Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

70. Phẩm "Thân Cận" Hay "Gần Gũi"

08/09/202009:59(Xem: 10644)
70. Phẩm "Thân Cận" Hay "Gần Gũi"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-464

 

PHẨM "THÂN CẬN" hay "GẦN GŨI"

Phần giữa quyển 464, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phần sau phẩm “Khéo Tiện Hành”, quyển 365

cho đến cuối quyển 366, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát chẳng gần gũi chư Phật, chẳng viên mãn căn lành, chẳng vâng thờ bạn lành, đại Bồ Tát này đâu có thể được Nhất thiết trí trí?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu chẳng thường gần gũi chư Phật viên mãn căn lành, vâng thờ bạn lành thời chẳng được gọi tên là đại Bồ Tát, huống chi có thể chứng Nhất thiết trí trí. Vì sao? Hoặc có đại Bồ Tát gần gũi chư Phật, trồng thiện căn, vâng thờ bạn lành, hãy chẳng thể chứng Nhất thiết trí trí, huống chẳng thường gần gũi chư Phật viên mãn thiện căn, vâng thờ bạn lành mà có thể chứng được Nhất thiết trí trí, điều này không thể có.

Vậy nên, Thiện Hiện! nếu Bồ Tát muốn xưng danh đại Bồ Tát, muốn mau chứng được Nhất thiết trí trí, thời nên gần gũi chư Phật Thế Tôn, viên mãn thiện căn, vâng thờ bạn lành chớ sanh nhàm mỏi.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Có khi nào đại Bồ Tát gần gũi chư Phật, trồng các thiện căn, vâng thờ bạn lành mà chẳng được Nhất thiết trí trí không?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát kia xa lìa sức phương tiện thiện xảo, nên dù gần gũi chư Phật, trồng các thiện căn, vâng thờ bạn lành nên chẳng năng được Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa Phật rằng:

- Những gì gọi là phương tiện thiện xảo, các đại Bồ Tát phải thành tựu, mới có thể chứng được Nhất thiết trí trí?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát từ sơ phát tâm, khi tu hành bố thí Ba la mật, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, hoặc cúng dường chư Phật hoặc cúng dường Bồ Tát hoặc Độc giác, Thanh văn, các Sa môn Phạm chí khác hoặc bố thí cho ngoại đạo kẻ tu phạm hạnh hoặc bố thí cho kẻ bần cùng, người lỡ đường, người tu khổ hạnh và kẻ đến xin hoặc bố thí cho tất cả người chẳng phải người v.v…

Đại Bồ Tát này trọn nên tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí như thế, dù hành bố thí mà không tưởng thí, không tưởng kẻ nhận, cũng không tưởng ngã, ngã sở. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tất cả pháp tự tướng đều không, không thật không thành, không chuyển không diệt, thể nhập vào các pháp, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này trọn nên phương tiện thiện xảo như thế, hằng thời tăng trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây thường tăng trưởng, nên thường hành bố thí Ba la mật thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Dù hành bố thí mà chẳng mong cầu được quả thí là chẳng mong hưởng cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp. Chỉ vì cứu hộ kẻ không được cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, tu hành bố thí Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành tịnh giới Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để thọ trì tịnh giới, tâm thường không gây những trói buộc phiền não như tham, sân, si v.v..., tâm cũng không tạo các pháp bất thiện khác có thể làm chướng ngại Bồ đề, như là keo kiệt, ác giới, giận hờn, giải đãi, tâm hèn hạ, tâm tán loạn, tà kiến, mạn, quá mạn, ngã mạn, tăng thượng mạn, ti mạn, tà mạn, tác ý tương ưng với Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng của tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn này thường tăng trưởng nên có thể thực hành tịnh giới Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành tịnh giới, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của việc giữ giới, cũng không muốn hưởng cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành tịnh giới Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành an nhẫn Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí làm phương tiện để tu học an nhẫn, cho đến để bảo vệ tánh mình, đại Bồ Tát này cũng không phát sanh một niệm giận hờn, một lời nói ác, hay một tâm oán hận báo thù. Giả sử có một người muốn đến hại mạng mình, cướp đoạt của cải, xâm chiếm vợ con, nhà cửa, vu khống mạ nhục, chia rẻ, khinh khi, hoặc đánh, hoặc đâm, hoặc cắt, hoặc chặt và gây ra đủ thứ tai hại khác thì vị ấy hoàn toàn không giận hờn hữu tình đó. Chỉ cầu mong làm cho người kia được lợi ích an lạc. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng của tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn thường tăng trưởng nên vị ấy có thể thực hành an nhẫn Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành an nhẫn, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của việc an nhẫn, nghĩa là không hồi hướng đến cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành an nhẫn Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành tinh tấn Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí, phát tâm siêng năng dõng mãnh một cách chân chính không khiếp sợ, xa lìa tâm giải đãi, hèn yếu. Vì cầu Bồ đề, vị ấy không sợ các khổ, không phế bỏ việc tu tập các pháp lành. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng của tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn này thường tăng trưởng nên có thể thực hành tinh tấn Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành tinh tấn, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của việc tinh tấn, cũng không mong hưởng cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành tinh tấn Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành tịnh lự Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu học các định. Khi mắt thấy các sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm giác xúc chạm, ý phân biệt các pháp, đại Bồ Tát này không nắm giữ các tướng, không nắm bắt những thứ ưa thích. Tức là giữ gìn các căn ngay nơi đối tượng ấy, không sống phóng dật, không cho phát sanh các pháp ác ở thế gian như tham ái và các phiền não, chuyên tu niệm định để giữ gìn các căn. Đại Bồ Tát này hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc nói năng, hoặc im lặng thường không xa lìa định thù thắng, xa lìa các pháp dơ bẩn, thân tâm yên tịnh, không trái oai nghi phép tắc, hành động đều đoan chánh, tâm thường ổn định, không sanh phân biệt. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn này thường tăng trưởng nên có thể thực hành tịnh lự Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành tịnh lự, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của việc thiền định, cũng không muốn hưởng cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành tịnh lự Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí tu học diệu huệ. Đại Bồ Tát này lìa các ác tuệ, tâm không bị kẻ khác gây chấp ngã và ngã sở, xa lìa tất cả cái thấy của ngã, cái thấy của hữu tình, cho đến cái thấy của người biết, người thấy, cái thấy của cái có hoặc không, và các cảnh giới ác kiến, xa lìa sự kiêu mạn, không có phân biệt, làm phát sanh đủ loại căn lành thù thắng. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn này tăng trưởng nên có thể thực hành Bát Nhã, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành Bát Nhã, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của trí tuệ, cũng không mong mỏi cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát từ sơ phát tâm khi tu hành Bát Nhã, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí nhập vào bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Đại Bồ Tát này dù đối tĩnh lự, vô lượng, vô sắc vào ra tự tại mà chẳng nhiếp thọ quả dị thục kia. Vì sao? đại Bồ Tát này trọn nên phương tiện thiện xảo thù thắng, quán các tĩnh lự, vô lượng, vô sắc tự tướng đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này trọn nên phương tiện thiện xảo như thế, hằng thời tăng trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây tăng trưởng nên năng hành tĩnh lự, vô lượng, vô sắc. Do hành tĩnh lự, vô lượng, vô sắc bèn được tự thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát từ sơ phát tâm, khi tu hành Bát Nhã, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí tu học tất cả Bồ đề phần pháp trọn nên phương tiện thiện xảo như vậy, tuy thực hành pháp đoạn trừ phiền não, nhờ kiến đạo hoặc tu đạo nhưng không nắm giữ quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Vì sao? Đại Bồ Tát này quán tất cả tự tướng đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này trọn nên phương tiện thiện xảo thù thắng, hằng thời tăng trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây tăng trưởng nên thường hành tất cả Bồ đề phần pháp, vượt các Thanh văn bậc Độc giác… vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đấy gọi Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn. Do nhẫn đây nên thường được tự tại thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, tuy được tự tại thuận nghịch vào ra tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ v.v… mà năng trọn nên được phuơng tiện thiện xảo như vậy, nhưng chẳng lấy quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tất cả pháp tự tướng đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này trọn nên phương tiện thiện xảo thù thắng, hằng thời tăng trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây tăng trưởng nên năng tự tại thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, chứng vào bậc Bồ Tát Bất thối chuyển được nhận ký.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đem tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí tinh tấn tu hành Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cùng vô lượng vô biên công đức chư Phật, cho đến chưa đủ thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, vẫn chưa chứng được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Đại Bồ Tát này quán tất cả pháp tự tướng đều không, không thành không thật, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này trọn nên phương tiện thiện xảo thù thắng, hằng thời tăng trưởng giác phần thiện căn. Do thiện căn đây tăng trưởng, nên năng viên mãn thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, lần hồi chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện! Như vậy gọi là phương tiện thiện xảo. Đại Bồ Tát nào thành tựu phương tiện thiện xảo này thì có làm việc gì cũng chắc chắn chứng đắc Nhất thiết trí trí. Phương tiện thiện xảo thù thắng như vậy đều do Bát Nhã mà được thành tựu. Vì vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu, và có làm điều gì cũng chẳng mong cầu phước báo. Ai có thể siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu như vậy thì có thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.

 

Sơ lược:

 

Mở đầu cho phẩm thứ 73, “Chủng Thiện Căn”(Gieo Trồng Căn Lành), tập 5, quyển 85, Đại Trí Độ Luận nói:

“Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bồ Tát vì thiện căn mà hành Bát Nhã Ba La Mật chăng?

Phật dạy: Chẳng phải vì thiện căn, cũng chẳng phải chẳng vì thiện căn mà Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi: Nếu chẳng vì bất thiện căn mà hành Bát Nhã Ba La Mật, thì còn hợp lý. Vì sao nói chẳng phải vì thiện căn mà hành Bát Nhã Ba La Mật?

Đáp: Vì quý Vô Thượng Bồ Đề mà Phật đáp như vậy. Hành thiện căn chỉ là phương tiện để làm các thiện hạnh mà thôi. Như trong kinh có nói, “Thiện pháp còn xả huống nữa là phi pháp”. Vì sao? Vì thiện căn chỉ là trợ đạo pháp, đưa hành giả đến Vô Thượng Bồ Đề, ví như người muốn qua sông phải mượn bè để qua bờ bên kia vậy.

Phật lại nói nhân duyên Bồ Tát chưa cúng dường chư Phật, chưa thân cận chư thiện tri thức, thì chẳng thể được Nhất thiết chủng trí. Dù có trồng thiện căn, nhưng đó chẳng phải là quý, chỉ có Vô Thượng Bồ Đề mới là quý.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bồ Tát cúng dường chư Phật, thân cận chư thiện trí thức như thế nào, mới được Nhất thiết chủng trí?

Phật dạy: Bồ Tát từ sơ phát tâm đã cúng dường chư Phật, đã thân cận chư thiện tri thức, thường nghe chư Phật thuyết 12 bộ kinh; khi nghe xong liền thọ trì, đọc tụng, tư duy, quán chiếu rõ ràng, nên được căn trí càng thêm lanh lợi. Do liễu nghĩa, nên được các Đà la ni. Do được các Đà la ni, mà nghe rồi chẳng có quên sót, được bốn vô ngại trí, vì chúng sanh thuyết pháp, làm lợi ích cho chúng sanh”.

Người được các thiện căn hộ trì thường chẳng ly chư Phật, chư Bồ Tát, chư A La Hán là những bậc chân thiện tri thức; lại thường tán thán ba ngôi Tam Bảo.

Cho nên, Phật dạy, “Bồ Tát phải thường cúng dường chư Phật, gieo trồng thiện căn, thân cận chư thiện tri thức”.

Nhưng phải tu tất các sáu pháp Ba la mật cùng tất cả pháp mầu Phật đạo, tích tụ thiện căn công đức rồi tùy hỷ ban cho tất cả chúng sanh hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Có quý trọng quả vị Bồ đề thì mới được Vô Thượng Bồ đề, cũng như có quý trọng thầy mới được làm thầy.

Toàn phẩm này là các lời khuyên gần gũi, chân thực nhất mà chúng ta cần nhớ, thí dụ như tu một pháp là Tịnh lự Ba la mật chẳng hạn:

“Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào từ lúc mới phát tâm tu hành tịnh lự Ba la mật, dùng tác ý tương ưng với Nhất thiết trí trí để tu học các định. Khi mắt thấy các sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm giác xúc chạm, ý phân biệt các pháp, đại Bồ Tát này không nắm giữ các tướng, không nắm bắt những thứ ưa thích. Tức là giữ gìn các căn ngay nơi đối tượng ấy, không sống phóng dật, không cho phát sanh các pháp ác ở thế gian như tham ái và các phiền não, chuyên tu niệm định để giữ gìn các căn. Đại Bồ Tát này hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc nói năng, hoặc im lặng thường không xa lìa định thù thắng, xa lìa các pháp dơ bẩn, thân tâm yên tịnh, không trái oai nghi phép tắc, hành động đều đoan chánh, tâm thường ổn định, không sanh phân biệt. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này quán tự tướng tất cả pháp đều không, không thật, không thành, không chuyển, không diệt, nhập vào các pháp tướng, biết tất cả các pháp vô tác, vô năng, nhập vào các hành tướng. Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thường tăng trưởng giác phần thiện căn. Nhờ thiện căn này thường tăng trưởng nên có thể thực hành tịnh lự Ba la mật, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật. Tuy thực hành tịnh lự, nhưng vị ấy không mong cầu phước báo của việc thiền định, cũng không muốn hưởng cảnh giới đáng yêu và nơi sanh tốt đẹp, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát những ai chưa được giải thoát, nên vị ấy tu hành tịnh lự Ba la mật”.

Kinh giải thích quá rõ: “Khi mắt thấy các sắc, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân cảm giác xúc chạm, ý phân biệt các pháp, đại Bồ Tát này không nắm giữ các tướng, không nắm bắt những thứ ưa thích”. Điều đó có nghĩa khi căn tiếp xúc với trần cảnh mà tâm như như bất động, thì cảnh là cảnh, tâm là tâm chẳng có liên hệ gì. Nhưng nếu tâm theo vọng trần nắm giữ lấy tướng, sanh ra động niệm, nên nói là mất tâm. Chỗ này Phật thuyết cả trăm lần. Vậy, nếu không muốn hợp trần bội giác, thì sáu thời phải nhiếp tâm, phòng hộ thân căn, chăm lo tịnh niệm.

Không những tu thiền mà tu tất cả các Ba la mật khác nhất là Bát nhã Ba la mật, thì có cơ hội an định tâm, được tịnh hạnh. Nên trong nhiều kiếp sẽ được thân cận hay gần gũi chư Phật, tích tụ thiện căn công đức, viên mãn các pháp mầu Phật đạo. Rồi có thể tự độ mình cũng có thể độ người, đó là thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, mới có thể đạt Nhất thiết trí trí.

Nên Phật bảo:

“Thiện Hiện! Như vậy gọi là phương tiện thiện xảo. Đại Bồ Tát nào thành tựu phương tiện thiện xảo này thì có làm việc gì cũng chắc chắn chứng đắc Nhất thiết trí trí. Phương tiện thiện xảo thù thắng như vậy đều do Bát Nhã mà được thành tựu. Vì vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên siêng tu học Bát Nhã thẳm sâu, và có làm điều gì cũng chẳng mong cầu phước báo. Ai có thể siêng năng tu học Bát Nhã thẳm sâu như vậy thì có thể mau chứng đắc Nhất thiết trí trí”.

Các phẩm trước Kinh nói rằng Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh cùng tất cả các pháp mầu Phật đạo đều là Thiện tri thức của tất cả hữu tình và phẩm này cũng khuyên tất cả chúng sanh cần phải gần gũi thân cận các ngài nếu muốn có đầy đủ thiện căn công đức mau chứng Nhất thiết trí trí./.

 

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com