- Thư Ngỏ
- Nội Dung
- I. Phần thứ I Tổng luận ( Biên soạn: Lão Cư Sĩ Thiện Bửu; Diễn đọc: Phật tử Quảng Tịnh; Lồng nhạc: Cư Sĩ Quảng Phước)
- II. Phần thứ II Tổng luận:
- III. Phần Thứ III: Tánh Không Bát Nhã
- Tán thán công đức quý Phật tử đã đóng góp (đợt 2) tịnh tài để ấn tống Tổng Luận Đại Bát Nhã 🌹🥀🌷🌸🏵️🌻🌼
- Hình ảnh tạ lễ công đức phiên dịch Kinh Bát Nhã của Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm và chúc mừng Lão Cư Sĩ Thiện Bửu (80 tuổi ở San Jose, California, Hoa Kỳ) đã hoàn thành luận bản chiết giải bộ Kinh khổng lồ này sau 10 năm ròng rã
- Link thỉnh sách Tổng Luận Đại Bát Nhã qua Amazon
- Tập 01_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 1) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 02_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 2) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 03_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 3) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 04_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 4) do Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 05_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 5) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 06_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 6) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 07_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 7) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
- Tập 08_Tổng Luận Đại Bát Nhã (tập 8) do Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm dịch và Cư Sĩ Thiện Bửu chiết giải
TỔNG LUẬN
KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT
Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu
Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022
***
PHẨM “PHÁP NGHĨA VÔ TẠP”
Phần sau quyển 378 đến phần đầu quyển 379, Hội thứ I, ĐBN.
(Tương đương với phần đầu phẩm “Lục Dụ” quyển thứ 26, MHBNBLM)
Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le
Tóm lược:
(Phần mở đầu này tương đương với phẩm “Lục Dụ”
quyển thứ 26, Kinh MHBNBLMĐ)
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Làm sao đối tất cả pháp vô tạp vô tướng, tự tướng không, năng viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã? Làm sao đối tất cả pháp vô lậu không sai khác, thi thiết các pháp sai khác như thế và có thể biết rõ? Làm sao đối Bát Nhã, nhiếp thọ tất cả lục Ba la mật? Nhiếp thọ tất cả 18 pháp không? Nhiếp thọ tất cả chơn như, pháp giới, pháp tánh…; nhiếp thọ tất cả bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; nhiếp thọ tất cả tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ… cho đến nhiếp thọ tất cả Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; nhiếp thọ tất cả pháp thế xuất thế gian? Làm sao đối với tất cả pháp dị tướng thi thiết nhất tướng, chỗ gọi vô tướng và đối với tất cả pháp nhất tướng vô tướng thi thiết tất cả pháp tướng sai khác?
Phật bảo: Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa, tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã. Như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng v.v… đều vô tướng. Vì sao? Vì các mộng, vang, tượng v.v… đều không tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thời pháp này vô tướng. Nếu pháp vô tướng, pháp này là nhất tướng chỗ gọi vô tướng.
Thiện Hiện! Do nhân duyên này, phải biết tất cả bố thí là vô tướng, người thí vô tướng, người nhận vô tướng, vật cho vô tướng. Nếu biết như vậy mà hành bố thí, thì có thể viên mãn việc tu hành bố thí Ba la mật vô tướng; nếu có thể viên mãn việc tu hành bố thí vô tướng thì chẳng xa lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã; an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã như thế thì có thể viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng có thể viên mãn 37 pháp trợ đạo; cũng có thể viên mãn tam giải thoát môn, 18 pháp không, chơn như, pháp giới, pháp tánh… cho đến Nhất thiết trí. Đại Bồ Tát ấy an trụ trong các Thánh pháp vô lậu dị thục như thế, dùng sức thần thông đi đến hằng hà sa thế giới chư Phật khắp mười phương và dùng các loại y phục, thức ăn, thức uống, đồ nằm, thuốc men, hương hoa, tràng phan, bảo cái, đèn đuốc, kỹ nhạc và các thứ nhu yếu thượng diệu khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, làm lợi ích an lạc cho các hữu tình; đối với người nên dùng bố thí làm lợi ích thì liền dùng bố thí; đối với người nên dùng tịnh giới làm lợi ích thì liền dùng tịnh giới; đối với người nên dùng an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã làm lợi ích thì liền dùng an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã mà làm lợi ích cho họ; đối với người nên dùng tất cả thiện pháp thù thắng làm lợi ích thì liền dùng tất cả thiện pháp thù thắng mà làm lợi ích cho họ. Đại Bồ Tát ấy, thành tựu vô lượng thiện pháp như thế, tuy chịu sanh tử nhưng chẳng bị tội lỗi sanh tử làm nhiễm ô; vì muốn lợi lạc cho các hữu tình nên nhiếp thọ phú quí tự tại của người, trời; do oai lực của phú quí tự tại này, có thể làm lợi ích cho hữu tình, dùng tứ nhiếp pháp mà nhiếp thọ họ. Đại Bồ Tát ấy biết tất cả pháp đều không có tướng, nên tuy biết bốn quả Thanh văn mà chẳng trụ quả Thanh văn; tuy biết quả vị Độc giác mà chẳng trụ quả vị Độc giác. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy như thật rõ biết tất cả pháp rồi, vì muốn chứng được Nhất thiết tướng trí, nên chẳng trụ các quả Thanh văn, Độc giác. Đại Bồ Tát biết tất cả pháp đều vô tướng, nên như thật biết rõ lục Ba la mật cũng đều vô tướng. Do nhân duyên này khắp năng viên mãn tất cả pháp Phật.
Lại nữa, Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa viên mãn tịnh giới Ba la mật. Đại Bồ Tát này như thật biết rõ năm thủ uẩn này như mộng, như vang, như tượng v.v... mới năng viên mãn vô tướng tịnh giới Ba la mật. Tịnh giới như thế không khuyết không hở, không tì vết, không thủ trước, khéo léo thọ trì, đáng thọ cúng dường, được kẻ trí khen. Đó là Thánh pháp vô lậu, là nhiếp thuộc Thánh đạo xuất thế gian. An trụ giới đây năng khéo thọ trì, thì đắc các giới: Luật nghi giới(1), hữu biểu giới, vô biểu giới(2), hiện hành giới, bất hiện hành giới(3), oai nghi giới, phi oai nghi giới(4).
Đại Bồ Tát ấy tuy thành tựu đầy đủ các giới như thế nhưng không thủ trước quả do tịnh giới mà được sanh vào dòng họ lớn giàu sang, quyền quý hay sanh Thiên ở 25 cõi trời sai khác (nhị thập ngũ hữu) hay do tu giới mà đắc quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc quả Độc giác; hoặc nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, hoặc đắc Vô sanh pháp nhẫn, hoặc đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì các pháp này đều vô tướng, hoặc đồng một tướng chỗ gọi vô tướng; pháp vô tướng chẳng đắc vô tướng, pháp hữu tướng chẳng đắc hữu tướng, pháp vô tướng chẳng đắc hữu tướng, pháp hữu tướng chẳng đắc vô tướng. Do nhân duyên ấy, nên hoàn toàn chẳng thể nắm bắt được.
Như thế, đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, có thể nhanh chóng viên mãn tịnh giới Ba la mật vô tướng, chứng nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh; đã nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh rồi, sẽ đắc Vô sanh pháp nhẫn; đã được Vô sanh pháp nhẫn, lại tu hành Đạo tướng trí hướng đến Nhất thiết tướng trí, đắc năm thần thông dị thục; lại đắc năm trăm pháp môn Tam ma địa, năm trăm pháp môn Đà la ni; an trụ ở trong đó lại có thể chứng đắc bốn sự hiểu biết thông suốt; từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật.
Đại Bồ Tát ấy vì hóa độ hữu tình, nên tuy hiện lưu chuyển sanh tử trong các thú, nhưng chẳng bị các chướng phiền não nghiệp báo ấy làm nhiễm ô, thí như hóa nhơn tuy hiện các việc đi, đứng, nằm, ngồi, nhưng không có thật; tuy hiện các thứ làm lợi ích hữu tình, nhưng đối với hữu tình và sự an lập ấy hoàn toàn không có sở đắc. Như có Như Lai tên Tô Phiến Đa(5) chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, độ vô lượng chúng, giúp họ ra khỏi sanh tử chứng đắc Niết bàn. Nhưng vào thời đó không có hữu tình nào kham nhận thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Lúc ấy Như Lai hóa hiện vị hóa Phật giúp cho trụ ở đời lâu dài rồi tự xả thọ mạng, nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn. Sau khi đã trụ một kiếp, hóa thân của vị Phật ấy lại thọ ký quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cho một Bồ Tát khác rồi mới nhập Niết bàn. Hóa thân Phật ấy tuy làm các việc lợi ích hữu tình nhưng không có sở đắc, nghĩa là không nắm bắt sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến không nắm bắt tất cả pháp hữu lậu, vô lậu và các hữu tình. Cũng vậy, đại Bồ Tát này tuy có làm nhưng vô sở đắc.
Như thế, Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật viên mãn tịnh giới Ba la mật; do tịnh giới này được viên mãn, nên có thể nhiếp thọ tất cả pháp Phật.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi tên là Vô sanh pháp nhẫn? Pháp này dứt trừ được ác gì? Và sanh ra trí gì? Lại nữa Thiện Hiện! Khi đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa viên mãn an nhẫn Ba la mật. Đại Bồ Tát này như thật biết rõ năm thủ uẩn này như mộng, như vang, như tượng v.v... mới năng viên mãn an nhẫn Ba la mật vô tướng.
Đại Bồ Tát ấy, biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy không có thật tướng, nên tu hai loại nhẫn mới có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật vô tướng. Hai loại đó là gì? Một là an thọ nhẫn, hai là quán sát nhẫn.
- An thọ nhẫn là các đại Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ đề, ở khoảng giữa, giả sử tất cả loài hữu tình tranh nhau đến chê bai, dùng lời thô ác mắng nhiếc, lăng nhục; lại dùng ngói, đá, dao, gậy làm hại, nhưng đại Bồ Tát ấy, vì đã viên mãn an nhẫn, nên chẳng sanh một niệm sân hận; cũng lại chẳng khởi tâm trả thù, chỉ nghĩ các hữu tình ấy thật đáng thương, ta nay chẳng nên sân hận họ; lại nghĩ tại ta tạo oan gia, nên khiến hữu tình ấy đối với ta phát khởi ác nghiệp như thế, chỉ nên tự trách mình, chẳng nên chấp người. Bồ Tát khi quán sát kỹ như thế, đối với hữu tình sanh lòng thương xót sâu xa, tất cả các sự việc như trên gọi là an thọ nhẫn.
- Quán sát nhẫn là đại Bồ Tát nghĩ thế này: Các hành như huyễn, chẳng thật, chẳng được tự tại, cũng như hư không, không có ngã, hữu tình, mạng giả… cái biết, cái thấy đều chẳng thể nắm bắt được, chỉ là hư vọng phân biệt mà khởi, thì ai chê trách ta, ai mắng nhiếc ta, ai lăng nhục ta, ai dùng các thứ ngói, đá, dao, gậy gia hại ta, ai thọ nhận sự mắng nhiếc gia hại ấy? Đều là tự tâm hư vọng phân biệt. Ta nay chẳng nên phát khởi chấp trước các pháp như thế, do tự tánh không, thắng nghĩa không, nên hoàn toàn không có sở hữu. Khi Bồ Tát quan sát kỹ như thế, như thật biết rõ các hành vắng lặng, đối các pháp chẳng sanh tưởng gì khác; như thế gọi là quán sát nhẫn.
Đại Bồ Tát ấy, vì tu tập hai thứ nhẫn như thế, nên có thể viên mãn an nhẫn Ba la mật vô tướng; do viên mãn an nhẫn Ba la mật vô tướng nên liền đạt được Vô sanh pháp nhẫn.
Phật bảo: Thiện Hiện! Do thế lực tu hành nhẫn nhục này nên các pháp ác bất thiện dù nhỏ nhiệm cũng chẳng sanh, vì vậy gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Pháp này khiến cho ngã và ngã sở, các phiền não, mạn nghi v.v... rốt ráo dứt diệt. Nhẫn này gọi là trí; đắc trí này nên gọi là đạt được Vô sanh pháp nhẫn.
Các Đại Bồ Tát vì thành tựu nhẫn thù thắng như thế, nên vượt hẳn tất cả Thanh văn, Độc giác.
Đại Bồ Tát ấy, an trụ trong Vô sanh pháp nhẫn thù thắng như thế, hành Bồ Tát đạo, có thể viên mãn Đạo tướng trí; nên thường chẳng xa lìa 37 pháp trợ đạo; cũng chẳng xa lìa tam giải thoát môn; cũng chẳng xa lìa thần thông dị thục. Đại Bồ Tát ấy, do chẳng xa lìa thần thông dị thục, nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Đại Bồ Tát ấy, do thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật được viên mãn, nên chỉ trong sát na tương ưng diệu tuệ, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Như vậy, đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, có thể mau viên mãn an nhẫn Ba la mật vô tướng; vì được viên mãn an nhẫn Ba la mật vô tướng, nên có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí, tất cả Phật pháp đều được viên mãn.
Lại nữa Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa; biết rõ như thật năm thủ uẩn ấy như mộng, như vang, như tượng v.v… không có thật tướng rồi, phát khởi tinh tấn thân tâm dõng mãnh. Đại Bồ Tát ấy vì phát khởi tinh tấn thân dõng mãnh nên dẫn phát thần thông thù thắng; do thần thông này nên đi đến thế giới khắp mười phương cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn; ở chỗ chư Phật, trồng các cội đức, lợi ích an lạc vô lượng hữu tình; cũng có thể nghiêm tịnh các cõi Phật. Đại Bồ Tát ấy, do thân tinh tấn, thành thục hữu tình, tùy theo căn cơ của họ, phương tiện an lập ở pháp ba thừa, đều khiến rốt ráo.
Như thế, Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật do thân tinh tấn có thể mau viên mãn tinh tấn Ba la mật vô tướng.
Thiện Hiện! Đại Bồ Tát ấy, vì phát khởi tinh tấn tâm dõng mãnh nên dẫn phát các chi Thánh đạo vô lậu, nhiếp thọ tinh tấn, thì có thể viên mãn tinh tấn Ba la mật và các thiện pháp. Đó là 37 pháp trợ đạo; tam giải thoát môn; bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ; tứ Thánh đế; lục Ba la mật; năm loại mắt, sáu phép thần thông; pháp môn Tam ma địa, Đà la ni; thập vị Bồ Tát Tam thừa; 18 pháp không; chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế…; Phật mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng; pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Đại Bồ Tát ấy, an trụ trong đó, có thể viên mãn Nhất thiết tướng trí; do Nhất thiết tướng trí viên mãn nên vĩnh viễn đoạn trừ được tất cả tập khí phiền não tương tục; do vĩnh viễn đoạn trừ phiền não nên các tướng và vẻ đẹp thành tựu. Do các tướng và vẻ đẹp thành tựu, nên chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, phóng đại quang minh chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới, khiến các thế giới sáu thứ chấn động, chuyển bánh xe chánh pháp. Do đó, các loại hữu tình trong Tam thiên đại thiên thế giới, nhờ thấy hào quang, nghe biến động, nghe chánh pháp âm, đối với ba thừa, được Bất thối chuyển.
Như thế, Đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, viên mãn tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật, có thể hoàn thành lợi ích mình và người, mau viên mãn tất cả pháp Phật, chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao.
Cụ thọ Thiện Hiện lại hỏi Phật: Bạch Thế Tôn! Làm sao đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa mà có thể viên mãn tịnh lự Ba la mật vô tướng?
Phật Bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã như thật rõ biết năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa, không có thật tướng rồi, nhập sơ thiền và an trụ trọn vẹn, nhập đệ nhị, đệ tam, đệ tứ thiền, an trụ trọn vẹn; nhập từ vô lượng an trụ trọn vẹn, nhập bi, hỷ, xả vô lượng an trụ trọn vẹn; nhập định Không vô biên xứ, an trụ trọn vẹn; nhập Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng phi phi tưởng xứ định an trụ trọn vẹn; tu Tam ma địa giải thoát; tu Tam ma địa như điển, tu Tam ma địa Thánh chánh, Tam ma địa Kim cang dụ, an trụ trong Tam ma địa Kim cang dụ; trừ Tam ma địa của Như Lai ra, tất cả các Tam ma địa khác hoặc cùng với Tam ma địa Thanh văn, hoặc cùng với Tam ma địa Độc giác, hoặc vô lượng Tam ma địa khác, tất cả như thế đều có thể thân chứng và an trụ trọn vẹn; nhưng đối với tất cả Tam ma địa chẳng sanh đắm trước, cũng chẳng đắm trước quả sở đắc của chúng. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy như thật rõ biết tất cả Tam ma địa và tất cả pháp đều không có thật tướng, đều lấy vô tánh làm tự tánh. Chẳng nên đem pháp vô tướng đắm trước pháp vô tướng, cũng chẳng nên đem pháp vô tánh làm tự tánh đắm trước pháp vô tánh làm tự tánh. Do chẳng đắm trước Tam ma địa, nên đại Bồ Tát này trọn chẳng thuận theo thế lực tĩnh lự, vô lượng, vô sắc định của các Tam ma địa mà sanh cõi Sắc, cõi Vô sắc. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy, đối tất cả cõi đều vô sở đắc. Với kẻ vào định và chỗ vào định, do đây vào định cũng vô sở đắc. Đại Bồ Tát ấy, đối với tất cả pháp, vì không có sở đắc, nên có thể mau viên mãn tịnh lự Ba la mật vô tướng. Nhờ tịnh lự Ba la mật này, nên siêu vượt các bậc Thanh văn và Độc giác.
Đại Bồ Tát ấy, vì khéo học pháp không nội, pháp không ngoại, pháp không nội ngoại, pháp không không… cho đến pháp không không tánh tự tánh, nên đại Bồ Tát ấy, ở trong các pháp không đó, chẳng đắc tất cả pháp, mà an trụ trong đó, chẳng đắc quả Dự lưu, chẳng đắc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác, chẳng đắc tất cả Bồ Tát hạnh, chẳng đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Vì sao? Vì các tánh không ấy đều rỗng không, nên đại Bồ Tát ấy, do an trụ pháp không này mà siêu vượt các bậc Thanh văn và Độc giác, chứng nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh(6).
Đại Bồ Tát chứng nhập bậc Chánh tánh ly sanh rồi, viên mãn tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Đại Bồ Tát ấy còn chẳng theo thế lực của định mà sanh, huống là theo thế lực phiền não như xan tham v.v… Đại Bồ Tát ấy nếu an trụ trong đây mà tạo tác các nghiệp là điều không thể có. Đại Bồ Tát ấy tuy an trụ trong các nhóm hành như huyễn, làm các điều lợi ích như thật cho các hữu tình, nhưng chẳng đắc huyễn và các hữu tình. Đại Bồ Tát ấy đối với các việc vô sở đắc như thế, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, mau chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân mầu nhiệm, độ vô lượng chúng sanh.
Như thế, đại Bồ Tát tu hành Bát Nhã, có thể mau viên mãn tịnh lự Ba la mật vô tướng; do tịnh lự Ba la mật mau viên mãn này, nên chóng chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân, độ vô lượng chúng sanh; pháp luân như thế gọi là vô sở đắc, cũng gọi là không, vô tướng, vô nguyện, có khả năng làm lợi ích to lớn cho chúng hữu tình.
Đại Bồ Tát khi hành Bát Nhã thậm thâm, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa, viên mãn Bát Nhã. Đại Bồ Tát ấy như thật rõ biết tất cả pháp đều như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng v.v… có thể viên mãn Bát nhã Ba la mật vô tướng.
Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa với Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Làm sao đại Bồ như thật biết rõ tất cả pháp đều như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa?
Phật bảo: Thiện Hiện! Đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, chẳng thấy mộng, chẳng thấy người thấy mộng; chẳng nghe tiếng vang, chẳng thấy người nghe tiếng vang; chẳng thấy ảnh tượng, chẳng thấy người thấy ảnh tượng; chẳng thấy bóng sáng, chẳng thấy người thấy bóng sánh; chẳng thấy bóng nắng, chẳng thấy người thấy bóng nắng; chẳng thấy trò huyễn, chẳng thấy người thấy trò huyễn; chẳng thấy ảo thành, chẳng thấy người thấy ảo thành; chẳng thấy việc biến hóa, chẳng thấy người thấy việc biến hóa. Vì sao? Vì mộng và người thấy mộng, tiếng vang và người nghe tiếng vang, ảnh tượng và người thấy ảnh tượng v.v… đều là do chấp trước điên đảo của phàm phu ngu si. Các bậc A la hán, Độc giác, Bồ Tát và chư Như Lai Ứng Chánh đẳng giác đều chẳng thấy mộng, cũng chẳng thấy người thấy mộng, đều chẳng nghe tiếng vang, cũng chẳng thấy người nghe tiếng vang, đều chẳng thấy ảnh tượng, cũng chẳng thấy người thấy ảnh tượng v.v… Vì sao? Vì tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, chẳng thành, chẳng thật, vô tướng, vô vi, chẳng thật có tánh ngang như Niết bàn...
Nếu tất cả pháp đều lấy vô tánh làm tự tánh, chẳng thành, chẳng thật, vô tướng, vô vi, chẳng thật có tánh ngang như Niết bàn, làm sao đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đối với tất cả pháp khởi tướng có tánh, có thành, có thật, có tưởng, có vi, có thật tánh, chẳng tịch diệt. Nếu khởi tưởng như vậy thì không có lý. Vì sao? Nếu đối tất cả pháp có chút tự tánh có thành, có thật, có tướng, có vi, có thật tánh, chẳng tịch diệt có thể nắm bắt được, thời sở hành Bát Nhã chẳng phải là Bát Nhã. Như thế, Đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã, chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ, tưởng, hành, thức; chẳng chấp trước 12 xứ, 18 giới; chẳng chấp trước 12 nhân duyên; chẳng chấp trước Dục giới, Sắc, Vô sắc giới; chẳng chấp trước 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, bốn Thánh đế, lục Ba la mật; chẳng chấp trước 18 pháp không; chẳng chấp trước chơn như, pháp giới, pháp tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế…; chẳng chấp Nhất thiết trí… cho đến chẳng chấp trước quả vị Giác ngộ tối cao. Đại Bồ Tát ấy khi tu hành Bát nhã Ba la mật do chẳng chấp trước nên có thể viên mãn Bồ Tát thập địa, nhưng ở trong đó chẳng sanh tham trước.
Đại Bồ Tát ấy tuy tu hành Bát Nhã nhưng chẳng thấy đắc Bát Nhã; do chẳng thấy đắc Bát Nhã nên cũng chẳng thấy đắc tất cả pháp; tuy quán Bát Nhã nhiếp thọ tất cả pháp, nhưng đối với tất cả pháp ấy hoàn toàn vô sở đắc. Vì sao? Vì các pháp như thế cùng với Bát nhã Ba la mật này không hai, không khác. Vì sao? Vì tánh của tất cả pháp chẳng thể phân biệt, nói là chơn như, nói là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vì pháp nghĩa không xen tạp, không sai khác vậy.
Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn! Nếu tánh tất cả pháp đều không xen tạp, không sai khác, làm sao có thể nói đó là thiện là phi thiện, là hữu lậu là vô lậu, là thế gian là xuất thế gian, là hữu vi là vô vi, có vô lượng pháp môn sai khác như thế?
Phật bảo:
- Thiện Hiện! Theo ông nghĩ trong thật tánh tất cả pháp, có pháp nào khá nói là thiện là phi thiện, là hữu lậu là vô lậu, là thế gian là xuất thế gian, là hữu vi là vô vi, là quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, Bồ Tát hạnh, là chư Phật Vô Thượng Bồ đề?
Thiện Hiện đáp rằng:
- Bạch Thế Tôn! Chẳng có vậy. Bạch Thiện Thệ! Chẳng có vậy.
Phật nói:
- Thiện Hiện! Đại Bồ Tát đối với tất cả pháp như thế không hành, không đắc, không nói, không chỉ.
- Này Thiện Hiện! Do nhân duyên này nên biết, tất cả pháp không xen tạp, không sai biệt, không tướng, không sanh, không diệt, không ngại, không nói, không chỉ. Thiện Hiện! Nên biết, ta khi xưa tu hành Bồ Tát đạo, đối với tự tánh của pháp, hoàn toàn không có sở đắc, hoặc sắc, hoặc thọ, tưởng, hành, thức; hoặc 12 xứ, 18 giới; hoặc 12 nhân duyên; hoặc Dục giới, hoặc Sắc, Vô sắc giới; hoặc thiện hoặc phi thiện, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi hoặc vô vi, như thế cho đến, hoặc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác, hoặc các Bồ Tát hạnh, hoặc quả vị Giác ngộ tối cao, Ta đối với tự tánh của các pháp như thế, đều không có sở đắc.
Này Thiện Hiện! Như thế, đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa tòa Bồ đề, sắp chứng quả vị Giác ngộ tối cao, thường nên khéo biết tự tánh các pháp. Nếu thường khéo biết tự tánh các pháp thì có khả năng khéo thanh tịnh đạo Bồ đề, cũng có khả năng viên mãn Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, an trụ pháp ấy, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao, chuyển pháp luân mầu nhiệm, dùng pháp ba thừa, phương tiện điều phục các loại hữu tình, khiến mau được giải thoát ba cõi.
Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát lấy vô sở đắc làm phương tiện, học Bát nhã Ba la mật như thế, có khả năng mau viên mãn tất cả Phật pháp”.
Thích nghĩa:
(1). Luật nghi giới (Phạm: Saôvara-zìla) còn gọi là nhiếp luật nghi giới, cũng gọi Tự tính giới, Nhất thiết Bồ Tát giới. Là một trong Tam tụ tịnh giới. Nhiếp hàm ý là thâu tóm hết, tức là tuân thủ tất cả các loại giới luật do đức Phật chế định, tích thiện ngừa ác; là giới pháp do 7 chúng (tỉ khưu, tỉ khưu ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni, ưu bà tắc, ưu bà di) thụ trì, gồm có 5 giới, 8 giới, 10 giới và Cụ túc giới... Theo Thích môn qui kính nghi quyển thượng thì Nhiếp luật nghi giới có công năng đoạn trừ các điều ác, là nhân của pháp thân. (X. Kinh Bồ Tát địa trì Q.4; luận Du già sư địa Q.40; luận Thành duy thức Q.9)- Phật Quang từ điển.
(2). Hữu biểu giới, vô biểu giới: Giới cấm cốt ngăn ngừa nghiệp có thể xảy ra hay sẽ xảy ra. Phật Quang từ điển giải thích biểu và vô biểu như sau: Biểu vô biểu là nói tắt của Biểu nghiệp (Phạm: Vijĩapti-karman) và Vô biểu nghiệp (Phạm: Avijĩapti-karman). Cũng gọi Hữu biểu nghiệp vô biểu nghiệp, Hữu biểu sắc vô biểu sắc, Tác vô tác, Giáo vô giáo. Nghiệp biểu hiện ra ở ngoài khiến người khác biết rõ, là Biểu nghiệp; nghiệp không hiển hiện ra bên ngoài và người khác không biết được, là Vô biểu nghiệp. Nghĩa là những hành vi biểu hiện ra bên ngoài, như động tác của cơ thể, lời nói, âm thanh, khiến người khác thấy được, nghe được, gọi là Biểu nghiệp. Trái lại, nghiệp do thân ngữ dẫn khởi, nó có công năng cản trở thiện hoặc ác, nhưng người khác không thấy được, gọi là Vô biểu nghiệp. Thuyết nhất thiết hữu bộ của Tiểu thừa chủ trương: Trong ba nghiệp thân, ngữ, ý thì chỉ có thân nghiệp, ngữ nghiệp là có biểu nghiệp và vô biểu nghiệp. Và cho rằng thân biểu nghiệp lấy hình sắc làm thể, ngữ biểu nghiệp lấy âm thanh làm thể, Vô biểu nghiệp lấy sắc ở trong pháp xứ làm thể, đều là pháp có thật. Còn đối với Ý nghiệp thì không lập Biểu nghiệp, Vô biểu nghiệp. Biểu nghiệp thông cả ba tính thiện, ác, vô ký, nó do Tầm, Tứ phát khởi, cho nên nó tồn tại ở cõi Dục và Sơ thiền. Vô biểu nghiệp thì chỉ thông với hai tính thiện, ác, nên nó chỉ tồn tại ở cõi Dục và cõi Sắc. Các nhà Duy thức Đại thừa thì cho rằng vì ý nghiệp có khả năng biểu thị tự ngã trong nội tâm, nên không lập vô biểu nghiệp (có thuyết nói cũng lập vô biểu nghiệp) và chủ trương thể của biểu nghiệp và vô biểu nghiệp đều là có giả. Luận Thành duy thức quyển 1 (Đại 31, 4 hạ), nói: Thân biểu nghiệp chẳng phải có thật, nhưng vì tâm là nhân, khiến biến hiện ra các sắc tướng nối nhau sinh diệt, chuyển đến các phương khác, tựa hồ như có động tác biểu thị tâm, nên mới tạm gọi là Thân biểu. Ngữ biểu cũng chẳng phải thật có tính của tiếng nói, vì trong một sát na tiếng nói không bày tỏ rõ ràng được, mà phải trải qua nhiều sát na nối tiếp nhau, cho nên tính của tiếng nói chẳng phải có thật. Vì sắc hữu đối ở bên ngoài trước đã bị phá, nhưng vì tâm là nhân, nên thức mới biến ra tựa hồ như có tiếng nói, rồi sinh diệt liên tục dường như có biểu thị, nên tạm gọi là Ngữ biểu. [X. Kinh Ưu bà tắc giới Q.6; luận Câu xá Q.13; luận Thuận chính lý Q.33; luận Đại tì bà sa Q.122, Q.123; luận Thành duy thức Q.8; luận Du già sư địa Q.53; luận Tạp a tì đàm tâm Q.3; Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương Q.3 phần cuối].
(3). Hiện hành giới và bất hiện hành giới: Hai loại giới này cốt ngăn ngừa những điều xấu ác biểu hiện ra bên ngoài bằng hành động (tạo tác) hay những tư tưởng xấu ác thầm kín che dấu bên trong tâm tư.
(4). Oai nghi giới và phi oai nghi giới: Oai nghi giới là giữ thân oai nghi trong khi đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào cũng tỏ ra mẫu mực, mô phạm… lấy thân làm thân giáo. Phi oai nghi giới: Giữ giới để lừa phỉnh, dối gạt người để được cung kính, lợi dưỡng, danh vọng…
(5). Tô Phiến Đa Như lai: Kinh MHBNBLMĐ dịch gọi là Tu Phiến Đa.
(6). Bồ Tát Chánh tánh ly sanh: Không có một định nghĩa nào nói rõ phạm trù của một vị Bồ Tát gọi là Chánh tánh ly sanh. Tuy nhiên, thông qua cơ sở tu tập và hành trì dưới đây của một vị Bồ Tát, chúng ta có thể xác định đó là Bồ Tát có danh nghĩa là Chánh tánh ly sanh:
1- Có sở đắc là có phân biệt chấp trước, có tạo tác thi vi, nên các tập khí phiền não sanh (khởi). Vô sở đắc là không thủ, không xả, vô chấp, nên xa lìa các các tập khí phiền não; vì vậy, các phiền não lậu hoặc chẳng sanh. Bồ Tát đoạn trừ tất cả lậu hoặc phiền não, không để chúng sanh khởi thì chứng tánh, nên gọi là Bồ Tát Chánh tánh ly sanh.
2- Trong tiểu mục 17, nói về Lục Ba la mật, phần thứ I Tổng luận có ghi rằng: Có thể nói một vị Bồ Tát quán sát và thấu triệt 18 pháp Không mà chẳng thấy, chẳng nương “thập bát không thì có thể gọi là Bồ Tát Chánh tánh ly sanh”.
3- Mười đạo ly sanh của chư đại Bồ Tát, gồm: 1/. Xuất sanh Bát nhã Ba la mật, mà luôn quán sát tất cả chúng sanh, 2/. Xa rời những kiến chấp mà độ thoát tất cả chúng sanh bị kiến chấp ràng buộc, 3/. Chẳng tưởng niệm tất cả tướng, mà chẳng bỏ tất cả chúng sanh chấp tướng, 4/. Siêu hóa tam giới, mà thường ở tại tất cả thế giới, 5/. Xa lìa phiền não, mà sống chung với tất cả chúng sanh, 6/. Đắc pháp ly dục mà thường dùng đại bi thương xót tất cả chúng sanh nhiễm trước dục lạc, 7/. Thường thích tịch tịnh, mà luôn thị hiện tất cả quyến thuộc, 8/. Rời sanh thế gian, mà chết đây sanh kia khởi hạnh Bồ Tát, 9/. Chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian, mà chẳng dứt tất cả việc làm của thế gian, 10/. Chư Phật Bồ Đề đã thị hiện ra trước mà chẳng bỏ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát. Như thế có thể hiểu rằng, những vị Bồ tác nào thông đạt mười đạo ly sanh trên đều có thể gọi là Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. (Tự điển Phật học Việt Anh của Thiện Phúc)
Lược giải:
Sáu pháp Ba la mật, cũng còn gọi là sáu pháp đáo bỉ ngạn, vì người học các pháp này viên mãn thì có thể sang bờ bên kia. Bồ Tát học các pháp này thì sẽ chứng Vô sanh pháp nhẫn hay Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, đắc Đạo tướng trí, tháo bỏ được tất cả tập khí phiền não tương tục và chỉ trong sát na tương ưng với diệu huệ thì thành bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.
Lục Ba la mật được lặp đi lặp lại nhiều lần từ đầu tới cuối kinh Đại Bát Nhã , đặc biệt trong các phẩm “Xảo Tiện Hành”, “Tam Tiệm Thứ”, “Vô Tướng Vô Đắc”, “Pháp Nghĩa Vô Tạp” từ quyển 365 cho đến hết quyển 379 mà chúng ta có dịp tụng qua. Không những thế, sáu Hội sau cùng từ Hội thứ XI đến Hội thứ XVI bắt đầu quyển 579 đến hết quyển 600, kinh lại trùng tuyên sáu pháp Ba la mật này một lần nữa hết sức chi li. Sự trùng tuyên này không những nói lên tánh cách quan trọng trong việc hành trì Bát Nhã mà còn mang ý nghĩa là “ru ngủ” những cảm quan và ý thức của hành giả Bát Nhã. Cảm quan và ý thức lúc nào và bất cứ ở đâu cũng dễ phát sanh phân biệt. Vì phân biệt là sở trường của cảm quan và ý thức. Phân biệt tánh tướng thể dụng, phân biệt năng sở, chủ khách v.v... Một khi phân biệt xảy ra thì thay vì là nhất thể lại biến thành đa thù, tạo biên giới ngăn chia chủ khách và cuối cùng dẫn tới chấp trước, hơn thua, được mất... Tâm vốn dĩ là một, tròn đầy, bây giờ biến thành mờ khuyết tẻ nhạt bởi chấp trước. Do chấp trước mà xa lìa Bát Nhã! Vì vậy, mà Kinh Đại Bát Nhã lặp đi lặp lại nhiều lần sáu pháp Ba la mật này.
- Phẩm “Xảo Tiện Hành” thuyết rằng: “Đại Bồ Tát vì Bồ đề nên khi tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, không ích, không tổn, không tăng, không giảm, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh. Tu tất cả các pháp Phật cũng lại như thế. Vì sao? Vì Bồ đề, nên khi hành Bát Nhã thậm thâm, đại Bồ Tát đối với tất cả pháp hoàn toàn không dùng sở duyên làm phương tiện, chẳng vì ích tổn, chẳng vì tăng giảm, chẳng vì sanh diệt, chẳng vì nhiễm tịnh bất cứ lúc nào và ở đâu.
(…) Đại Bồ Tát ấy tuy hành bố thí nhưng không nghĩ việc bố thí, không nghĩ người nhận, không nghĩ người cho, cũng không nghĩ đến ngã, ngã sở. Vì sao? Vì đại Bồ Tát ấy quán tự tướng của tất cả pháp đều không, không khởi, không thành, không chuyển, không diệt, nhập các pháp tướng, biết tất cả pháp vô tác, vô năng, nhập các hành tướng. Đại Bồ Tát ấy thành tựu phương tiện thiện xảo như thế, luôn luôn tăng trưởng thiện căn thù thắng. Do thiện căn thù thắng, nên có thể hành bố thí, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; nhưng chẳng mong cầu đắc quả bố thí, nghĩa là chẳng tham trước cảnh giới khả ái do việc bố thí mà được, cũng chẳng tham cầu báo đắc tốt đẹp trong sanh tử do bố thí mà được, chỉ vì cứu hộ người không được cứu hộ và muốn giải thoát cho người chưa được giải thoát mà hành bố thí Ba la mật”.
Tu hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã cũng có ý nghĩa tương tự như thế!
- Phẩm “Học Đạo Khắp” tụng rằng: “Đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo thì tăng trưởng thiện căn thù thắng. Do thiện căn tăng trưởng thù thắng, nên có khả năng hành Bát nhã Ba la mật, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật; tuy hành Bát nhã Ba la mật, nhưng chẳng mong cầu được giàu sang, thọ mệnh lâu dài, sanh vào dòng quý tộc, sanh Thiên hay đắc quả của tuệ, nghĩa là chẳng tham trước cảnh giới khả ái, cũng chẳng tham cầu quả báo tốt đẹp do tu lục Ba la mật mà được, chỉ vì cứu hộ kẻ không ai cứu hộ và muốn giải thoát người chưa giải thoát, mà tu hành diệu huệ đến bờ kia.
Sở dĩ, đại Bồ Tát được diệu huệ như vậy, là vì các đại Bồ Tát đối với tự tánh vô tánh của sắc bất động; đối với tự tánh vô tánh của thọ, tưởng, hành, thức bất động; đối với tự tánh vô tánh của 12 xứ, 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề, cũng bất động. Vì sao? Vì tự tánh các pháp tức là vô tánh, vô tánh chẳng năng hiện chứng vô tánh”.
- Phẩm “Tam Tiệm Thứ” tụng rằng: “Bồ Tát khi hành Bát Nhã không tưởng hữu, tưởng vô. Nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô thì đó tức là Bồ Tát thuận nhẫn; nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô tức là tu đạo; nếu không tưởng hữu cũng không tưởng vô tức là đắc quả. Nên biết, vô tánh tức là đạo Bồ Tát, vô tánh tức là hiện quán”.
Tưởng hữu, tưởng vô là nhị nguyên đối đãi, mắc vào nhị nguyên tức không thoát khỏi ngỏ cụt hai đầu hay nói khác là không tránh khỏi sự câu thúc của ý thức phân biệt. Nếu không tránh khỏi ý thức phân biệt, thì chắc chắn sẽ đưa đến chấp trước, tâm đại bi không còn ở đó nữa. “Chỉ đạt tới Giác ngộ khi nào không có chấp trước, không móng khởi tâm niệm, không có hai tướng hữu và vô; vì giác ngộ là vô trước, và tự tánh của nó là không tự tánh”.
- Phẩm “Vô Tướng Vô Đắc” tụng rằng: “Nếu đại Bồ Tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật, dùng tâm ly tướng tu hành lục Ba la mật, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 phép trợ đạo, tứ Thánh đế, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao, chẳng thấy mình tu, chẳng thấy mình xả việc này, đối với việc này..., do việc này..., vì việc này... mà tu tất cả pháp nói trên, như thế là an trụ trong tâm vô lậu lìa tướng, không nhiễm ô, không chấp trước thì chẳng thấy sở tu, chẳng thấy năng tu, cho đến chẳng thấy tất cả pháp Phật; như thế là đại Bồ Tát an trụ tâm vô lậu mà tu tất cả pháp.
(…) Lìa chấp đắm, an trụ tâm vô lậu mà hành Bố thí, dùng tâm ly tướng mà tu lục Ba la mật và tất cả pháp Phật, đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, do tâm vô lậu ly tướng, nên có thể ở trong tất cả pháp vô tướng, vô giác, vô đắc, vô ảnh, vô tác, viên mãn Bát nhã Ba la mật, cũng có thể viên mãn các công đức khác”.
- Phẩm “Pháp Nghĩa Vô Tạp” thuyết rằng: “Khi đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm, an trụ trong năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng, như bóng sáng, như ánh nắng, như huyễn sự, như thành tầm hương, như việc biến hóa tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát Nhã. Như thật biết rõ năm thủ uẩn như mộng, như vang, như tượng v.v… đều vô tướng. Vì sao? Vì các mộng, vang, tượng v.v… đều không có tự tánh. Nếu pháp không có tự tánh, thời pháp này vô tướng. Nếu pháp vô tướng, pháp này là nhất tướng chỗ gọi vô tướng.
Do nhân duyên này, phải biết tất cả sự bố thí là vô tướng, người cho vô tướng, người nhận vô tướng, vật cho vô tướng. Nếu biết như vậy mà hành bố thí, thì có thể viên mãn tu hành bố thí Ba la mật vô tướng; nếu có thể viên mãn tu hành bố thí vô tướng, thì chẳng xa lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; an trụ bố thí, tịnh giới, an nhẫn v.v… như thế thì có thể viên mãn tất cả pháp Phật”.
Tới đây, phẩm “Pháp Nghĩa Vô Tạp” nói rằng: “Đại Bồ Tát ấy tuy tu hành Bát Nhã nhưng chẳng thấy đắc Bát Nhã; do chẳng thấy đắc Bát Nhã nên cũng chẳng thấy đắc tất cả pháp; tuy quán Bát Nhã nhiếp thọ tất cả pháp, nhưng đối với tất cả pháp ấy hoàn toàn vô sở đắc. Vì sao? Vì các pháp như thế cùng với Bát Nhã này không hai, không khác. Vì sao? “Vì tánh của tất cả pháp chẳng thể phân biệt, nói là chơn như, là pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, vì pháp nghĩa không xen tạp, không sai khác vậy”.
Bao nhiêu dẫn chứng trên cũng đủ chứng minh giáo lý Phật dạy chẳng có gì phức tạp khó hiểu miễn đừng phân biệt các pháp, thì pháp nào pháp nào cũng bình đẳng, như như. Nói như thế này hay thế nọ là tạp loạn, hý luận. Thấy như vậy, nói như vậy là vô tạp vô loạn, tâm hành dứt, ngôn ngữ đoạn, mới bặt hý luận.
---o0o---