Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Phẩm “Khen Ngợi”

17/11/202007:33(Xem: 7581)
09. Phẩm “Khen Ngợi”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-480

 

IX. PHẨM “KHEN NGỢI”

Phần giữa quyển 545, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Gợi ý:

Rất tiếc phẩm “Khen Ngợi” in thiếu trên Website Tuvienquangduc.com do HT Thích Trí Nghiêm phiên dịch. Chúng tôi phải lấy hai bản dịch là Thuvienhoasen.org và Quangduc.com ghi vào Đại Bát Nhã Tổng luận của chúng tôi. Hai bản dịch trong Thuvienvienhoasen.org và quangduc.com dịch giống nhau, nên không có gì trở ngại trong việc bổ khuyết sự thiếu sót trên Website Tuvienquangduc.com.

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật này chỉ có danh tự. Danh tự như vậy cũng bất khả đắc, chỉ dựa vào lời nói vay mượn thi thiết mà có. Thế nên Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu, thật bất khả đắc. Hai pháp này triển chuyển tương tợ, đều vô sở hữu, bất khả đắc. Do đâu Phật nói, khi Từ Thị Bồ Tát chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì lấy danh hiệu này? Cũng ở chỗ này tuyên thuyết Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Từ Thị Bồ Tát sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, khi ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ, tưởng, hành, thức Không. Không chứng sắc trói; không chứng thọ, tưởng, hành, thức trói. Không chứng sắc mở; không chứng thọ, tưởng, hành, thức mở, tức lấy các tướng hành như vậy. Từ Thị Bồ Tát sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề liền được danh này, cũng ở tại đây thuyết giảng Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát nhã Ba la mật rất thanh tịnh?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì sắc thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì hư không thanh tịnh nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì hư không không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh. Vì tất cả pháp có nhiễm, không nhiễm đều bất khả đắc, nên Bát Nhã sâu xa rất thanh tịnh.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát Nhã sâu xa này còn được lợi ích rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Các thiện nam, thiện nữ v.v... này không chết bất ngờ, cũng không bệnh đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày mười bốn, ngày rằm của tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam, thiện nữ dù bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, thì sẽ được vô biên công đức lợi ích, thù thắng.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Các thiện nam, thiện nữ này đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, nên có vô lượng thiên thần thường đến cung kính vây quanh hộ trì. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa là ngọc báu vô thượng của các trời, người, A tu la v.v.... Do nhân duyên đây, nên các thiện nam, thiện nữ này sẽ được vô biên công đức và lợi ích.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Khi lắng nghe thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, tu học, thuyết giảng v.v... Bát Nhã sâu xa có nhiều tà ma làm cản trở. Vì sao? Vì Bát Nhã sâu xa là ngọc báu lớn đối với các oán thù và trộm cướp. Thí như ở thế gian có ngọc quí báu, dù để chỗ nào cũng nhiều oán thù trộm cướp.

Thiện Hiện nên biết! Bát Nhã sâu xa là của báu vô thượng, thường làm cho thế gian lợi ích an vui.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu xa không sanh-không diệt, không thành-không hoại, không hướng tới-không quay lui, không kéo-không duỗi, không lấy-không bỏ, không dơ-không sạch, không tăng-không giảm, không gần-không xa. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn vô sở hữu, đều bất khả đắc.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát Nhã sâu xa không có sự chứng đắc đối với tất cả pháp nên không thể ô nhiễm, không bị ô nhiễm. Thiện Hiện nên biết! Vì sắc không nhiễm ô nên Bát Nhã sâu xa cũng không nhiễm ô. Thọ, tưởng, hành, thức không nhiễm ô, nên Bát Nhã sâu xa cũng không nhiễm ô. Bát Nhã sâu xa không nhiễm ô nên các pháp, sắc v.v... cũng không nhiễm ô. Nếu đối với như vậy mà không có sự phân biệt tức là hành Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Vì Bát Nhã sâu xa không có sự phân biệt nên đối với tất cả pháp không lấy-không bỏ, không nói-không dạy, không có-không được.

Khi ấy, có vô lượng trăm ngàn Thiên tử ở giữa hư không vui mừng hớn hở, đồng thanh xướng:

- Hôm nay, ở châu Thiệm bộ này, chúng con được thấy Phật chuyển pháp luân vi diệu lần thứ hai.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Xe pháp này chẳng phải chuyển lần thứ nhất, cũng chẳng phải chuyển lần thứ hai. Vì sao? Vì đối với tất cả pháp, Bát Nhã sâu xa chẳng phải chuyển và chẳng phải hoàn mà xuất hiện ở thế gian. Chỉ vì pháp vô tánh tự tánh Không nên xuất hiện ở thế gian. Nếu đại Bồ Tát biết được như vậy, không còn phân biệt là hành Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã sâu xa là Ba la mật rộng lớn, vì hiểu rõ tự tánh của các pháp là Không. Tuy hiểu rõ tự tánh của các pháp đều Không rồi, nhưng các đại Bồ Tát vẫn dựa vào Bát Nhã sâu xa không ràng buộc, không đắm trước vào các pháp để chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình.

Tuy chứng Bồ đề nhưng không thấy chứng, vì chứng hay chẳng chứng pháp đều bất khả đắc. Dù chuyển xe pháp mà không thấy gì để chuyển, vì pháp chuyển pháp hoàn đều bất khả đắc. Mặc dù cứu độ hữu tình mà không thấy có gì được độ, vì pháp thấy hay không đều bất khả đắc.

Bạch Thế Tôn! Trong giáo pháp thâm sâu Đại Bát Nhã Ba La Mật này việc chuyển xe pháp hoàn toàn bất khả đắc. Vì sao? Vì trong ấy không có pháp để hiện rõ, không có pháp để chỉ bày, không có pháp để chứng đắc, không có pháp chuyển, không có pháp hoàn. Vì sao? Vì tất cả pháp rốt ráo không sanh, cũng không diệt? Vì không sanh diệt nên không chuyển, không hoàn? (Q.545, TBBN)

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Vì sao? Vì chẳng phải trong pháp không, vô tướng, vô nguyện có pháp chuyển-pháp hoàn, vì tánh của pháp chuyển pháp hoàn bất khả đắc. Nếu thường tuyên thuyết, khai thị như vậy thì gọi là sự thuyết giảng Bát Nhã hoàn toàn thanh tịnh. Trong đây hoàn toàn không có người nói, người nghe, pháp được nói và pháp lãnh thọ. Đã không có người nói, người nghe và người có thể chứng các pháp bất khả đắc. Vì không có người chứng, cũng không có người đắc Niết bàn, cũng không có người thuyết pháp làm phước điền. Vì phước điền không có nên tánh phước điền cũng không có. Sự biểu thị danh ngôn đều bất khả đắc, nên gọi là Ba la mật rộng lớn.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bát Nhã sâu xa chính là Ba la mật vô biên, vì như hư không không bờ bến.

Đây là Ba la mật không gì sánh bằng vì tất cả pháp đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật viễn ly vì rốt ráo Không.

Đây là Ba la mật khó chinh phục, vì tánh tướng của các pháp bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không để dấu vết vì không qua không lại, không hình thể.

Đây là Ba la mật vô tánh vì không qua không lại.

Đây là Ba la mật vô hành, vì tất cả pháp không thể chuyển động.

Đây là Ba la mật vô đoạt, vì tất cả pháp không thể giữ lấy.

Đây là Ba la mật vô tận cùng với pháp vô tận tương ưng.

Đây là Ba la mật vô sanh, vì tất cả pháp không thể sanh.

Đây là Ba la mật vô tác, vì các tác giả đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô tri, vì không có sự biết đối với tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô kiến, vì không có sự thấy đối với tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô chuyển, vì những kẻ sống chết đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô hoại, vì khoảng trước, sau và giữa đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật như huyễn, vì các pháp không sanh, không biểu thị được.

Đây là Ba la mật như mộng, vì tánh các ý thức bình đẳng.

Đây là Ba la mật không tạp nhiễm, vì tham, sân, si không tự tánh.

Đây là Ba la mật vô sở đắc, vì chỗ nương tựa bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không hý luận, vì tất cả pháp vượt khỏi sự nghĩ bàn.

Đây là Ba la mật vô tư lự, vì tất cả pháp không dao động.

Đây là Ba la mật không chuyển động, vì trụ vào pháp giới.

Đây là Ba la mật lìa nhiễm, vì tất cả pháp chẳng hư vọng.

Đây là Ba la mật vô đẳng khởi, vì tất cả pháp không có sự phân biệt.

Đây là Ba la mật tịch tĩnh, vì tất cả pháp tướng đều bất khả đắc.

Đây là Ba la mật không lầm lỗi, vì tu các công đức để đến bờ kia.

Đây là Ba la mật không hữu tình, vì chứng thực tế.

Đây là Ba la mật vô đoạn, vì tất cả pháp vô đẳng khởi.

Đây là Ba la mật như thật, vì không phân biệt.

Đây là Ba la mật vô nhị, vì không chấp trước tất cả pháp.

Đây là Ba la mật không tạp hoại, vì tất cả pháp chẳng hòa hợp.

Đây là Ba la mật không chấp thủ, vì vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác.

Đây là Ba la mật không tầm tứ, vì đạt đến tánh bình đẳng của pháp tầm tứ.

Đây là Ba la mật vô lượng, vì vô lượng pháp.

Đây là Ba la mật vô khởi, vì lìa ngã pháp.

Đây là Ba la mật không phân biệt, vì tánh các sự phân biệt bình đẳng.

Đây là Ba la mật bất khả đắc, vì đạt đến tánh chơn thật của tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô trước, vì không chấp trước tất cả pháp.

Đây là Ba la mật không nương tựa, vì không chỗ nương tựa.

Đây là Ba la mật chẳng sanh, vì tất cả pháp đều không sanh.

Đây là Ba la mật vô thường, vì tất cả pháp thường không có tánh.

Đây là Ba la mật khổ, vì làm bức bách tánh bình đẳng.

Đây là Ba la mật vô ngã, vì đối với tất cả pháp không có sự chấp trước.

Đây là Ba la mật không, vì tất cả pháp bất khả đắc.

Đây là Ba la mật vô tướng, vì lìa các tướng của tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô nguyện, vì không sự thành tựu.

Đây là Ba la mật có lực, vì không chịu khuất phục tất cả pháp.

Đây là Ba la mật vô lượng Phật pháp, vì quá số lượng.

Đây là Ba la mật vô bố úy, vì nơi tâm rốt ráo không có sự sợ hãi.

Đây vì Ba la mật chơn như, vì tánh của tất cả pháp này không có biến đổi.

Đây là Ba la mật tự nhiên, vì tất cả pháp không có tự tánh.

Đây là Ba la mật Nhất thiết trí trí, vì biết tất cả pháp không tự tánh.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. (Q.545, TBBN)

 

Lược giải:

 

1. Học Bát Nhã không có nghĩa phải chứng Không

mới trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

 

Phải nói đây là một phẩm rất cô động, ngắn gọn chỉ có khoảng 7 trang sách, nên nêu ra một thắc mắc lớn. Làm sao tư duy để thâm nhập được Bát nhã Ba la mật khi Phật nói Bồ Tát Từ Thị chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề  “khi ấy chẳng chứng sắc Không; chẳng chứng thọ tưởng hành thức không”? Đây là câu hỏi lớn! Không chứng Không mà đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là điều khó hiểu? Kinh không giải thích chỗ này và liền sau đó thuyết về thanh tịnh.

Chúng ta thường hiểu khi nói thấy tất cả pháp là không thì liền thấy các pháp như (chơn như của các pháp). Thấy các pháp như là thấy bình đẳng. Khi tri giác cái bình đẳng này giữa các pháp thì tâm thể trở nên tịch lặng hay nói là được thanh tịnh. Đây là giác ngộ do chứng nhập không quán mà được thanh tịnh nên phát sanh trí tuệ.

Một câu hỏi thưòng thấy trong các phẩm nói về Bồ Tát Di Lặc khi giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh giác Bồ Tát Di Lặc chứng pháp nào, nói pháp nào? Kinh ĐBN thường trả lời là Bồ Tát Di Lặc chứng pháp thanh tịnh và thuyết pháp thanh tịnh, chứ không nói là Bồ Tát Di Lặc chứng pháp Không.

Để trả lời vấn nạn này chúng ta có thể nói rằng: Phật thuyết Đại Bát Nhã không có nghĩa là thuyết riêng chủ đề duy nhất là Không hay Tánh Không và xem pháp môn này như yếu tố chánh quyết định cho sự thành tựu Giác ngộ, chứng Chánh giác và đạt Nhất thiết trí trí. Chúng ta cũng biết rằng Giác ngộ không phải là yếu lẻ loi do Tánh Không tạo thành, mà giác ngộ là sự phối hợp nhịp nhàng giữa Trí và Bi, giữa phương tiện và cứu cánh của tất cả các pháp mầu Phật đạo.

- Phẩm “Thiên Tử”, quyển 556, Hội thứ V, ĐBN. Phật nói: “Thắng Quân Phạm chí dùng các môn ly tướng như thế thảy đối Nhất thiết trí trí rất sanh tin hiểu, gọi tùy tín hành, đối tất cả pháp đều không lấy đắm. Như vậy, Phạm chí dùng môn ly tướng đối Nhất thiết trí trí được tin hiểu rồi, đối tất cả pháp đều chẳng lấy tướng, cũng chẳng suy nghĩ các pháp vô tướng. Như vậy Phạm chí do sức hiểu sâu, đối tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, chẳng chứng, chẳng đắc. Khi Phạm chí kia đối với sự tin hiểu cho đến Niết bàn cũng chẳng lấy đắm, vì lấy chơn pháp tánh làm định lượng vậy”.

Vậy, đừng lấy làm ngạc nhiên khi Phật bảo Bồ Tát Từ Thị khi chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng chứng sắc không, chẳng chứng thọ tưởng hành thức không mà chứng thanh tịnh và thuyết thanh tịnh.

Tuy ở đoạn kinh này nói như vậy, nhưng phần lớn Đại Bát Nhã thường nói là phải giác biết các pháp là như mà như tức là không, như cũng là bình đẳng. Vì giác biết là Không, là như, là bình đẳng nên tâm được thanh tịnh. Do tâm thanh tịnh nên mới phát huệ. Vậy tiến trình có khác nhưng kết quả không khác.

 

2. “Khen Ngợi” Bát nhã Ba la mật.

 

1- Trong các phẩm trước chúng ta đã từng thấy các Thiên chúng, trời, người, A tu la v.v… các cõi trong khắp thế giới mười phương như cát sông Hằng tán tụng việc thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật. Trong phẩm “Khen Ngợi” này, Thiện Hiện lại bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ chỉ nghe danh hiệu công đức của Bát Nhã sâu xa này còn được lợi ích rộng lớn, huống gì thọ trì, đọc tụng, tu tập, biên chép, thuyết giảng, truyền bá rộng rãi. Các thiện nam, thiện nữ này không chết bất ngờ, cũng không bệnh đột ngột và bị các tai họa, thường được vô lượng trăm ngàn thiên thần cung kính vây quanh đi theo hộ trì. Vào ngày mồng tám, ngày thứ mười bốn, ngày rằm của tháng có trăng và tháng không có trăng, nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... dù bất cứ chỗ nào cũng đọc tụng, thuyết giảng Bát Nhã sâu xa, thì sẽ được vô biên công đức lợi ích, thù thắng”. (Q.545, TBBN)

 

2- Phẩm “Kim Cương Năng Đoạn”, tức Kinh “Kim Cương Bát nhã Ba la mật”, quyển 577, Hội thứ IX, trích từ Đại Bát Nhã, chúng ta sẽ có dịp khảo cứu sau này. Quyển 577 Phật tán tụng công đức trì tụng Bát Nhã tổng cộng đến 14 lần. Quyển 577 chỉ là 1 trong 600 quyển của Đại Bát Nhã mà thôi.

 

3- Nói về những vi diệu Ba la mật: Để thay đổi không khí cũng như để thay lời kết luận cho phẩm này, chúng tôi trích đoạn Kinh sau đây thuộc thuộc Kinh “Phật Mẫu Bát Nhã”, phẩm 9 “Khen Pháp Vượt Trội” do Thí Hộ dịch, tương đương với phẩm “Khen Ngợi” này, thuộc quyển 545, Kinh Tiểu Bản Bát Nhã do Ngài Huyền Trang dịch, để quý vị chiêm nghiệm thế nào là các Ba la mật của Bát Nhã: “Vô biên Ba la mật là Bát nhã Ba la mật. Vô đẳng đẳng Ba la mật; bất khả phá Ba la mật; vô cú Ba la mật; vô tánh Ba la mật; vô ngôn Ba la mật; vô lai Ba la mật; vô khứ Ba la mật; vô tập Ba la mật; vô tận Ba la mật; vô sinh Ba la mật; vô tác Ba la mật; vô tri giả Ba la mật la Bát nhã Ba la mật. Vô phiền não Ba la mật; vô xuất thế Ba la mật; vô nhiễm ô Ba la mật; vô hý luận Ba la mật; vô niệm Ba la mật; vô động Ba la mật là Bát nhã Ba la mật. Ly dục Ba la mật; vô khởi Ba la mật; tịch tĩnh Ba la mật; vô đoạn Ba la mật; nhị biên Ba la mật; vô dị Ba la mật; vô trước Ba la mật; bất phân biệt Ba la mật; vô lượng Ba la mật; như hư không Ba la mật; vô thường Ba la mật; khổ Ba la mật; không Ba la mật; vô ngã Ba la mật; vô tướng Ba la mật; Không tánh Ba la mật v.v… là Bát nhã Ba la mật, vì tánh, tướng của tất cả các pháp không thể có được, không thể biết”.

Nói tóm lại, bất hoại, bất khứ, bất lai, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất thất, bất đáo, bất khởi, bất động, bất niệm, bất phá, bất thủ, bất hý luận, bất phân biệt, vô tác, vô tri, vô dục, vô sân, vô si, vô phiền não, vô đoạn, vô nhị, vô tánh, vô tướng, vô lượng, vô biên, là mộng huyễn, bào ảnh, tiếng vang, quáng nắng v.v..., là bình đẳng, là tịch diệt, là nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, chư pháp không, vô sở đắc không, tự tướng không, hữu pháp không, vô pháp không, vô pháp hữu pháp không, là chân như, là pháp giới, là pháp tánh, là bình đẳng, là thật tế, là bất khả tư nghì, là 37 pháp trợ đạo, là tam tam muội, là bát bội xả, là cửu thứ đệ định, là thập lực, tứ vô sở úy, tứ vô ngại giải v.v… là các Ba la mật của Bồ Tát hay nói khác là các pháp có thể đưa chúng sanh sang bờ kia. Có hàng trăm pháp như thế đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật mà khắp thế gian trời người thường tán tụng…Chúng ta không cần phải nhọc nhằn tìm kiếm ở đâu xa. Bất cứ Hội nào trong toàn bộ Đại Bát Nhã, chúng ta cũng có thể tìm thấy các giáo pháp công đức phước hạnh này.

Tại sao các Ba la mật này đều thu nhiếp vào Bát nhã Ba la mật và được gọi là công đức phước hạnh? Vì tri giác được tất cả các pháp có đặc tánh như trên là đạt được biên tế chung cùng của vạn pháp hay nói khác là đạt thật tướng các pháp nên giác ngộ, đạt Nhất thiết trí trí và chứng quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi đạt đến chỗ đó thì có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, có thể đưa chúng sanh sang bờ bên kia, nên nói là được vô vàn công đức phước hạnh thù thắng. Đó là nội dung của phẩm “Khen Ngợi” Bát nhã Ba la mật.

 

Nhưng muốn nói gì thì nói Bát nhã Ba la mật là vô sở hữu, bất khả đắc. Bát nhã Ba la mật chỉ là danh tự. Đừng quá tưởng tượng bốc cao mà lạc mất tâm đạo.

Kinh bảo: “Danh tự như vậy cũng bất khả đắc, chỉ dựa vào lời nói vay mượn thi thiết mà có. Thế nên Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu, thật bất khả đắc”.

Nếu hiểu câu nói này và vô chấp, vô phân biệt thì khi ấy sẽ thấy Bát nhã Ba la mật hiện tiền./.

 

---o0o---

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com