật giúp cho trụ ở đời lâu dài rồi tự xả thọ mạng, nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Sau khi đã trụ một kiếp, hóa thân của vị Phật ấy lại thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cho một Bồ Tát rồi mới nhập Niết bàn. Hóa thân Phật ấy tuy làm các việc lợi ích hữu tình nhưng không có sở đắc, nghĩa là không nắm bắt sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến không nắm bắt tất cả pháp hữu lậu, vô lậu và các hữu tình. Cũng vậy, đại Bồ Tát này tuy có làm nhưng vô sở đắc.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu viên mãn tịnh giới Ba la mật. Do tịnh giới Ba la mật đây được viên mãn, nên bèn năng nhiếp thọ tất cả Phật pháp. Nhân đây chứng được Nhất thiết trí trí. (Q.467, ĐBN)
3. Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn, như hóa, viên mãn an nhẫn Ba la mật. Đại Bồ Tát này như thật rõ biết năm uẩn như mộng cho đến như hóa, liền có thể viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật.
Thiện Hiện! Sao là Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật rõ biết năm uẩn như mộng cho đến như hóa, liền có thể viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật? Thiện Hiện! Bồ Tát này như thật rõ biết năm thủ uẩn này không thật tướng nên tu hai thứ nhẫn, liền có thể viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật. Sao gọi là hai? Đó là an thọ nhẫn và quán sát nhẫn.
- An thọ nhẫn là các Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Bồ đề, ở khoảng giữa giả sử tất cả loại hữu tình đua nhau đến hủy hoại, dùng lời thô ác mắng nhiếc lăng nhục, lại đem ngói đá dao gậy gia hại. Lúc ấy để viên mãn an nhẫn Ba la mật, Bồ Tát không sanh một niệm hờn giận, cho đến cũng không sanh tâm báo thù, chỉ nghĩ: Các hữu tình kia thật đáng thương xót, bị phiền não tăng thượng quấy nhiễu trong tâm, không được tự tại nên họ gây ra nghiệp ác như vậy, ta không nên căm hận họ. Vị ấy lại nghĩ: Do ta tạo ra các nhóm oan gia nên khiến cho hữu tình kia phát sanh nghiệp ác với ta, ta chỉ nên tự trách mình, không nên giận người. Lúc quán sát sâu sắc như vậy, Bồ Tát sanh lòng thương xót sâu xa đối với hữu tình ấy. Như vậy gọi là an thọ nhẫn.
- Quán sát nhẫn là các Bồ Tát khởi suy nghĩ này: Các hành như huyễn, hư dối chẳng thật, chẳng được tự tại. Cũng như hư không, không ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả đều bất khả đắc, chỉ do hư vọng phân biệt khởi ra, tất cả đều là tự tâm biến hiện. Ai hủy hoại ta, ai mắng nhiếc ta, ai lăng nhục ta, ai đem các thứ ngói đá dao gậy gia hại ta, ai lại chịu lăng nhục gia hại? Tất cả đều là sự phân biệt hư vọng của tự tâm. Nay ta không nên phát sanh chấp trước. Do tự tánh không và thắng nghĩa không nên các pháp như vậy hoàn toàn vô sở hữu. Khi Bồ Tát quán sát kỹ như thế, như thật rõ biết các hành vắng lặng trống không, đối tất cả pháp chẳng sanh tưởng khác, những loại như vậy, gọi quán sát nhẫn.
Đại Bồ Tát này vì tu tập hai thứ nhẫn như thế, nên viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật. Do viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật bèn được Vô sanh pháp nhẫn.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào là vô sanh pháp nhẫn. Pháp này đoạn trừ những gì và là trí gì?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Do thế lực này nên ngay cả pháp ác bất thiện nhỏ nhiệm cũng không sanh vì thế gọi là vô sanh pháp nhẫn. Pháp này làm cho tất cả các phiền não như ngã, ngã sở, mạn… hoàn toàn không sanh, chỉ như thật nhẫn chịu các hành như mộng cho đến như hóa. Pháp nhẫn này gọi là trí. Do đạt được trí này nên gọi danh là vô sanh pháp nhẫn.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Vô sanh pháp nhẫn của Thanh văn, Độc giác và Bồ Tát có gì sai khác?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Hoặc trí hoặc đoạn của bậc Dự lưu cho đến hoặc trí hoặc đoạn của Độc giác đều là nhẫn của Đại Bồ Tát. Lại có nhẫn của đại Bồ Tát là nhẫn các pháp hoàn toàn không sanh. Đó là sự sai khác. Thiện Hiện! Ông nên biết: Do các đại Bồ Tát thành tựu pháp nhẫn thù thắng như vậy nên vượt lên trên tất cả Thanh văn, Độc giác. Các đại Bồ Tát an trụ vào nhẫn dị thục như vậy để thực hành Bồ Tát đạo thì có thể viên mãn Đạo tướng trí. Nhờ thành tựu Đạo tướng trí này, vị ấy thường không xa lìa bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, cũng không xa lìa ba môn giải thoát, không xa lìa thần thông dị thục. Do không xa lìa thần thông dị thục, vị ấy từ cõi Phật này đến cõi Phật khác thân cận cúng dường chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Làm việc này rồi, dùng một sát na tương ưng Bát Nhã chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, mau viên mãn vô tướng an nhẫn Ba la mật. Do an nhẫn Ba la mật đây được viên mãn, nên thường viên mãn tất cả Phật pháp. Nhờ đây chứng được Nhất thiết trí trí. (Q.467, ĐBN)
4. Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn, như hóa. Như thật rõ biết năm uẩn như mộng cho đến như hóa không có thật tướng rồi, phát khởi mạnh mẽ thân tâm tinh tấn, nên có thể dẫn phát thần thông thù thắng lanh lẹ, thường qua thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, gần gũi Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đem vô lượng phẩm vật thượng diệu cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen. Ở chỗ chư Phật trồng nhiều thứ căn lành, lợi ích an vui các loại hữu tình. Cũng thường nghiêm tịnh cõi Phật. Đại Bồ Tát này do thân tinh tấn thành thục hữu tình, tùy theo căn cơ dùng pháp ba thừa an lập giúp họ đều đạt được cứu cánh.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã thẳm sâu, do tinh tấn này được mau viên mãn vô tướng tinh tấn Ba la mật, đại Bồ Tát này phát khởi tâm tinh tấn mạnh mẽ, nên dẫn phát các chi Thánh đạo vô lậu nhiếp vào Thánh đạo, viên mãn tinh tấn Ba la mật. Trong đó bao gồm các thiện pháp như là bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc tám giải thoát cho đến mười biến xứ; hoặc khổ tập diệt đạo Thánh đế; hoặc bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; hoặc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa; hoặc tất cả Đà la ni, Tam ma địa môn; hoặc nội không cho đến vô tánh tự tánh không; hoặc chơn như cho đến bất tư nghì giới; hoặc năm nhãn, sáu thần thông; hoặc Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng; hoặc pháp vô vong thất, tánh hằng trụ xả; hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ Tát này do tâm tinh tấn, các tướng tùy hảo đều được viên mãn, nên có thể phóng đại quang minh soi vô biên cõi. (Q.468, ĐBN)
Do tâm tinh tấn cực viên mãn, nên các vị ấy có thể dứt hẳn tất cả tập khí phiền não nối nhau, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp. Đủ ba mươi hai tướng tốt, khiến cõi Tam thiên phát hào quang cùng sáu thứ biến động. Các hữu tình trong đó nhờ ánh sáng chiếu đến thấy biến động này, nghe âm thanh chánh pháp, tùy theo sự mong mỏi đối với đạo tam thừa đều được bất thối chuyển.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu, viên mãn tinh tấn Ba la mật. Do các việc làm từ tinh tấn Ba la mật nên đại Bồ Tát này an trụ vào tinh tấn Ba la mật có thể sớm viên mãn tất cả Phật pháp, sớm chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
5. Lại nữa, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn, như hóa, viên mãn tĩnh lự Ba la mật.
Thiện Hiện! Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu, đại Bồ Tát an trụ trong năm thủ uẩn như mộng cho đến như hóa để viên mãn tịnh lự Ba la mật như thế nào? Đó là lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu, sau khi đại Bồ Tát biết như thật năm uẩn như mộng cho đến như hóa rồi nhập vào tịnh lự thứ nhất cho đến tịnh lự thứ tư, nhập vào vô lượng từ cho đến vô lượng xả, nhập vào định Không vô biên xứ cho đến định Phi tưởng phi phi tưởng xứ; tu Tam ma địa không, vô tướng, vô nguyện, tu Tam ma địa như điện, tu Tam ma địa Kim cang dụ, tu Tam ma địa chân chánh của bậc Thánh, trụ vào Tam ma địa Kim cang dụ, trừ tầng định của Như Lai còn đối với các tầng định khác như định của nhị thừa và các thắng định khác vị ấy có thể nhập vào tất cả và hoàn toàn an trụ trong đó nhưng không tham đắm vị ngọt của các định tịnh lự, vô lượng, vô sắc, cũng không tham đắm vào sự đắc quả ấy. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy như thật biết những định tịnh lự vô lượng, vô sắc, và tất cả các pháp đều cùng lấy vô tướng, vô tánh làm tánh. Chẳng lẽ vô tướng say đắm vô tướng, chẳng lẽ vô tánh say đắm vô tánh. Do không say đắm, vị ấy quyết định không theo thế lực của các tịnh lự vô lượng, vô sắc mà sanh vào sắc giới và vô sắc giới. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này hoàn toàn không có sở đắc đối với mọi cảnh giới; đối với người nhập định, định được nhập, lý do nhập định vị ấy cũng không có sở đắc. Do không có sở đắc đối với tất cả các pháp, đại Bồ Tát này có thể sớm viên mãn vô tướng tịnh lự Ba la mật. Nhờ tịnh lự Ba la mật này, vị ấy vượt khỏi các địa vị Thanh văn, Độc giác.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này làm sao viên mãn vô tướng tĩnh lự Ba la mật, vượt các Thanh văn và bậc Độc giác?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Do học trọn vẹn nội không cho đến vô tính tự tính không nên đại Bồ Tát này liền có thể viên mãn vô tướng tịnh lự Ba la mật, vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác. Đại Bồ Tát này trụ vào các pháp không, hoàn toàn vô sở đắc đối với tất cả các pháp, chẳng thấy có pháp nào lìa các pháp không đó. An trụ ở trong đó, đại Bồ Tát này không đắc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, cũng không nắm bắt các Bồ Tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các pháp không này cũng đều rỗng không. Nhờ trụ trong pháp không này, đại Bồ Tát ấy vượt qua các địa vị Thanh văn, Độc giác, chứng nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát lấy gì làm sanh? Lấy gì làm ly sanh?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các đại Bồ Tát lấy tất cả pháp hữu sở đắc làm sanh, lấy tất cả pháp vô sở đắc làm ly sanh.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch:
- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát lấy gì làm hữu sở đắc và lấy gì làm vô sở đắc?
Phật bảo Thiện Hiện:
- Các đại Bồ Tát lấy tất cả các pháp làm hữu sở đắc, nghĩa là các đại Bồ Tát lấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm hữu sở đắc; lấy mười hai xứ cho đến mười tám giới làm hữu sở đắc; lấy nhãn xúc cho đến ý xúc làm hữu sở đắc; lấy các cảm thọ do nhãn xúc sanh ra cho đến các cảm thọ do ý xúc sanh ra làm hữu sở đắc; lấy địa giới cho đến thức giới làm hữu sở đắc; lấy nhân duyên cho đến tăng thượng duyên làm hữu sở đắc; lấy vô minh cho đến lão tử làm hữu sở đắc; lấy bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật làm hữu sở đắc; lấy nội không cho đến vô tánh tự tánh không làm hữu sở đắc; lấy chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì làm hữu sở đắc; nói rộng ra lấy tất cả pháp Phật làm hữu sở đắc.
Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát dùng các pháp môn như vậy làm hữu sở đắc, hữu sở đắc này được gọi là sanh.
Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát lấy tất cả pháp không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày, làm vô sở đắc. Đó là: Các đại Bồ Tát dùng pháp không hành, không chứng, không nói, không chỉ bày của sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của sắc cho đến tự tánh của thức đều không thể hành, chứng, nói năng chỉ bày. Các đại Bồ Tát dùng pháp không hành, không chứng, không nói, không chỉ của mười hai xứ cho đến mười tám giới làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của xứ cho đến giới đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Các đại Bồ Tát dùng việc không hành, không đắc, không nói năng, không chỉ bày của nhãn xúc cho đến ý xúc làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của nhãn xúc cho đến tự tánh ý xúc đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Các đại Bồ Tát lấy việc không hành, không chứng, không nói, không chỉ bày của các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tự tánh các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày của địa giới cho đến thức giới làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của địa giới cho đến tự tánh của thức giới đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày của nhân duyên cho đến tăng thượng duyên làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của nhân duyên cho đến tự tánh của tăng thượng duyên đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày của vô minh cho đến lão tử làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của vô minh cho đến tự tánh của lão tử đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, chứng đắc, nói năng, chỉ bày của bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của bố thí cho đến tự tánh Bát nhã Ba la mật đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày của nội không cho đến vô tánh tự tánh không làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của nội không cho đến tự tánh của vô tánh tự tánh không đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày của chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của chơn như cho đến tự tánh cảnh giới bất tư nghì đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày. Nói rộng ra, các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày của tất cả pháp Phật làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp Phật không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày.
Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát lấy các pháp không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày như vậy làm vô sở đắc. Vô sở đắc này được gọi là ly sanh. Sau khi đã chứng nhập địa vị Chánh tánh ly sanh, viên mãn tất cả tịnh lự, giải thoát đẳng trì, đẳng chí, các đại Bồ Tát còn không sanh theo thế lực của định huống là theo phiền não tham, sân, si. Nếu theo thế lực của phiền não mà sanh thì thật phi lý. Đại Bồ Tát này an trụ trong đó tạo các nghiệp. Nếu do thế lực của nghiệp, vị ấy bị lưu chuyển trong các đường thì cũng thật phi lý.
Đại Bồ Tát này tuy trụ trong nhóm các hành như huyễn, như thật làm nhiêu ích các hữu tình mà chẳng đắc huyễn các hữu tình. Đại Bồ Tát này khi đối việc vô sở đắc như thế, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật thường không lười bỏ.
Thế nên, Thiện Hiện! Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu, các đại Bồ Tát có thể mau viên mãn tịnh lự Ba la mật vô tướng. Nhờ tịnh lự Ba la mật này sớm được viên mãn, vị ấy mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình. Pháp luân như vậy gọi là vô sở đắc. (Q.468, ĐBN)
6. Lại nữa Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn, như hóa, viên mãn Bát nhã Ba la mật. Đại Bồ Tát này như thật biết rõ tánh tướng các tất cả pháp đều như mộng cho đến như hóa, liền có thể viên mãn vô tướng Bát nhã Ba la mật.
Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Làm đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu như thật biết rõ tánh tướng các pháp, tất cả như mộng cho đến như hóa?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng thấy mộng, chẳng thấy kẻ nằm mộng; chẳng nghe tiếng vang, chẳng thấy kẻ nghe vang; chẳng thấy tượng, chẳng thấy kẻ thấy tượng; chẳng thấy bóng sáng, chẳng thấy kẻ thấy bóng sáng; chẳng thấy ánh nắng, chẳng thấy kẻ thấy ánh nắng; chẳng thấy huyễn, chẳng thấy kẻ thấy huyễn; chẳng thấy hóa, chẳng thấy kẻ thấy hóa. Vì sao? Vì mộng cho đến hóa đều là do ngu phu dị sanh điên đảo chấp trước. Các A la hán, Độc giác, chúng Bồ Tát và các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều chẳng thấy mộng, chẳng thấy kẻ mộng, cho đến chẳng thấy hóa, chẳng thấy kẻ thấy hóa. Vì sao? Vì tất cả pháp lấy vô tánh làm tánh, chẳng thành chẳng thật, vô tướng vô vi, chẳng thật có tánh, ngang cùng Niết bàn.
Nếu tất cả pháp lấy vô tánh làm tánh, nói rộng cho đến ngang cùng Niết bàn, làm sao đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thẳm sâu, đối tất cả pháp khởi tưởng có tánh, tưởng thành tưởng thật, tưởng hữu tướng tưởng hữu vi, tưởng có thật tánh? Nếu có khởi tưởng như thế, không có lẽ ấy. Vì sao? Vì nếu tất cả pháp có chút tự tánh, có thành có thật, có hữu tướng hữu vi, có thật tánh khá được ấy, thời sở tu Bát Nhã thẳm sâu, chẳng phải Bát nhã Ba la mật.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã thẳm sâu chẳng chấp sắc cho đến thức. Chẳng chấp mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chẳng chấp nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng chấp nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng chấp địa giới cho đến thức giới. Chẳng chấp nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chẳng chấp từ duyên sanh ra các pháp. Chẳng chấp vô minh cho đến lão tử. Chẳng chấp cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, Chẳng chấp tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Chẳng chấp bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Chẳng chấp không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chẳng chấp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng chấp khổ tập diệt đạo Thánh đế. Chẳng chấp nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không. Chẳng chấp chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, chẳng chấp tất cả pháp Phật.
Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu, do không chấp trước đối với tất cả pháp môn như vậy nên đại Bồ Tát này viên mãn sơ địa đến thập địa Bồ Tát, nhưng không tham đắm các địa ấy. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này không nắm giữ kẻ hành cũng như pháp hành cho viên mãn sơ địa cho đến thập địa, thì làm sao có thể phát sanh tham đắm đối với các địa ấy. Tuy thực hành Bát Nhã thẳm sâu nhưng đại Bồ Tát ấy không nắm giữ Bát Nhã. Do không nắm giữ Bát Nhã nên vị ấy cũng không nắm giữ tất cả pháp. Tuy quán Bát Nhã bao gồm tất cả pháp nhưng đại Bồ Tát này hoàn toàn không nắm bắt các pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp cùng với Bát nhã Ba la mật này đều không hai, không hai phần. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp là không thể phân biệt, gọi là chơn như, là pháp giới, là thật tế... Vì các pháp không tạp, không sai khác vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp tánh không tạp, không sai khác, vì sao nói được đây là thiện đây là phi thiện, đây là hữu ký đây là vô ký, đây là hữu lậu đây là vô lậu, đây thế gian đây xuất thế gian, đây hữu vi đây vô vi, có các pháp môn sai khác như thế?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Trong thật tánh tất cả pháp, có pháp khá nói đây là thiện đây là phi thiện, đây là hữu ký đây là vô ký, đây là hữu lậu đây là vô lậu, đây thế gian đây xuất thế gian, đây hữu vi đây vô vi, đây quả Dự lưu, đây quả Nhất lai, đây quả Bất hoàn, đây quả A la hán, đây Độc giác Bồ đề, đây tất cả hạnh Bồ Tát, đây chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có!
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Do nhân duyên này, phải biết tất cả pháp không tạp không sai khác, không tướng không sanh, không diệt, không ngại, không nói, không chỉ. Thiện Hiện! Phải biết khi xưa tu Bồ Tát đạo Ta hoàn toàn không nắm bắt đối với tự tánh các pháp. Nghĩa là chẳng nắm bắt sắc thọ tưởng hành thức. Chẳng nắm bắt mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chẳng nắm bắt nhãn xúc cho đến ý xúc. Chẳng nắm bắt nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ. Chẳng nắm bắt địa giới cho đến thức giới. Chẳng nắm bắt nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chẳng nắm bắt từ duyên sanh ra các pháp. Chẳng nắm bắt vô minh cho đến lão tử. Chẳng nắm bắt cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Chẳng nắm bắt thiện phi thiện. Chẳng nắm bắt hữu ký vô ký. Chẳng nắm bắt hữu lậu vô lậu. Chẳng nắm bắt thế gian xuất thế gian. Chẳng nắm bắt hữu vi vô vi. Chẳng nắm bắt bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng nắm bắt nội Không cho đến vô tánh tự tánh Không. Chẳng nắm bắt chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, chẳng nắm bắt tất cả pháp Phật.
Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi hành Bát Nhã, từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Bồ đề, cần phải khéo học tự tánh các pháp. Nếu khéo học được tự tánh các pháp, thời có thể khéo tịnh được đạo Bồ đề, cũng có thể viên mãn được các Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, đem pháp Tam thừa phương tiện điều phục chúng hữu tình khiến đối ba cõi chẳng luân hồi, chứng được Niết bàn rốt ráo an vui.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên dùng vô tướng mà làm phương tiện tu học Bát nhã Ba la mật như thế.
Thích nghĩa:
(1). Thiện Tịch Tịnh Như Lai: Phẩm “Pháp Nghĩa Vô Tạp” quyển 378, Hội thứ I, ĐBN gọi là Tô Phiến Đa Như lai; Kinh MHBNBLMĐ gọi là Tu Phiến Đa.
Sơ giải:
Trước tiên Kinh trình bày giáo pháp của chư Phật tuy nhiều nhưng “chẳng có gì tạp loạn”. Chỉ cần hiểu rõ tánh tướng thể dụng của nó, nhất là phải hiểu rõ tự tánh của các pháp(hay pháp tánh). Nhưng chẳng có pháp nào có tự tánh, nếu không có tự tánh, thì phải lấy vô tánh làm tự tánh. Bởi vì tất cả pháp không có tự thể, do duyên hợp có, nên bảo là không. Rốt ráo học tất cả pháp là học cái “không” này. Khi thâm nhập được không, pháp không, tánh không hay bản tánh không rồi, thì biết nhân không pháp cũng không(1), lúc đó mới có thể tuyên nói tất cả pháp “không có tạp loạn, sai khác”.
Để giải thích toàn thể phẩm này Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ 77, “Lục Dụ”, tập 5, quyển 88, thuyết như sau:
“Còn Bồ Tát biết rõ 5 ấm đều là như mộng, như hưởng, như ảnh, như diệm, như huyễn, như hóa, nên thường dùng tâm KHÔNG mà hành bố thí... dẫn đến hành trí huệ. Bởi vậy nên tuy hành đầy đủ các pháp Ba la mật mà chẳng hề bị chướng ngại.
Ví như mây mù hay bụi trần ngăn che tầm mắt khiến người phàm phu chẳng có thể thấy được hư không. Cũng như vậy, do bị các phiền não tập khí che tâm, nên phàm phu chẳng thấy được thật tướng pháp.
Phàm phu do xa lìa thật tướng pháp, nên thấy có mây mù, có bụi trần ngăn che hư không. Còn chư Phật và chư đại Bồ Tát, ở nơi thật tướng pháp, thấy hư không mà chẳng thấy có mây mù hay bụi trần.
Vì Bồ Tát thường tự tại, vô ngại, nên ở nơi 1 niệm mà được đầy đủ các thiện pháp; ở nơi 1 Ba la mật mà được đầy đủ cả 6 Ba la mật.
Lại nữa, vì Bồ Tát thường tu hành thanh tịnh vô lậu Ba la mật, nên khi chuyển thân vẫn được đầy đủ quả báo vô lậu.
Do được quả báo vô lậu, nên Bồ Tát thường biến thân thành vô lượng thân, đi đến vô lượng cõi nước để nghe chư Phật thuyết pháp, để giáo hóa chúng sanh.
Hỏi: Nếu biết các pháp đều là không, là vô tướng, thì làm sao có thể biết được hành bố thí Ba la mật mà đầy đủ các Ba la mật kia?
Đáp: Người tu hành tuy chẳng tự phân biệt mình có hành Ba la mật nào, mà vẫn đầy đủ cả 6 Ba la mật.
Ví như người tu theo Thanh Văn, khi đã vào được “kiến đế đạo”, đã thấy được các pháp vô lậu, vô tướng vô phân biệt rồi, là đã có được chánh kiến. Được chánh kiến rồi là có chánh hạnh, chẳng làm não hại chúng sanh, chẳng khỏi niệm ác... dẫn đến có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Tuy chẳng có chỗ nói, chẳng có chỗ làm mà vẫn gọi là có chánh ngữ, chánh nghiệp. Do đã thâm nhập vào chánh ngữ, chánh
nghiệp, đã rốt ráo chẳng làm phiền nhiễu chúng sanh, mà thường phát tâm tinh tấn duyên niệm, nên gọi là có chánh niệm. Do thường nhiếp tâm tại một chỗ, nên gọi là có chánh định. Lại nữa, ở thân, thọ, tâm và pháp đều đã biết rõ thật tướng, nên gọi là được đầy đủ 4 niệm xứ.
Bồ Tát hành 4 niệm xứ cũng vào 8 thánh đạo... dẫn đến cũng thường hành “vô tướng bố thí Ba la mật”, thường đầy đủ trì giới Ba la mật, thường đầy đủ các thiện pháp. Vì sao?
Vì bố thí và trì giới nhiếp hết thảy các thiện pháp.
Hỏi: Ở phẩm trước nói, “Trong 1 niệm mà nhiếp hết thảy các Ba la mật. Ở phẩm này nói “Vô tướng Ba la mật nhiếp hết thảy các pháp. Như vậy có gì khác nhau chăng?
Đáp: Ở phẩm trước nói “Trong 1 niệm mà đầy đủ 6 pháp Ba la mật”; còn ở phẩm này nói “Các pháp tuy là không, là vô tướng, mà thường đầy đủ các pháp Ba la mật”.
Như vậy là có khác nhau”.
--o0o--
Kinh thuyết liên tục về lục Ba la mật, như các phẩm; “Xảo Tiện Hành”, “Tam Tiệm Thứ”, “Vô Tướng Vô Đắc”, “Pháp Nghĩa Vô Tạp” từ quyển 365 cho đến hết quyển 379 mà chúng ta có dịp tụng qua, nên chúng ta không cần lặp lại ở đây nữa. Quý vị có thể quay lại các phẩm tương đương có tên là “Pháp Nghĩa Không Tạp”, phần sau quyển 378 cho đến phần đầu quyển 379, Hội thứ I, ĐBN đọc tụng. Chúng tôi đã cố gắng trình bày rồi.
Ở đây có 1 giáo lý rất hữu ích cần nêu ra để học hỏi thêm, nên chúng tôi cố gắng nêu ra để Quý vị thẩm định: Đoạn kinh tu tĩnh lự của phẩm này (Q.468, ĐBN), bảo:
“Các đại Bồ Tát lấy tất cả pháp không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày, làm vô sở đắc. Đó là: Các đại Bồ Tát dùng pháp không hành, không chứng, không nói, không chỉ bày của sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của sắc cho đến tự tánh của thức đều không thể hành, chứng, nói năng chỉ bày. Các đại Bồ Tát dùng pháp không hành, không chứng, không nói, không chỉ của mười hai xứ cho đến mười tám giới làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của 12 xứ cho đến 18 giới đều không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày… Nói rộng ra, các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày của tất cả pháp Phật làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp Phật không thể hành, chứng, nói năng, chỉ bày”.
“… Các đại Bồ Tát lấy các pháp không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày như vậy làm vô sở đắc. Vô sở đắc này được gọi là ly sanh. Sau khi đã chứng nhập địa vị Chánh tánh ly sanh, viên mãn tất cả tịnh lự, giải thoát đẳng trì, đẳng chí, các đại Bồ Tát còn không sanh theo thế lực của định huống là theo phiền não tham, sân, si”.
“… Đại Bồ Tát này tuy trụ trong nhóm các hành như huyễn, như thật làm nhiêu ích các hữu tình mà chẳng đắc huyễn hữu tình”.
“… Lúc thực hành Bát Nhã thẳm sâu, các đại Bồ Tát có thể mau viên mãn tịnh lự Ba la mật vô tướng. Nhờ tịnh lự Ba la mật này sớm được viên mãn, vị ấy mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình”.
Kinh bảo các đại Bồ Tát lấy việc không thực hành, không chứng đắc, không nói năng, không chỉ bày của tất cả pháp Phật làm vô sở đắc. Vì sao? Vì tự tánh của tất cả pháp Phật không thể hành, chứng, không nói năng, chỉ bày. Do thực hành vô sở đắc như vậy nên các đại Bồ Tát vào được Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Lại do chứng Chánh tánh ly sanh, đại Bồ Tát mới có thể thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ.
Vì tất cả pháp là không, vô sở đắc. Đã là không, vô sở đắc thì mong cầu, chấp đắm làm gì cho luống uổng nhọc nhằn. Nên kinh lúc nào cũng nói là tu Bát Nhã như tu hư không.
Giáo pháp này đã phá tư tưởng của những người hành trì Bát nhã Ba la mật mà tâm còn muốn chứng pháp nọ pháp kia. Tại sao? Vì:
- Trước hết Bồ Tát từ sơ phát tâm cho đến khi thành chánh quả phải học tất cả pháp Phật thì mới có thể trở thành Dự lưu cho đến Vô Thượng Bồ đề. Nên nói tất cả pháp Phật là sở hữu của chư Bồ Tát, của chư Phật. Nên Kinh bảo học Phật là phải thọ trì tất cả các pháp môn cho thật thành thục mới có thể chứng Nhất thiết chủng trí, nghĩa là phải học, phải hiểu, phải viên mãn tất cả pháp môn, phải xử dụng thành thục các pháp môn Phật học như cái cưa, cái bào, cái đụt, cây thước… của người thợ mộc.
- Nhưng mặt khác, Kinh lại bảo các đại Bồ Tát phải lấy việc không hành, không chứng, không nói năng, không chỉ bày của tất cả pháp Phật làm vô sở đắc. Vậy, phải coi mình tu mình chứng như hư không, giống như huyễn sư và đệ tử của y tuy có thể làm tất cả vật huyễn tuy thấy có mà không thật có. Chẳng có gì là sở hữu, pháp còn phải bỏ hiến chi phi pháp; chẳng có gì là sở đắc, mong cầu nắm bắt chẳng khác nào nắm bắt một làn hương!
Vì sao? Vì tất cả pháp chỉ là mộng ảnh, bèo bọt, như huyễn như mộng… Mộng ảnh, bẻo bọc… cũng tức là không. Vậy trong rỗng không thì có gì để nắm bắt cất giữ? Nếu biết như vậy thì không chấp đắm thủ giữ, mới có thể đắc, mới có thể hiện quán, mới có thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh để thực thi công đức trí tuệ mà thành thục hữu tình, thanh tịnh Phật độ.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương cũng có cùng giáo lý như vậy: Học như không học, tu như không tu, chứng như không chứng. Giáo pháp này chính là căn bản cho những ai hành trì Bát Nhã. Bát Nhã chỉ là Bát Nhã khi không thuyết, không dạy, không lời, vắng lặng, vô tri như hư không!
Những diễn tả như vậy cốt để tự mình gia công đào xới, lặng sâu vào tâm thức của chính mình, tự tìm lấy sở ngộ, đừng mong cầu ước vọng xa xôi! Giáo lý dù xảo diệu cách mấy từ ngoài vào chỉ phần nào bồi dưỡng tánh đức trí tuệ. Nổ lực bên trong mới chính là sở ngộ, sở đắc. Cổ đức bảo “cái gì từ ngoài vào không phải là gia bảo nhà ta” hiểu như thế là hiểu hữu sở đắc và vô sở đắc như thế nào trong việc tu hành để tiến đến giác ngộ?
Vì vậy, cuối phẩm này Phật nói là Phật không nắm giữ bất cứ pháp nào trong thời kỳ tu Bồ Tát đạo, Phật bảo:
“Thiện Hiện! Các Bồ Tát khi hành Bát Nhã, từ sơ phát tâm cho đến ngồi yên tòa Bồ đề, cần phải khéo học tự tánh các pháp. Nếu khéo học được tự tánh các pháp, thời có thể khéo tịnh được đạo Bồ đề, cũng có thể viên mãn được các Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, đem pháp Tam thừa phương tiện điều phục chúng hữu tình khiến đối ba cõi chẳng luân hồi, chứng được Niết bàn rốt ráo an vui.
Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên dùng vô tướng mà làm phương tiện tu học Bát nhã Ba la mật như thế”.
Thích nghĩa cho phần lược giải này:
(1). Nhân không, pháp không: Nhân không hay chúng sanh không, là cốt để phá ngã, không muốn cúng sanh chấp ngã. Pháp không, tất cả pháp đều do duyên hợp không thật có, nên gọi là pháp không. Nói như vậy để chúng sanh không còn phân biệt pháp tướng hay chấp tướng nữa.
(2). Phật dạy: “Thật tướng của hết thảy các pháp tức là pháp tánh vậy”. Khéo học được pháp tánh là có thể tịnh đạo Bồ đề, cũng có thể viên mãn được Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề…
---o0o---