Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

07. Phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

29/04/202012:17(Xem: 10249)
07. Phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” (Tổng Luận Kinh Đại Bát Nhã; Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng)

 

TỔNG LUẬN 

KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thin Bu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
Buddha-325

PHẨM “DẠY BẢO TRAO TRUYỀN”

Quyển 11 đến đầu quyển 36, Hội thứ I, ĐBN.

(Tương đương với phẩm “Tam Giả” quyển thứ 02, MHBNBLM)


Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Phật tử Hoàng Lan Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Jordan Lê Quảng Thiện Hùng



 

 

Gợi ý:

Phẩm này trong ĐBN tổng cộng có cả thảy gần 26 quyển, trước nói về Tam giả, sau nói tất cả pháp đều không: Thí dụ khi nói về chủ đề giả danh, thì từng pháp, từng pháp một trong Phật pháp hay gọi là các thiện pháp… xoay quanh chủ đề giả danh. Thí như sắc, chỉ là giả danh. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ do tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là sắc. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức, cũng chỉ là giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ do tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là thọ, tưởng, hành, thức. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được. Kế đến nói tới từng xứ một cho đến hết 12 xứ, rồi nói đến từng giới một cho đến hết 18 giới, cũng chỉ là giả danh, các pháp giả danh này chẳng sanh chẳng diệt v.v… Rồi nói đến tứ thiền, tứ vô lượng, tứ vô sắc định, ba mươi bảy pháp trợ đạo. Kinh tiếp tục nói Tam ma địa không, vô tướng, vô nguyện, hoặc tám giải thoát, hoặc tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, hoặc đề cập đến lục Ba la mật, hoặc nói về tứ thánh đế, hoặc nói về thập bát không, hoặc nói đến thập nhị chơn như, hoặc nói về các Đà la ni, Tam ma địa môn, hoặc nói về thập địa Bồ Tát, hoặc nói đến năm nhãn, sáu thần thông, hoặc Như Lai mười lực, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, hoặc nói đến pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí, hoặc nói về ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tướng tùy hảo, hoặc quả Dự lưu; Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, hoặc nói về Bồ Tát hạnh hay quả vị Giác ngộ tối cao. Tất cả Phật pháp nói trên, từng pháp một, cũng chỉ là giả danh, giả pháp. Pháp ấy đã là giả, nên chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ do tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, gọi đó là Phật pháp. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh này, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được.

Chủ đề giả danh xoay quanh từng pháp một cho đến hết tất cả pháp mầu Phật đạo liệt kê trên, tổng cộng hơn bảy quyển trong số 26 quyển thuộc phẩm này. Như vậy, thật quá dài đối với khuôn khổ của một bản tóm lược!

 

Nhưng chưa hết, kế đến phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” thuyết tiếp: Các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, không nên quán sắc hoặc thường hoặc vô thường; không nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc thường hoặc vô thường; không nên quán sắc, hoặc vui hoặc khổ; không nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc vui hoặc khổ; không nên quán sắc, hoặc ngã hoặc vô ngã; không nên quán thọ, tưởng, hành, thức, hoặc ngã hoặc vô ngã; không quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức hoặc tịnh hoặc chẳng tịnh, hoặc không hoặc bất không, hoặc có tướng hoặc vô tướng, hoặc có nguyện hoặc vô nguyện, hoặc tịch tịnh hoặc chẳng tịch tịnh, hoặc viễn ly hoặc chẳng viễn ly, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc sanh hoặc diệt, hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc có tội hoặc vô tội, hoặc có phiền não hoặc không phiền não, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc thuộc sanh tử, hoặc thuộc Niết bàn, hoặc ở trong, hoặc ở ngoài, hoặc ở giữa hai, hoặc có thể nắm bắt được, hoặc chẳng thể nắm bắt được.

Phẩm này khuyên tiếp: Không nên quán căn, trần, xứ, giới… từng pháp một cho đến quả vị Giác ngộ tối cao cũng như vậy. Chỉ riêng “không nên quán” tất cả Phật pháp như thế mà kinh thuyết tổng cộng thêm 11 quyển nữa. Thật trùng tụng quá nhiều, vượt quá khuôn khổ của một bản tóm lược!

 

Tiếp theo là các câu hỏi của Phật và câu trả lời của Thiện Hiện: Sắc có phải là Bồ Tát không? Thọ tưởng hành thức có phải là Bồ Tát không? Từng pháp một từ căn, trần, xứ, giới… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao có phải là Bồ Tát không? Tất cả cái danh thường, vô thường, khổ hay lạc, ngã hay vô ngã… cho đến cái danh khả đắc hay bất khả đắc của các pháp từ uẩn, xứ, giới… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, có phải là Bồ Tát không? Tất cả câu hỏi ấy được trả lời là không, kéo dài hết thảy thêm 8 quyển nữa. Tổng cộng, phẩm này có đến 26 quyển.

 

Để tóm lược và để tránh sự trùng tụng trên, nên chúng tôi quyết định trích dẫn nguyên văn phẩm “Tam Giả” của Kinh MHBNBLMĐ để thay thế cho phần tóm lược của chúng tôi. Lý do là những điều Phật nói trong phẩm “Tam Giả” của Kinh MHBNBLMĐ cũng đầy đủ như phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” của Kinh ĐBN, nhưng ngắn gọn hơn (phẩm “Tam Giả” của Kinh MHBNBLMĐ do Ngài La Thập dịch chỉ khoảng 3 trang đánh máy, trong khi phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” của Kinh ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch, tổng cộng 26 quyển, hơn 269 trang đánh máy). Kinh MHBNBLMĐ cũng được xem là Đại bản như Kinh ĐBN, do Phật thuyết ở Hội thứ II. Nội dung của hai kinh là một, chỉ khác là Kinh ĐBN triển khai và trùng tụng quá nhiều, nên dài hơn Kinh MHBNBLMĐ.

Nếu quý vị độc giả không đồng ý với lối tóm lược này, quý vị có thể đọc nguyên văn phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” của Kinh ĐBN do Ngài Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán và HT. Thích Trí Nghiêm dịch từ Hán sang Việt trong hai websites Tuvienquangduc.com hay Thuvienhoasen.org. Chúng tôi lúc nào cũng khuyên độc giả nên để bên cạnh “nguyên văn” bản Kinh ĐBN cho tiện việc so chiếu, để lấy thêm xác tín! Chúng tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc sắp xếp (trình bày) này. Tu là mở rộng tâm hồn, không nên quá câu chấp! Cứ đọc và so chiếu như trong phần gợi ý này, để có thêm tin tưởng. Đã có nghi tình thì khó học, khó tu!

Chúng tôi đã đọc cả hai kinh, không phải một lần mà cả chục lần mới “đẻ” ra ý kiến này. Nếu trình bày trọn 26 quyển, tổng cộng 269 trang đánh máy khổ lớn chỉ cho một phẩm duy nhất như phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền”, có lẽ không ai có đủ can đảm đọc hết!

Tụng tiếp quý vị sẽ thấy có nhiều phẩm còn dài hơn phẩm này như phẩm “So Lường Công Đức” bắt đầu từ giữa quyển 103 cho đến đầu quyển 168, tổng cộng 66 quyển, hết 622 trang đánh máy khổ lớn, hơn hai lần phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền”(1). Nếu không tóm gọn thì không có thiên Tổng luận này. Có lẽ vì vậy, mà từ xưa đến nay không có ai luận giải toàn bộ kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật - Hệ Bát Nhã trong Đại Tạng Kinh Việt Nam tổng cộng có 41 bộ kinh chia làm 777 quyển, trong đó có 600 quyển thuộc ĐBN rồi.

 

 

Đây là nguyên văn phẩm “Tam giả”(2)

của Kinh MHBNBLMĐ:

 

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Ông nên dạy chư đại Bồ Tát về Bát nhã Ba la mật đúng như chư đại Bồ Tát đáng phải thành tựu”.

Liền đó toàn thể chúng hội Bồ Tát, Thanh Văn, chư Nhơn, Thiên đều nghĩ rằng không biết Ngài Tu Bồ Đề(3) sẽ tự dùng trí tuệ của mình hay là nương thần lực của đức Phật giảng thuyết Bát nhã Ba la mật cho chư đại Bồ Tát?

Biết ý nghĩ của chúng hội, Ngài Tu Bồ Đề nói với Ngài Xá Lợi Phất:

“Phàm hàng Thanh Văn đệ tử có thuyết pháp, các giáo thọ(4) đều là nương thần lực của đức Phật cả”.

Lời của Phật giảng dạy chẳng trái với pháp tướng, như ngọn đèn sáng. Các thiện nam tử tu học theo pháp ấy được chứng pháp ấy.

Hàng Thanh Văn và Bích Chi Phật thật không có khả năng giảng thuyết Bát nhã Ba la mật cho chư đại Bồ Tát.

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch đức Thế Tôn! Chư Bồ Tát đã nói đó, pháp gì gọi là Bồ Tát?

Chúng con chẳng thấy pháp nào chính xác gọi là Bồ Tát, thời thế nào dạy Bồ Tát về Bát nhã Ba la mật?

Đức Phật nói: Nầy Tu Bồ Đề! thật ra chỉ có danh tự gọi là Bát nhã Ba la mật. Bồ Tát cùng tên Bồ Tát cũng chỉ có danh tự mà thôi. Danh tự nầy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa (danh giả).

Nầy Tu Bồ Đề! Ví như nói ngã, chúng sanh, thọ giả, mạng giả, sanh giả, tri giả, kiến giả, tác giả, khởi giả, đều là những pháp do hòa hiệp mà có. Những tên gọi đây vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói (đó là nói về thọ giả).

Cũng vậy Bát nhã Ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát đều do hòa hiệp mà có, cũng vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói (đó là nói về pháp giả).

Ví như thân thể do hòa hiệp mà có, sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng do hòa hiệp mà có, đều là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói. Bát nhã Ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy.

Nầy Tu Bồ Đề! Ví như nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; nhãn giới, nhĩ giới nhẫn đến ý thức giới, tất cả thập nhị xứ cùng thập bát giới ấy, đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói. Những thứ ấy chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa.    

Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa.

Nầy Tu Bồ Đề! Ví như nội thân gọi là đầu, cổ, vai, cánh, lưng, hông, vế, chân; ngoại vật gọi là cỏ, cây, nhánh, lá, cọng, mắt, đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa.

Bát nhã Ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy, đều do hòa hiệp mà có, vốn là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự thế gian để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa.

Nầy Tu Bồ Đề! Ví như danh hiệu của chư Phật quá khứ do hòa hiệp mà có, cũng là bất sanh, bất diệt, chỉ dùng danh tự để nói, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa. Bát nhã Ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy (đó là nói về danh giả).

Ví như bóng vang, mộng ảo, diệm hóa đều do hòa hiệp mà có, chỉ dùng danh tự để nói, những thứ ấy cùng danh tự vốn là bất sanh, bất diệt, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải giữa. Bát nhã Ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát cũng như vậy, đều do hòa hiệp mà có, là bất sanh, bất diệt, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa.

Nầy Tu Bồ Đề! Phải học tập như vầy: Đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã, danh tự của Bát Nhã cùng sự nhẫn thọ Bát Nhã và chính pháp Bát nhã Ba la mật đều là giả thi thiết(4) cả.

Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát chẳng thấy danh tự sắc, cùng chẳng thấy danh tự thọ, tưởng, hành, thức là thường, là vô thường, là khổ, là lạc, là ngã, là vô ngã, là cấu, là tịnh, cũng chẳng thấy danh tự năm uẩn nầy là không, là vô tướng, là vô tác, là tịch diệt, là sanh, là diệt, là ở trong, ở ngoài hay ở giữa.

Như năm uẩn, nhãn căn, sắc trần, nhãn thức, nhãn xúc sanh ra những cảm thọ, nhẫn đến ý căn, pháp trần, ý thức, ý xúc cùng nhơn duyên của ý xúc sanh ra những cảm thọ cũng vậy. Đại Bồ Tát đều chẳng thấy là thường, là vô thường nhẫn đến chẳng thấy ở trung gian.

Tại sao? Vì lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát ở trong tánh hữu vi, trong tánh vô vi đều không thấy Bát nhã Ba la mật cùng Bồ Tát và tên Bồ Tát. Đối với những pháp này, đại Bồ Tát chẳng móng niệm phân biệt.

Thực hành Bát Nhã, đại Bồ Tát nầy an trụ trong bất hoại pháp, lúc tu tứ niệm xứ cho đến lúc tu mười tám pháp bất cộng, chẳng thấy Bát Nhã cùng danh tự của Bát Nhã chẳng thấy Bồ Tát cùng danh tự của Bồ Tát.

Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát chỉ biết thật tướng của các pháp. Thật tướng nầy là chẳng cấu, chẳng tịnh.

Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật đại Bồ Tát phải biết danh tự là giả thi thiết. Đã biết danh tự là giả thi thiết rồi thời chẳng chấp trước nơi sắc, thọ tưởng, hành, thức (ngũ uẩn), chẳng chấp trước nơi nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (12 xứ), chẳng chấp trước nơi nhãn giới đến ý thức giới (18 giới), chẳng chấp trước nơi nhãn xúc cùng nhơn duyên của xúc đến ý xúc cùng nhơn duyên của ý xúc sanh ra sự cảm thọ hoặc khổ, hoặc lạc, hoặc bất khổ, bất lạc, chẳng chấp trước tánh hữu vi, tánh vô vi, chẳng chấp trước Đàn na (bố thí), Thi la (trì giới), Sằn đề (an nhẫn), Tỳ lê gia (tinh tiến), Thiền na và Bát nhã Ba la mật, chẳng chấp trước ba mươi hai tướng, chẳng chấp trước thân Bồ Tát, chẳng chấp trước nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn, chấp trước trí Ba la mật, thần thông Ba la mật, chẳng chấp trước nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không, chẳng chấp trước thành tựu chúng sanh, chẳng chấp trước thanh tịnh Phật độ, chẳng chấp trước pháp phương tiện (tất cả gộp lại gọi là Phật pháp).

Tại sao vậy? Vì những pháp nầy đều là rỗng không nên chẳng có người chấp trước, chẳng có pháp bị chấp trước, chẳng có chỗ chấp trước.

Lúc thực hành Bát nhã Ba la mật, đại Bồ Tát chẳng chấp trước tất cả pháp bèn tăng ích sáu Ba la mật lên bậc Bồ Tát bất thối chuyển, đủ đại thần thông từ Phật độ nầy đến Phật độ kia để cúng dường chư Phật, độ thoát chúng sanh, thanh tịnh Phật quốc, cũng để nghe chư Phật thuyết pháp. Nghe xong nhớ mãi đến lúc thành Vô thượng Bồ đề vẫn chẳng quên, được những môn Đà la ni cùng những môn Tam muội.

Thế nên đại Bồ Tát lúc thực hành Bát nhã Ba la mật phải biết rõ các pháp danh tự là giả thi thiết.

Này Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Nầy Tu Bồ Đề! Địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng, không chủng, thức chủng có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Vô minh, hành thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão, tử có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Như như tướng của ngũ uẩn nhẫn đến như như tướng của thập nhị nhơn duyên có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Rời ngoài như như tướng ấy có phải là Bồ Tát chăng?

- Không phải. Bạch đức Thế Tôn!

Này Tu Bồ Đề! Ông thấy nghĩa gì mà cho rằng tất cả những pháp kể trên và ly những pháp ấy không phải là Bồ Tát như vậy?

Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là Bồ Tát. Sắc còn bất khả đắc huống là sắc hay lìa sắc là Bồ Tát, huống là như như tướng của sắc hay lìa như như tướng của sắc là Bồ Tát. Nhẫn đến thập nhị nhơn duyên hay lìa thập nhị nhơn duyên là Bồ Tát, huống là như như tướng hay lìa như như tướng của thập nhị nhơn duyên là Bồ Tát.

Lành thay, lành thay! Đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Vì đại Bồ Tát và chúng sanh bất khả đắc nên Bát nhã Ba la mật cũng bất khả đắc. Cần phải học như vậy.

Này Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức có phải là nghĩa của Bồ Tát chăng?

- Bạch đức Thế Tôn! Không phải.

Này Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức thường vô thường, lạc, khổ, ngã vô ngã có phải là nghĩa của Bồ Tát chăng?

- Bạch đức Thế Tôn! Không phải.

Này Tu Bồ Đề! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không phi không, tướng Vô tướng, tác vô tác có phải là nghĩa của Bồ Tát chăng? Nhẫn đến lão, tử cũng như vậy.

- Bạch đức Thế Tôn! Không phải.

Này Tu Bồ Đề! Ông thấy những nghĩa gì mà cho rằng ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên không phải nghĩa của Bồ Tát, ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên, thường vô thường nhẫn đến tác vô tác đều không phải nghĩa của Bồ Tát?

- Bạch đức Thế Tôn! Ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là nghĩa của Bồ Tát. Ngũ uẩn đến thập nhị nhơn duyên, thường nhẫn đến vô tác còn rốt ráo bất khả đắc huống lại là nghĩa của Bồ Tát.

Lành thay, lành thay! Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật, nghĩa của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nhẫn đến nghĩa vô tác đều bất khả đắc. Phải học Bát nhã Ba la mật như vậy. 

Này Tu Bồ Đề! Ông nói rằng ông không thấy có pháp nào chính xác gọi là Bồ Tát.

Phải biết rằng các pháp chẳng thấy các pháp. Các pháp chẳng thấy pháp tánh. Pháp tánh cũng chẳng thấy các pháp. Pháp tánh chẳng thấy địa chủng(6), địa chủng chẳng thấy pháp tánh, nhẫn đến thức chủng(7) cũng như vậy. Pháp tánh chẳng thấy nhãn và sắc cùng nhãn thức tánh nhẫn đến ý thức tánh; nhãn sắc, nhãn thức tánh nhẫn đến ý thức tánh cũng chẳng thấy pháp tánh.

Nầy Tu Bồ Đề! Hữu vi tánh chẳng thấy vô vi tánh, vô vi tánh cũng chẳng thấy hữu vi tánh. Tại sao vậy? Vì rời hữu vi chẳng thể nói vô vi, rời vô vi chẳng thể nói hữu vi.

Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật đối với các pháp đều không chỗ thấy. Bấy giờ Bồ Tát không kinh sợ, chẳng hối tiếc, tâm cũng chẳng trầm một.

Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát nầy chẳng thấy ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới nhẫn đến chẳng thấy thập nhị nhơn duyên, chẳng thấy ngã chúng sanh nhẫn đến tri giả, kiến giả, chẳng thấy Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng thấy Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng thấy Bồ Tát và pháp của Bồ Tát, chẳng thấy Phật, Phật pháp và Phật đạo. 

Vì tất cả pháp đều chẳng thấy nên Bồ Tát chẳng kinh sợ, chẳng hối tiếc, chẳng trầm một. Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì mà tâm của Bồ Tát nầy chẳng hối tiếc, chẳng trầm một?

Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả tâm và tâm sở(8) của đại Bồ Tát đều bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên tâm của Bồ Tát chẳng trầm một, chẳng hối tiếc.

Bạch đức Thế Tôn! Do cớ gì mà tâm của Bồ Tát chẳng kinh sợ?

Nầy Tu Bồ Đề! Ý và ý thức của Bồ Tát nầy đều bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên Bồ Tát chẳng kinh, chẳng sợ.

Đúng như vậy. Nầy Tu Bồ Đề! Vì tất cả pháp bất khả đắc nên đại Bồ Tát phải thực hành Bát nhã Ba la mật.

Nầy Tu Bồ Đề! Tất cả chỗ đại Bồ Tát chẳng thấy Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy Bồ Tát, chẳng thấy danh tự Bồ Tát, cũng chẳng thấy tâm Bồ Tát. Đây chính là dạy hàng đại Bồ Tát”.

(Tới đây chấm dứt phẩm “Tam Giả” của MHBNBLMĐ, được xem như tương đương với phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” của Kinh ĐBN).

 

Thích nghĩa:

(1). Chúng tôi đếm trang trên bản in đăng tải trên website, chứ không phải đếm trang trên các bản in sẵn thành sách đã xuất bản trên thị trường.

(2). Tam giả là tiếng gọi tắt của Tam giả thi thiết chỉ cho ba thứ giả lập là danh giả, thọ giả và pháp giả:

1- Danh là tên gọi của tất cả các pháp; vì pháp nương theo ý tưởng giả lập mà đặt ra tên gọi, cho nên gọi là Danh giả.

2- Thọ giả: Pháp chung hàm chứa pháp riêng mà cấu thành nhất thể, như hợp tứ đại mà thành cỏ cây, hòa hợp ngũ uẩn mà thành chúng sanh, tức hợp riêng làm chung, nên gọi là Thọ giả. Nhưng nhất thể cũng do những cái riêng hòa hợp mà nói “có”. Một khi tứ đại tan rã thì trở thành “không”, nên nói là giả lập thì có, đương thể tức không, gọi là thọ giả. Ví như nói ngã, chúng sanh, thọ giả, mạng giả, sanh giả, tri giả, kiến giả, tác giả, khởi giả… đều là những pháp do hoà hiệp mà có. Đó là thọ giả.

3- Pháp giả: Pháp có hai thứ: 1/. Sắc pháp; 2/. Phép tắc, giáo điều (không phải sắc pháp đối với tâm pháp).

1/. Sắc pháp hay sắc tướng: Chỉ chung mọi biểu hiện có thể nhận biết được của vật chất, gồm cả năm căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân), năm trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, đối tượng xúc chạm) và mọi vật hữu hình. Nói cụ thể, pháp chỉ cho cây cỏ, sông núi v.v… Nhưng tự tính của các pháp ấy xưa nay vốn hư giả không thật, cho nên gọi là Pháp giả. Các pháp nhờ nhân duyên giả hợp mà sinh, không có tự tính, đó là Tự tính giả.

2/. Phép tắc, luật lệ, giáo điều: Tất cả các thiện pháp như tứ thiền bát định, 37 pháp trợ đạo, thập nhị nhân duyên, lục Ba la mật v.v… là pháp, pháp Phật.

(3). Tu Bồ Đề (skt là Subhuti): Còn gọi là Tu Phu Đê, Tu Bổ Đề, Tàu dịch là Không Sinh, Thiện Hiện, Thiện Cát, hay Thiện Nghiệp. Đã thích nghĩa trong Phần thứ I Tổng luận.

(4). Giáo thọ (Phạn là acarya, âm là A xà lê): Thầy truyền đạo hay thầy dạy giáo pháp cho các đệ tử.

(5). Thi thiết: 1- Phương pháp hoặc hệ thống được thiết lập tạm thời, đồng nghĩa với an lập: Trình bày, đưa ra các pháp môn khác nhau, như Kinh, Luận, Thiền và tham công án; 2- Giả định, giả lập; 3- Lập ra một điều gì đó không có thực trong thực tế (s: prajñapti, prajñapta, upacāra, vijñapti). (Từ điển Phật học Anh Hán Việt, C. Muller soạn - Thích Nhuận Châu Việt dịch)

Giả thi thiết hay giả lập, có nghĩa là không thật có chỉ tạm đặt ra để nói, để gọi.

(6). và (7). Địa chủng và Thức chủng nói chung là “Đại chủng” chỉ cho các yếu tố lớn như Địa đại chủng, Thủy đại chủng, Hỏa đại chủng, Phong đại chủng. Bốn yếu tố lớn nầy hợp lại tạo thành sắc pháp (vật chất), cũng gọi là năng tạo đại chủng. Tứ đại chủng, nói tắt là Tứ đại, Tứ giới. Nếu thêm Không đại thành Ngũ đại chủng; lại thêm Thức đại thành Lục đại chủng; thêm Kiến đại thì thành Thất đại chủng. Đại có nghĩa là trùm khắp pháp giới. Loài vô tình chỉ có 5 đại trước, loài hữu tình thì đủ cả 7 đại. Trong đó, địa đại là tính cứng của muôn pháp, hỏa đại là tính nóng, thủy đại là tính ướt, phong đại là tính động, không đại là tính thông suốt, kiến đại là tính hay biết và thức đại là tính phân biệt. Năm đại trước thuộc về 6 cảnh, kiến đại thuộc về 6 căn, thức đại thuộc về 6 thức, cho nên 7 đại tức 18 giới chỉ con người và vạn hữu hay Tâm và Vật.

(8). Tâm và tâm sở: Ý muốn nói là tâm vương và tâm sở theo Duy thức học. Gọi là tâm vương vì chúng rất tự tại, tự chủ giống như những vị Quốc vương. Tâm vương có tám: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, Mạt na thức và A lại da thức (danh từ mới gọi là Tàng thức). Gọi là tâm sở, vì tùy thuộc tâm vương mà sanh khởi, giống như các quần thần phải tuần phục mệnh lệnh của Vua. Tâm sở có 51 món, chia làm sáu loại: 1- Tâm sở biến hành: Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư; 2- Tâm sở biệt cảnh: Dục, thắng giải, niệm, định, huệ; 3- Tâm sở thiện: Tín, tinh tấn, tàm, quí, vô tham, vô sân, vô si, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại; 4- Căn bản phiền não: Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến (ác kiến gồm: thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, tà kiến); 5- Tùy phiền não lại chia làm ba:1/. Tiểu tùy gồm phẫn, hận, phú, não, tật, san, cuống, siểm, hại, kiêu; 2/. Trung tùy gồm vô tàm, vô quý; 3/. Đại tùy gồm trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri; 6- Bất định tâm sở: Hối, miên, tầm và tư.

Chúng tôi không thể đi sâu vào chi tiết vì sự giới hạn của khuôn khổ thích nghĩa, nếu Quý vị độc giả có hứng thú, xin đọc quyển Duy Thức Học, do cố HT. Thích Thiện Hoa dịch, nhà xuất bản Tôn Giáo xuất hành.

 

Lược giải:

 

Phẩm nầy có hai ý: Một là nói về tam giả (danh giả, thọ giả, pháp giả) và Hai là nói tất cả pháp đều không. Cả hai điều đó đưa đến nhận định là tất cả nhân sanh vũ trụ là “duyên hợp giả có, đương thể tức không”. Vậy, cảm quan và ý thức con người giống như hòn bọt nổi, có đó rồi mất đó. Vì thấy nó giả dối, hư ngụy, chóng tàn nên mới cần biết cái chân thật, vĩnh hằng của nó.

 

1. Nói về “tam giả”:

 

Tam giả ở đây không phải là một khái niệm mà tam giả là cái thấy biết do Bát Nhã soi rọi vào thật tướng của vạn hữu. Cái thấy biết từ tâm chứng. Nên Phật khuyên các Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với các pháp, nên tu học đúng: “Danh là giả, pháp là giả và thọ cũng giả”, đừng lấy cảm quan và ý thức mà soi rọi cái thiên sai vạn biệt của vạn hữu mà sanh ra lầm chấp!

 

- Phẩm “Dạy Bảo Trao Truyền” quyển 11, Hội thứ I, ĐBN cùng một lối diễn đạt giống như phẩm “Tam Giả”, Kinh MHBNBLMĐ. Phật bảo:

“Thiện Hiện! Đại Bồ Tát chỉ có tên gọi, đó là Bồ Tát; Bát nhã Ba la mật cũng chỉ có tên gọi, đó là Bát nhã Ba la mật, cả hai danh xưng ấy, cũng chỉ là tên gọi. Thiện Hiện! Hai danh xưng ấy là chẳng sanh, chẳng diệt, chỉ do tưởng tượng, thi thiết ra ngôn thuyết, như vậy là giả danh (đó là nói về giả danh), vì chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở hai bên, không thể nắm bắt được. Thiện Hiện phải biết: Ví như ngã chỉ là giả danh. Giả danh như thế chẳng sanh chẳng diệt, duy có tưởng tượng thi thiết lời nói, gọi đó là ngã. Như vậy hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ giả, khiến thọ giả, tri giả, kiến giả cũng chỉ là giả danh. Giả danh như thế chẳng sanh chẳng diệt, duy có tưởng tượng thi thiết lời nói, gọi là hữu tình cho đến kiến giả. Tất cả như thế chỉ có giả danh (đó là nói về thọ giả). Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai vì bất khả đắc vậy. Thiện Hiện! Như vậy, hoặc Bồ Tát, hoặc Bát nhã Ba la mật, hoặc hai tên này đều là giả pháp (đó là nói về pháp giả). Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, duy có tưởng tượng thi thiết lời nói, gọi là Bồ Tát, gọi là Bát nhã Ba la mật và cả hai tên này cũng chỉ là danh xưng thôi. Gộp lại, ba thứ: Danh giả, thọ giả và pháp giả như thế chỉ là giả danh. Các giả danh này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài chẳng ở giữa hai vì bất khả đắc vậy.

(…)Phật kết luận: Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát, khi tu hành Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp, nên tu học đúng như thế này: Danh là giả, pháp là giả, và thọ là giả”.

 

- Phẩm “Tam Giả” quyển thứ 02, MHBNBLMĐ, nói rằng:

(…) “Đã biết danh tự là giả thi thiết rồi thời chẳng chấp trước nơi sắc, thọ tưởng, hành, thức; chẳng chấp trước mười hai xứ, mười tám gii; chẳng chấp trước tánh hữu vi, tánh vô vi; chẳng chấp trước Đàn na, Thi la, Sằn đề, Tỳ lê gia, Thiền na và Bát nhã Ba la mật; chẳng chấp trước ba mươi hai tướng; chẳng chấp trước thân Bồ Tát; chẳng chấp trước ngũ nhãn, lục thần thông; chẳng chấp trước nội không nhẫn đến vô pháp hữu pháp không; chẳng chấp trước thành tựu chúng sanh; chẳng chấp trước thanh tịnh Phật độ, chẳng chấp trước pháp phương tiện.

Tại sao? Vì những pháp nầy đều là rỗng không nên chẳng có người chấp trước, chẳng có pháp bị chấp trước, chẳng có chỗ chấp trước”.

 

- Phẩm “Biện Đại Thừa” quyển 55, Hội thứ I, ĐBN, Phật lại nói chính bản tánh của danh tự cũng chỉ là giả tưởng:

“Thiện Hiện! Như tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh danh tự giả tưởng thi thiết lời nói, danh tự giả tưởng thi thiết lời nói tánh không vậy”.

 

Nhng dẫn chứng trên có thể cho ta một kết luận: Tất cả cái gì do con người đặt tên, có danh xưng do thế tục dùng ngôn ngữ để trao đổi từ hữu pháp tới vô pháp, từ phương hướng tới thời gian… tất cả mọi sự, mọi vật có tên gọi chỉ là những quy ước của cuộc sống: Chúng không thật, là pháp giả, danh giả, thọ giả chỉ có tên gọi, do trí tưởng đặt ra, để phân biệt vật này với vật nọ, nên nói chung là giả danh, không thể nắm bắt được.

Trong Kinh Lăng Nghiêm Phật xuôi cánh tay xuống đất và hỏi Ngài A Nan: “Theo ông thấy thì cánh tay của ta như thế này là xuôi hay ngược? A Nan trả lời: Các người trong thế gian cho như thế là ngược còn con thì không biết thế nào là ngược hay xuôi. Phật hỏi A Nan người trong thế gian cho là ngược, thì như thế nào mới gọi là xuôi. A Nan thưa: Đức Như Lai đưa cánh tay lên, năm ngón tay chỉ thẳng lên hư không, như thế là xuôi. Phật liền đưa cánh tay lên rồi bảo A Nan rằng: Cũng một cánh tay này chứ không chi khác chẳng qua chỉ đổi đầu làm đuôi, đổi đuôi làm đầu mà thôi, thế mà người thế gian chấp thế này là ngược và thế kia là xuôi. Điên đảo là đấy. Đấy là điên đảo!”

“Các người trong thế gian cho như thế nọ hay như thế kia có nghĩa quy ước sống như thế đó, muốn sống thì phải đi trong cái vòng tròn do mình và người thỏa thuận với nhau, đi ngược lại là tự sát –Nếu người lái xe theo luật của Pháp - lái bên tay phải, có lẽ sẽ bị tai nạn chết hoặc bị thương khi lái xe ở bên Anh (vì luật ở Anh lái bên trái), mặc dù hai quốc gia trên chỉ cách nhau một eo biển hẹp (Manche). Đó là luật lệ, là quy ước!

Ngày nào còn sống trong cộng đồng xã hội thì ngày ấy phải chấp nhận quy ước. Quy ước là cái cần thiết cho cuộc sống cộng đồng. Nhưng quy ước là cái giúp mình mà cũng chính là cái trói buộc mình. Đông hay Tây, xuôi hay ngược, phải hay trái… là tiêu chuẩn căn bản do chính con người thỏa thuận với nhau. Thỏa thuận với nhau để cùng thi hành, nên gọi là quy ước. Thiếu quy ước, làm sao xã hội được an ổn và thăng tiến? Đó là cái hạn cuộc của cuộc đời thường! Làm sao chấp trì Bát Nhã đây?

Cái nghĩ tưởng Đông Tây, xuôi ngược là quy ước do mình tạo ra và chính nó quay trở lại trói buộc mình. Trong chân tâm không có Đông Tây, xuôi ngược… Bát Nhã cho tất cả nghĩ tưởng và những danh tướng thuộc về nghĩ tưởng đều là giả danh, không thể nắm bắt được và tu học Bát Nhã phải tu học như thế mới gọi là tu học đúng! Chừng nào chúng ta còn sống trong cái tương đối của cuộc đời thường thì chúng ta không tránh khỏi sự câu thúc của nó! Chỉ trừ khi chúng ta thực hiện “một bước nhảy” hay như người xưa nói phải một phen đại tử (đại tử nhất phiên) mới có thể phủi sạch những gì ràng buộc chúng ta, rồi từ đó chúng ta sẽ sống lại trong cõi đời vô tận.(Ý của Thiền sư Viên Ngộ)

 

2. Nói về: “Vì tất cả pháp vốn không, hư giả chẳng kiên cố, nên tất cả pháp không biết, không thấy, không biết không thấy nên không chấp”.

 

- Để kết luận, phẩm “Tam Giả” quyển thứ 02, Kinh MHBNBLMĐ, Phật bảo: “Nầy Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật đối với các pháp đều không chỗ thấy. Bấy giờ, Bồ Tát không kinh sợ, chẳng hối tiếc, tâm cũng chẳng trầm một.

Tại sao? Vì đại Bồ Tát nầy chẳng thấy ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới nhẫn đến chẳng thấy thập nhị nhơn duyên, chẳng thấy ngã chúng sanh nhẫn đến tri giả, kiến giả, chẳng thấy Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, chẳng thấy Thanh Văn, Bích Chi Phật, chẳng thấy Bồ Tát và pháp của Bồ Tát, chẳng thấy Phật, Phật pháp và Phật đạo.

(…)Tất cả tâm và tâm sở của đại Bồ Tát đều bất khả đắc và chẳng thể thấy.

(…)Ý và ý thức của Bồ Tát nầy đều bất khả đắc và chẳng thể thấy. Vì thế nên Bồ Tát chẳng kinh, chẳng sợ”.

 

- Phẩm “Vấn Tướng” quyển thứ 16, Kinh MHBNBLMĐ. Nói:

“Lại nầy Tu Bồ Đề! Đức Phật do Bát nhã Ba la mật mà được tất cả pháp chẳng sanh, vì là vô sở đắc vậy. Thế nên Bát nhã Ba la mật hay sanh chư Phật, hay hiển thị tướng thế gian”.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: “Bạch đức Thế Tôn! Nếu tất cả pháp là không biết, không thấy, sao Bát nhã Ba la mật lại hay sanh chư Phật, hay hiển thị tướng thế gian?”

Đức Phật bảo Ngài Tu Bồ Đề: “Tất cả pháp không biết, không thấy. Thế nào là không biết, không thấy? Vì tất cả pháp vốn không, là hư giả chẳng kiên cố, nên tất cả pháp không biết, không thấy.

Lại nầy Tu Bồ Đề! Tất cả pháp không y chỉ, không chỗ hệ phược, thế nên tất cả pháp không biết không thấy. Do đó mà Bát Nhã hay sanh chư Phật, hay hiển thị tướng thế gian. Vì chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ, tưởng, hành, thức nhẫn đến chẳng thấy Nhất thiết chủng trí nên Bát nhã Ba la mật hay hiển thị tướng thế gian, hay sanh chư Phật”.

Kiến là cái thấy từ bên ngoài. Tri là cái hiểu biết bên trong. Có thấy, có biết mới có cảm thọ, có cảm thọ mới sanh tạo tác… Biết mà phân biệt phải quấy, hơn thua…là “biết mê”, biết duyên theo cảnh. Cũng cùng cái thấy cái biết như vậy mà biết quay trở về để thấy tâm là cái “biết giác”. Nên Lục tổ Huệ Năng nói: “Thiện tri thức, phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ đề. Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ đề”. Nên nói không thấy thì không biết, không biết thì không chấp, không chấp thì mới thoát khỏi những vướng mắc của cuộc sống. Pháp môn tu hành tuy vô lượng mà tôn chỉ duy nhất chỉ là trừ chướng mà thôi. Cho nên giáo pháp của Phật là dạy người vô kiến vô chấp. Đã vô kiến vô chấp thì làm gì có chướng?

 

Kết luận:

 

Phẩm thứ bảy “Tam Giả”, tập 3, quyển 41, Đại Trí Độ Luận, nói rằng: “… ở nơi hết thảy các pháp, Bồ Tát đều chẳng có tác ý phân biệt. Bồ Tát trú trong pháp bất hoại, hành 6 pháp Ba la mật, nhẫn đến hành 18 bất cộng pháp.

Do được thật trí huệ, nên ở nơi hết thảy các pháp, Bồ Tát chẳng thấy có pháp nào nhất định gọi là Bát nhã Ba la mật cả, chẳng thấy có danh tự Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có danh tự Bồ Tát. Bồ Tát dùng trí huệ ấy, phá được vô minh và các phiền não.

Lại nữa, cũng do được thật trí huệ, mà Bồ Tát được vô sở kiến, chẳng thấy hết thảy các pháp, nên phá được các chấp về Bát nhã Ba la mật, về danh tự Bát nhã Ba la mật, vào được nơi thật tướng các pháp, được tâm thanh tịnh, được vô ngại.

Bồ Tát được trí huệ như vậy, nên dù thấy, dù nghe, dù niệm các pháp, vẫn thấy các pháp đều là như huyễn, như hóa. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ thấy, nghe, niệm cũng đều là hư vọng, nên chẳng có chấp sắc, thanh, hương, vị, xúc... mà thường trú trong vô ngại trí, tăng ích 6 Ba la mật, vào Bồ Tát vị, được hết thảy các lợi ích”.

Nội dung của phẩm “Tam Giả”, nằm gọn trong giải luận này. Nếu hiểu được nó thì có thể thâm nhập phẩm này chẳng có gì khó.

 

Phẩm “Tán Hoa” quyển 554, Hội thứ IV, ĐBN, Phật cũng bảo:

“Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không tác dụng. Người thủ, sự thủ đều như hư không, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều giống như người huyễn, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng v.v... chẳng chắc thật vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy, luôn chứng như vậy thì chính là hành Bát nhã Ba la mật, cũng không chấp trước tướng các pháp này.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát khi học như vậy thì chính là học Bát nhã Ba la mật”.

Vã lại, tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không có tác dụng. Đây chính là dạy bảo trao truyền cho hàng đại Bồ Tát”./.

 

---o0o---

 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com