- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
PHẨM “KHÔNG BUỘC KHÔNG MỞ”
Phần đầu quyển 413, Hội thứ II, ĐBN.
(Tương đương với phẩm “Giáp Bị Đại Thừa”,
cuối quyển 49 đến đầu quyển 51, Hội thứ I, ĐBN)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
(Tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát năng mặc giáp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng mặc giáp bốn niệm trụ cho đến tám Thánh đạo chi, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng mặc giáp nội không cho đến vô tánh tự tánh không, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng mặc giáp Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng mặc giáp Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa. Nếu Bồ Tát năng tự biến thân tướng như Phật, phóng đại quang minh soi ba ngàn cõi, cho đến thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, làm việc nhiêu ích cho các hữu tình, đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát mặc giáp bị công đức như thế, phóng đại quang minh soi ba ngàn cõi, cho đến thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng, cũng khiến các cõi kia sáu thứ biến động vì các hữu tình làm đại nhiêu ích. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát thường mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật, khắp hóa Tam thiên đại thiên thế giới như ngọc phệ lưu ly, cũng hóa tự thân làm Đại luân vương, bảy báu quyến thuộc, không thứ nào chẳng viên mãn. Các loại hữu tình cần ăn cho ăn, cần uống cho uống, cần áo cho áo, cần xe cho xe; cần hương xoa, hương bột, hương đốt, tràng hoa, phòng nhà đồ nằm, thuốc men, đèn đuốc và các thứ cần dùng khác, thứ gì đều thí cho. Làm thí này rồi, lại vì tuyên nói pháp tương ưng sáu pháp đến bờ kia, khiến họ nghe rồi trọn chẳng sa đọa, được Vô Thượng Bồ đề, thường chẳng rời bỏ pháp tương ưng sáu pháp đến bờ kia. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
- Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y, ở ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm các loại hữu tình nghèo khốn, cần thứ gì đều thí cho. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế có thật chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Năng mặc giáp bị đại công đức bố thí Ba la mật, hoặc hóa thế giới như phệ lưu ly, hoặc hóa tự thân làm Luân vương, tùy loại hữu tình cần dùng thứ gì thì thí cho thứ ấy, và tuyên nói pháp tương ưng sáu pháp đến bờ kia. Như vậy, Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tịnh giới Ba la mật, vì hữu tình nên sanh nhà Luân vương, nối ngôi Luân vương, giàu sang tự tại, an lập vô lượng trăm ngàn ức chúng hữu tình nơi mười thiện nghiệp đạo; hoặc bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; hoặc không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn; hoặc Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Cũng vì tuyên nói các pháp như thế khiến an trụ, cho đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối pháp như thế thường chẳng rời. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm vô lượng trăm ngàn hữu tình, khiến an trụ mười thiện nghiệp đạo, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Vì hữu tình nên sanh nhà Luân vương, nối ngôi Luân vương, giàu sang tự tại, an lập vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình nơi mười thiện nghiệp đạo, cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Như vậy Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật.
Thiện Hiện! Như thế nào Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật?
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát từ sơ phát tâm đến được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mặc giáp an nhẫn Ba la mật, thường khởi nghĩ này: Giả sử tất cả loại hữu tình đều cầm dao gậy gia hại, ta trọn chẳng khởi tâm hờn giận trong một sát na, khuyên các hữu tình cũng tu nhẫn này. Bồ Tát đây như tâm đã nghĩ đều được thành xong, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng rời bỏ an nhẫn như thế; cũng khiến hữu tình tu nhẫn như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma ha tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y ở giữa đường ngã tư, trước đại chúng hóa làm nhiều loại hữu tình, hoặc cầm dao gậy gia hại lẫn nhau; hoặc khuyên nhau tu hạnh an nhẫn. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Tự mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức an nhẫn Ba la mật. Như vậy, Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật.
Thiện Hiện! Như thế nào là Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình khiến mặc giáp bị đại công đức tinh tấn Ba la mật?
- Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, thân tâm tinh tấn dứt các ác pháp bất thiện, tu các thiện pháp, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng hữu tình tu tập thân tâm tinh tấn như thế, cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng rời chính siêng như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình tự tu tinh tấn, cũng khuyên người tu tinh tấn. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, tự tu tinh tấn, cũng khuyên hữu tình khiến tu tinh tấn. Như vậy, Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật.
Thiện Hiện! Như thế nào là Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức tĩnh lự Ba la mật?
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát trụ trong định tất cả pháp bình đẳng, chẳng thấy các pháp có định có loạn mà thường tu tập tĩnh lự Ba la mật như thế, cũng khuyên hữu tình tu tập tĩnh lự bình đẳng như thế; cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng bỏ rời tĩnh lự như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y, ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình khiến tu tĩnh lự các pháp bình đẳng, cũng khuyên nhau tu tĩnh lự như thế. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Trụ trong định tất cả pháp bình đẳng, cũng khuyên hữu tình tu định như thế. Như vậy Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát tự mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật.
Thiện Hiện! Như thế nào là Bồ Tát tự mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng khiến mặc giáp bị đại công đức Bát nhã Ba la mật?
Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát trụ Bát nhã Ba la mật thẳm sâu vô hý luận, chẳng đắc các pháp hoặc sanh hoặc diệt, hoặc nhiễm hoặc tịnh, sai khác đây kia; cũng khuyên vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng an trụ huệ vô hý luận như thế. Đây là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm nhiều thứ các loại hữu tình; tự mình an trụ huệ vô hý luận, cũng khuyên người trụ huệ như thế. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Tự năng an trụ huệ vô hý luận, cũng khuyên hữu tình trụ huệ như thế. Như vậy Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát Ma ha tát mặc giáp bị công đức như trên đã nói, quan sát thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng thấy hữu tình, nhiếp thọ tà pháp, làm các ác hành. Bồ Tát này dùng sức thần thông tự biến bản thân đầy khắp thế giới chư Phật như thế, tùy hữu tình kia ưa muốn thị hiện, tự hiện tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Cũng khuyên người hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Khuyên các hữu tình hành hạnh này rồi lại tùy âm loại, nói pháp tướng tương ưng sáu thứ Ba la mật, khiến kia nghe rồi cho đến chứng được Nhất thiết trí trí thường chẳng rời diệu pháp như thế. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát Ma ha tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm các nhiều loại hữu tình, tự mình an trụ sáu pháp đến bờ kia, cũng khiến khuyên người an trụ pháp này. Ý ông nghĩ sao? Việc huyễn như thế là có thật chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Khắp thế giới chư Phật mười phương như cát sông Hằng tự hiện nơi thân tùy nghi an trụ sáu pháp đến bờ kia, cũng khuyên hữu tình khiến trụ hạnh này thường chẳng rời bỏ. Như vậy, Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu Bồ Tát mặc giáp các công đức như trên đã nói, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, lợi ích an vui tất cả hữu tình, chẳng tạp tác ý Thanh văn, Độc giác. Bồ Tát này chẳng khởi nghĩ đây: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi bố thí và cácBa la mật khác, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi sáu pháp Ba la mật.
Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi nội không cho đến vô tánh tự tánh không, ngần ấy hữu tình chẳng nên an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi tam giải thoát môn, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi tam giải thoát môn. Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi Phật mười lực cho đến 18 pháp Phật bất công, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi Phật mười lực cho đến 18 pháp Phật bất cộng. Chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi quả Dự lưu cho đến quả vị A la hán, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi quả Dự lưu cho đến quả vị A la hán.Cũng chẳng khởi nghĩ này: Ta phải an lập ngần ấy hữu tình nơi Phật Vô Thượng Bồ đề, ngần ấy hữu tình chẳng đáng an lập. Chỉ khởi nghĩ này: Ta phải an lập vô lượng vô số vô biên hữu tình nơi Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thiện Hiện! Đấy là Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa.
Thiện Hiện! Như huyễn sư hoặc học trò y ở giữa ngã tư đường, trước đại chúng hóa làm nhiều loại hữu tình, số ấy vô lượng. Tùy sở ưng phương tiện an lập khiến trụ bố thí, cho đến khiến trụ chư Phật Vô Thượng Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Các Bồ Tát cũng lại như thế. Đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, lấy đại bi làm đầu, dùng vô sở đắc mà làm phương tiện, an lập vô lượng vô số vô biên các loại hữu tình khiến trụ bố thí cho đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Như vậy Bồ Tát tuy có làm nhưng đều không thật. Vì sao? Vì tánh tướng các pháp đều như huyễn vậy.
(Tất cả pháp tự tướng không)
Bấy giờ, Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, các Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức(1), phải biết đấy là mặc giáp bị Đại thừa(2). Vì sao? Vì tất cả pháp tự tướng không vậy. Vì sao? Vì sắc cho đến thức, tướng sắc cho đến thức không. Nhãn xứ cho đến ý xứ, tướng nhãn xứ cho đến ý xứ không. Sắc xứ cho đến pháp xứ, tướng sắc xứ cho đến pháp xứ không. Nhãn giới cho đến ý giới, tướng nhãn giới cho đến ý giới không. Sắc giới cho đến pháp giới, tướng sắc giới cho đến pháp giới không. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới, tướng nhãn thức giới cho đến ý thức giới không. Nhãn xúc cho đến ý xúc, tướng nhãn xúc cho đến ý xúc không. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, tướng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không.
Bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật, tướng bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật không. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, tướng bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo không. Nội không cho đến vô tánh tự tánh không, tướng nội không cho đến vô tánh tự tánh không, không.Như vậy Phật mười lực cho đến mười tám Phật bất cộng, tướng Phật mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng không. Bồ Tát, tướng Bồ Tát không. Mặc giáp bị đại công đức, tướng mặc giáp bị đại công đức không.
Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên này, các Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức, phải biết đấy là mặc giáp bị Đại thừa.
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Như vậy! Như ngươi đã nói. Thiện Hiện phải biết: Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Các Bồ Tát vì việc đây nên mặc giáp bị Đại thừa.
(Nói về bất khả đắc, vô tạo vô tác)
Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên nào Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác? Vì việc này nên các Bồ Tát mặc giáp bị Đại thừa?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Người tạo tác(tác giả)bất khả đắc, nên Nhất thiết trí trí vô tạo vô tác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Vì sao? Vì sắc chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Thọ tưởng hành thức chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì sắc cho đến thức rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Thập nhị xứ, thập bát giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Thập bát giới chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Thập nhị xứ, thập bát giới rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Ngã chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì ngã cho đến kiến giả rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Cảnh mộng chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vang, tượng, việc huyễn, bóng sáng, ánh nắng, không hoa, thành tầm hương, việc biến hóa chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì cảnh mộng cho đến việc biến hóa rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Nội không chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán vô tán không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì nội không cho đến vô tánh tự tánh không rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến Như Lai mười lực chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Chơn như chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì chơn như cho đến thật tế rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Bồ Tát chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Vì Bồ Tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Nhất thiết trí chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí chẳng tạo chẳng phải chẳng tạo, chẳng tác cũng chẳng phải chẳng tác. Vì sao? Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí rốt ráo bất khả đắc vậy.
Thiện Hiện! Do nhân duyên đây Nhất thiết trí trí vô tạo vô ác, tất cả hữu tình cũng vô tạo vô tác. Các Bồ Tát Ma ha tát vì việc này nên mặc giáp bị Đại thừa. Thiện Hiện! Do nghĩa này nên các Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức. Phải biết đấy là mặc giáp bị Đại thừa.
(Nói về các pháp không buộc không mở ví như mộng, như hóa)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật nói, sắc không buộc không mở, thọ tưởng hành thức không buộc không mở.
Khi ấy, Mãn Từ Tử hỏi Thiện Hiện rằng:
- Tôn giả bảo rằng sắc không buộc không mở, thọ tưởng hành thức không buộc không mở chăng?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Tôi bảo sắc không buộc không mở, thọ tưởng hành thức không buộc không mở.
Mãn Từ Tử bảo:
- Những gì là sắc không buộc không mở? Những gì là thọ tưởng hành thức không buộc không mở?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Như mộng sắc không buộc không mở. Như mộng thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như việc huyễn, như không hoa, như thành tầm hương, như việc biến hóa sắc không buộc không mở. Như vang cho đến như việc biến hóa thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Quá khứ sắc không buộc không mở. Quá khứ thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vị lai hiện tại sắc không buộc không mở. Vị lai hiện tại thọ tưởng hành thức không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô diệt nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc thiện không buộc không mở. Thọ tưởng hành thức thiện không buộc không mở. Sắc bất thiện, vô ký không buộc không mở. Thọ tưởng hành thức bất thiên, vô ký không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô diệt nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc thế gian không buộc không mở, thọ tưởng hành thức thế gian không buộc không mở. Sắc xuất thế gian không buộc không mở, thọ tưởng hành thức xuất thế gian không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô diệt nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Sắc hữu lậu không buộc không mở, thọ tưởng hành thức hữu lậu không buộc không mở. Sắc vô lậu không buộc không mở, thọ tưởng hành thức vô lậu không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả sắc cho đến thức vô sở hữu nên không buộc không mở. Vì xa lìa nên không buộc không mở. Vì vắng lặng nên không buộc không mở. Vì vô sanh nên không buộc không mở. Vì vô diệt nên không buộc không mở. Vì vô nhiễm nên không buộc không mở. Vì vô tịnh nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả pháp không buộc không mở. Vì sao? Vì tất cả pháp vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bố thí Ba la mật không buộc không mở. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật không buộc không mở. Vì sao? Vì sáu pháp Ba la mật vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, nên vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nội không cho đến vô tánh tự tánh không, chơn như cho đến thật tế… không buộc không mở. Ba mươi bảy pháp trợ đạo cho đến Như Lai mười lực không buộc không mở. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng không buộc không mở. Vì sao? Vì nội không cho đến 18 pháp Phật bất cộng vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nhất thiết trí không buộc không mở. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Vì sao? Vì ba Thánh trí vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Bồ Tát không buộc không mở. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không buộc không mở. Vì sao? Vì Bồ Tát, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.
Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả hữu vi không buộc không mở, tất cả vô vi không buộc không mở. Vì sao? Vì hữu vi, vô vi vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát đối bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí không buộc không mở như thế, đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên siêng tu học.
(Đem vô sở hữu làm phương tiện mà tu hành Bát Nhã)
Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên trụ bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật; bốn niệm trụ cho đến Nhất thiết tướng trí không buộc không mở như thế.
Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát đem vô sở đắc mà làm phương tiện nên thành thục hữu tình không buộc không mở. Nên nghiêm tịnh cõi Phật không buộc không mở. Nên thân cận cúng dường chư Phật không buộc không mở. Nên nghe thọ pháp môn không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Bồ Tát này thường chẳng xa lìa chư Phật không buộc không mở, thường chẳng xa lìa thần thông không buộc không mở, thường chẳng xa lìa năm nhãn không buộc không mở, thường chẳng xa lìa các Đà la ni không buộc không mở, thường chẳng xa lìa các Tam ma địa không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Bồ Tát Ma ha tát này phải khởi Đạo tướng trí không buộc không mở. Phải chứng Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí không buộc không mở. Phải quay xe pháp không buộc không mở. Phải đem pháp yếu tam thừa không buộc không mở, an lập các loại hữu tình không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Nếu Bồ Tát tu hành sáu pháp Ba la mật không buộc không mở, năng chứng tất cả pháp tánh không buộc không mở. Vì vô sở hữu nên xa lìa, nên vắng lặng, nên vô sanh, nên vô diệt, nên vô nhiễm, vô tịnh, nên không buộc không mở.
Mãn Từ Tử! Phải biết Bồ Tát này được gọi kẻ mặc giáp bị Đại thừa không buộc không mở.
Thích nghĩa:
(1). Mặc giáp bị công đức: Kinh MHBNBLMĐ gọi là “đại thệ trang nghiêm” cũng gọi “hoằng thệ nguyện”: Thệ nguyện rộng lớn bao trùm khắp cả chúng sanh. Nguyện nghĩa của tiếng Phạm là mặc giáp lớn, tức là lập thệ nguyện rộng lớn cứu độ chúng sanh để thành tựu Vô thượng Bồ đề. Cụm từ đại thệ nguyện trang nghiêm diễn tả xác nghĩa và dễ hiểu hơn “mặc áo giáp lớn”. Thích nghĩa của cụm từ này đã giải thích trong phẩm “Ma Ha Tát”, nay lặp lại để nhớ.
(2). “Đại Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức, thì nên biết đó là mặc giáp bị Đại thừa”. Nguyên văn bản chữ Hán ĐBN là: “菩Bồ 薩Tát 摩Ma 訶Ha 薩Tát .不bất 擐hoàn 功công 德đức 鎧khải .當đương 知tri 是thị 為vi .擐hoàn 大Đại 乘Thừa 鎧khải”.
“Đại Bồ Tát chẳng mặc giáp bị công đức, thì nên biết đó là mặc giáp bị Đại thừa”. Cách dịch trên không có gì sai trái. Tuy nhiên, câu này có vẽ khó hiểu nếu so với lối dịch của Kinh MHBNBLMĐ: “Đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm”.
Đứng về phương diện chiết tự giải thích như thế. Nhưng đứng về nghĩa: “Đại Bồ Tát không đại trang nghiêm là đại trang nghiêm”, luận Đại Trí Độ giải thích rằng:
“Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Theo nghĩa mà con được nghe Phật nói thì chẳng trang nghiêm mới là đại trang nghiêm. Vì sao? Vì các pháp đều là tự tướng không.
Hỏi: Vì sao ngài Tu Bồ Đề lại hỏi Phật như vậy?
Đáp: Theo nghĩa Phật dạy thì “phát đại trang nghiêm” hàm súc ý nghĩa quá thậm thâm, khó biết khó giải, nên chúng sanh ở trong chúng hội khởi tâm nghi, khi nghe nói trang nghiêm là rốt ráo không. Họ dấy niệm nghĩ rằng việc dùng thần thông đi khắp mười phương thế giới là việc làm của chư Phật và chư Bồ Tát, họ chẳng làm sao có thể biết được.
Do biết rõ tâm niệm của chúng sanh trong chúng hội như vậy, nên ngài Tu Bồ Đề mới chỉ cho họ biết rằng nghĩa “đại trang nghiêm” chẳng phải quá thậm thâm, chẳng phải quá khó biết, khó giải. Ngài nói rằng vì “đại trang nghiêm” là tự tướng không, nên dễ thành, dễ được vậy.
Vì sao? Vì sắc,… dẫn đến thức chẳng có định tướng, nên là bất khả đắc, tứ niệm xứ,… dẫn đến thập bát bất cộng pháp chẳng có định tướng, nên là bất khả đắc, Vô Thượng Bồ Đề, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ Tát, Phật cũng chẳng có định tướng, nên đều là bất khả đắc cả.
Nếu có Bồ Tát biết rõ được các pháp đều là tự tướng không, đều là tịch diệt tướng mà chẳng sợ hãi, chẳng bỏ mất bản nguyện của mình, vẫn thường tinh tấn hành đạo, thì phải biết đó là vị Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm.
Vậy nên, phát đại thệ trang nghiêm chẳng phải là việc khó làm, khó được.
--o0o--
Phật ấn chứng lời nói của ngài Tu Bồ Đề, và dạy rằng: Đúng như vậy, đúng như vậy. Vì Nhất Thiết Chủng Trí chẳng phải là tác pháp (phi tác pháp), chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp, nên Bồ Tát vì chúng sanh phát đại thệ trang nghiêm. Vì sao? Vì tác giả là bất khả đắc, nên Nhất Thiết Chủng Trí cũng như chúng sanh đều chẳng phải là tác pháp. Hết thảy các pháp đều chẳng do ai làm ra (phi tác), và đều chẳng phải chẳng làm ra (phi bất tác), đều là như huyễn, như hóa, đều là bất khả đắc cả.
Bồ Tát vì chúng sanh phát đại thệ nguyện trang nghiêm. Nhưng Bồ Tát không, chúng sanh không, Nhất thiết chủng trí cũng không phải tác pháp. Không có tác giả, không có thọ giả, không có tác pháp. Tất cả đều bất khả đắc. Biết như vậy, nên không chấp. Nên Bồ Tát vẫn thành thục chúng sanh, trang nghiêm thanh tịnh Phật độ. Chẳng có gì để trang nghiêm, nhưng vẫn tu Đại thừa vẫn trang nghiêm Phật độ, nên gọi là đại trang nghiêm.
Sơ giải:
Có nắm bắt, có tung có hứng… là có thủ xả, có dính mắc, quái ngại. Có dính mắc, quái ngại nên có trói buộc, có trói buộc mới cần tháo gỡ. Suốt đời loanh quanh, hết buộc rồi gỡ, hết gỡ rồi buộc, tự mình làm rối mình, làm sao giải thoát? Các pháp tự nó bất động, trơ lì như gỗ đá, nên gọi là trì độn. Tất cả pháp vô sở hữu bất khả đắc, tự tánh xa lìa, tự tánh vắng lặng, vốn vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, trơ lì ra đó, làm gì có trói, có mở? Tự mình cảm thọ, tham ái… muốn thủ giữ nắm bắt hay buông bỏ tức chấp chặt mà bị trói. Vì vậy, nên có thể nói “có vọng cầu thì có vọng sanh”. Đó chính là triền phược, là hệ lụy!
Nếu biết như vậy, không dấy niệm, không thủ tâm chấp tướng tức không lay không chuyển, không hành thì không còn bị trói, tâm mới được an nhiên tịch lặng, nên nói là giải thoát! Nhưng giải thoát là giải thoát cái gì? Giải thoát đi đâu? Đó cũng chỉ là vô vi vô tác như như bất động, thì được an nhiên tự tại, chẳng có gì khác!
Vì vậy, trước khi giải thích pháp môn “không buộc không mở” Phật thuyết các pháp như huyễn như mộng, các pháp là trì độn trơ lì như gỗ đá, các pháp tự tánh vắng lặng xa lìa, vô nhiễm vô tịnh, các pháp là không, vô tác, bất khả đắc… nếu như vậy thì làm sao có phược có thoát được. Để quản diễn thêm ý này, Bồ Tát Long Thọ trong phẩm thứ 17, “Trang Nghiêm”, tập 3, quyển 46, Đại trí Độ Luận nói:
“Trong chúng hội, có người nghe Phật dạy rằng các pháp đều là như huyễn, như hóa, lại dấy niệm nghĩ rằng: Thập bát không nhằm phá các pháp tướng là có thật dụng. Như vậy vì sao lại nói các pháp đều chẳng được làm ra, là phi tác?
Phật dạy: Nội không,… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp v.v... đều là vô sở tác cả. Vậy nên biết rằng thập bát không cũng là hư dối, chẳng thật có, là vô sở tác vậy.
Dẫn đến pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế đều là chân thật pháp, nhưng bản thể vốn là vô tác.
Tùy theo nghiệp nhân duyên mà trở thành hữu tác, thành ra có pháp hữu vị; mỗi mỗi đều do cộng nhân mà có vậy. Còn pháp vô vi là do đối đãi với pháp hữu vi mà có.
Bởi nhân duyên như vậy, nên Phật nói pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế cũng đều là vô sở tác, đều là rốt ráo bất khả đắc. Dẫn đến Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ Tát, Phật cũng đều là như vậy.
--o0o--
Lại nữa, các pháp đều là vô phược, vô thoát; mà chúng sanh chấp các pháp tướng nên ở nơi khổ xứ khó giải thoát, mới nghĩ rằng: Phật pháp rất khó làm, rất khó được.
Ngài Tu Bồ Đề thấu rõ tâm niệm của chúng sanh nên bạch Phật: Theo nghĩa mà con nghe được Phật nói, thì ngũ ấm là vô phược, vô thoát, là rốt ráo không, là bất khả đắc. Như vậy chẳng có tác giả, nên chẳng có trói buộc (vô phược) chẳng có cởi mở (vô thoát).
Phật dạy: Phàm phu chấp các pháp mà chẳng biết các pháp đều là hư dối, là bất khả đắc, là vô phược, vô thoát. Còn các bậc Thánh, thấy rõ các pháp đều là rốt ráo không, đều là vô phược, vô thoát. Bồ Tát thấy rõ ngũ ấm cùng các pháp thiện, bất thiện, vô ký trong 3 đời đều là như mộng, như huyễn, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc. Dẫn đến như pháp tánh, thật tế cũng như vậy.
Bồ Tát biết rõ các pháp đều là tự tánh ly, tự tánh tịch diệt, tự tánh bất sanh, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc, nên được vô phược, vô thoát.
Bồ Tát trú nơi Trung Đạo, dẫn dắt chúng sanh thoát ly phiền não, nên nói là vô phược, vô thoát, lại chẳng dùng vô lậu để phá các pháp tướng nên nói là vô thoát.
Bồ Tát giáo hóa chúng sanh, tịnh Phật độ quốc, dẫn đến được đầy đủ các thần thông, đầy đủ năm nhãn, các đà la ni và các tam muội mà vẫn chẳng rời Phật, an lạc chúng sanh trong tam thừa đạo, mà vẫn vô phược, vô thoát. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh, là rốt ráo không vậy.
Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm, với đầy đủ các nhân duyên như vậy, nên được vô phược, vô thoát./.
---o0o---