Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Phẩm “Tướng Không” (1)

09/12/202021:10(Xem: 7994)
18. Phẩm “Tướng Không” (1)

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-492


 

XVIII. PHẨM “TƯỚNG KHÔNG”(1)

Phần cuối quyển 549 đến đầu quyển 550, Hội thứ IV, TBBN.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

 

Gợi ý:

Tựa của phẩm này là nói về “Tướng Không” nhưng rất tiếc phần đầu của phẩm này chỉ nói hai câu là “Nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô tánh, lìa nhiễm, Niết bàn tịch tĩnh” và “Tất cả các pháp cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa”.

Cuối quyển 549 lại thuyết là về công đức của việc thọ trì Bát Nhã.

Phần sau của phẩm này tức quyển 550 mới nói về “Tướng Không”, nhưng thuyết rất ngắn đối với sự mong chờ của chúng ta.

Phần còn lại, lại thuyết về “Tướng Như”, cũng thuyết ngắn như vậy!

 

Tóm lược:

 

(Nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa là không,

vô tướng, vô nguyện…)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát Bất thối chuyển thành tựu công đức rộng lớn thật hi hữu.

Bạch Thế Tôn! Các tướng trạng của đại Bồ Tát Bất thối chuyển giảng nói nhiều hằng hà sa số kiếp, do đức Phật đã giảng về các tướng trạng, chỉ rõ sự thành tựu vô lượng công đức thù thắng của đại Bồ Tát Bất thối chuyển. Cúi xin đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác giảng lại nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa, để các Bồ Tát được an trụ trong ấy và tu các công đức mau được viên mãn.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay! Nay ngươi mới có thể vì các chúng đại Bồ Tát thỉnh hỏi đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa, để các Bồ Tát được an trụ trong ấy và tu các công đức mau được viên mãn.

Thiện Hiện nên biết: Nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, vô tánh, lìa nhiễm, Niết bàn tịch tĩnh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có pháp này được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa, hay tất cả pháp đều được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tất cả các pháp cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa. Vì sao? Vì tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát Nhã sâu xa.

Thiện Hiện! Vì sao nói tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa?

Thiện Hiện nên biết: Như như sâu xa nên sắc sâu xa; như như sâu xa nên thọ, tưởng, hành, thức cũng sâu xa. Thế nên tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa.

Này Thiện Hiện! Sắc như sâu xa nên sắc cũng sâu xa; thọ, tưởng, hành, thức như sâu xa nên thọ, tưởng, hành, thức cũng sâu xa. Thế nên tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa.

Này Thiện Hiện! Nếu không có sắc, thì đó là sắc sâu xa. Nếu không có thọ, tưởng, hành, thức, thì đó là thọ, tưởng, hành, thức sâu xa. Thế nên tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng được gọi là nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa. (Q.549, TBBN)

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phương tiện sâu xa vi diệu đem các ví dụ khác về các sắc để hiển thị Niết bàn; đem các ví dụ khác về các thọ, tưởng, hành, thức để hiển thị Niết bàn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy!  Đúng như lời ngươi nói!

Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ Tát nên đối với nghĩa xứ tương ưng Bát nhã này suy tư chắc chắn, kỹ càng và nghĩ: Nay ta nên như Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ. Nay ta nên như Bát nhã sâu xa đã dạy mà học.

 

(Hành pháp thí, thì công đức đó vô lượng vô biên)

 

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát nào có thể đối với nghĩa xứ tương ưng Bát nhã sâu xa này suy tư chắc chắn, kỹ càng, như Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ, như Bát nhã sâu xa đã dạy mà học. Đại Bồ Tát này do nương vào Bát nhã sâu xa này suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học cho đến chỉ một ngày, phước đức đạt được cũng vô lượng, vô biên.

Thiện Hiện nên biết: Đại Bồ Tát này nương vào Bát nhã, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học, tùy theo đó có thể giải thoát được bao nhiêu tội lỗi làm chướng ngại đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, đại Bồ Tát nương vào Bát nhã sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học, chóng chứng đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết: Nếu đại Bồ Tát nương vào Bát nhã sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học trải qua một ngày đêm, thì công đức này đạt được vượt hơn tất cả công đức rộng hành bố thí của các Bồ Tát xa lìa Bát nhã sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nương vào Bát nhã sâu xa, suy tư chắc chắn, kỹ càng, tinh tấn tu học trải qua một ngày đêm, công đức đạt được vô lượng vô biên, vuợt hơn các Bồ Tát xa lìa Bát Nhã sâu xa, trải qua hằng hà sa số đại kiếp đem các vật cúng dường các bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai. 

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nương vào Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã, công đức đạt được vô lượng vô biên, vượt hơn các Bồ Tát xa lìa Bát nhã sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nương vào Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm, đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình, công đức đạt được vô lượng, vô biên, vượt hơn các Bồ Tát xa lìa Bát nhã sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp đem pháp vi diệu bố thí cho các hữu tình.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nương vào Bát nhã sâu xa đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm tu hành các thứ tài thí và pháp thí, ở chỗ vắng vẻ, chánh niệm tư duy, trước đã tu các loại phước đức nghiệp, cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, công đức đạt được vô lượng, vô biên vượt hơn các Bồ Tát xa lìa Bát nhã sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành các thứ tài thí và pháp thí, ở chỗ vắng vẻ, chánh niệm tư duy, trước đã tu hành các loại phước đức nghiệp, cho các hữu tình một cách bình đẳng và cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát nương vào Bát nhã đã dạy mà trụ, trải qua một ngày đêm duyên khắp công đức căn lành của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử ba đời, hòa hợp tương xứng, hiện tiền tùy hỷ, cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng Vô Thượng Bồ đề, công đức đạt được vô lượng, vô biên vượt hơn các Bồ Tát xa lìa Bát nhã sâu xa trải qua hằng hà sa số đại kiếp duyên khắp công đức căn lành của chư Phật Thế Tôn và các đệ tử ba đời, hòa hợp tương xứng, hiện tiền tùy hỷ, cho các hữu tình một cách bình đẳng, cùng nhau hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Hết Q.549, TBBN)

 

Quyển thứ 550    

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Như Thế Tôn dạy: Các hành đều do phân biệt tạo ra, sanh từ vọng tưởng nên hoàn toàn chẳng thật có. Do nhân duyên nào mà các Bồ Tát đó đạt được công đức vô lượng, vô biên như vậy?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Nhưng các Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật cũng nói các hành đều do phân biệt tạo ra, không, vô sở hữu, hư vọng không thật. Vì sao?

Vì các đại Bồ Tát này đã khéo học pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không, đã tự quán sát các hành đều do phân biệt tạo ra, là Không, thật vô sở hữu, hư vọng không thật. Như vậy, nên không lìa Bát nhã; vì không lìa Bát nhã, nên đã đạt được công đức vô lượng, vô biên.

 

(Tất cả pháp đều không)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên có gì sai khác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vô lượng là quá các phần lượng; vô số là không thể đếm hết.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phải chăng có nhân duyên, sắc cũng có thể nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng có thể nói vô lượng, vô biên?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì có nhân duyên nên sắc cũng nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng nói vô lượng, vô biên.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nhân duyên nào mà sắc cũng nói vô lượng, vô biên; thọ, tưởng, hành, thức cũng nói vô lượng, vô biên?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tánh sắc Không, nên cũng nói là vô lượng, vô biên. Tánh thọ, tưởng, hành, thức Không, nên cũng nói là vô lượng, vô biên. (Q.550, TBBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Không hay tất cả pháp cũng đều Không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Trước đây Ta đã chẳng từng nói tất cả pháp đều không đó sao?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Tuy Phật thường nói các pháp đều Không, nhưng các hữu tình không có kiến thức hiểu biết, nên nay con hỏi lại như vậy.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Không phải chỉ có sắc, thọ, tưởng, hành, thức là Không, mà Ta nói tất cả các pháp đều Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên là nghĩa gì?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vô lượng, vô biên là nghĩa của không, vô tướng, vô nguyện.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng, vô biên chỉ là không, vô tướng, vô nguyện. Ngoài ra còn có nghĩa nào khác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ta đâu chẳng nói tất cả pháp môn đều Không đó sao?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Đức Như Lai thường dạy tất cả pháp môn đều Không.

Phật dạy:

Thiện Hiện! Không tức vô tận, không tức vô lượng, không tức vô biên, không tức các nghĩa. Vậy nên, Thiện Hiện! Tất cả pháp môn tuy có nhiều thứ lời nói sai biệt mà nghĩa không khác.

Thiện Hiện nên biết: Các pháp Không, lý đều không thể nói, Như Lai phương tiện nói là vô tận, hoặc nói vô lượng, nói vô biên, nói là không, nói vô tướng, nói vô nguyện, nói vô tác, vô sanh, vô diệt, phi hữu, lìa nhiễm, Niết bàn tịch tĩnh v.v…

Thật nghĩa vô lượng pháp môn của các pháp như thế không khác, đều do Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các hữu tình phương tiện giảng nói.

Khi ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Hi hữu thay! Ngài đã dùng phương tiện thiện xảo, thật tánh các pháp vốn không thể giảng nói nhưng vì hữu tình nên phương tiện chỉ rõ. Như con hiểu nghĩa Phật nói, thật tánh các pháp đều không thể nói.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Thật tánh các pháp đều không thể nói. Vì sao? Vì tánh tất cả pháp rốt ráo đều Không, không có người có thể giảng nói rốt ráo Không đó được.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nghĩa không thể nói có thêm bớt chăng?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nghĩa không thể nói không có thêm bớt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu nghĩa không thể nói không thêm bớt thì bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cũng sẽ không thêm bớt. Nếu sáu pháp Ba la mật  này cũng không thêm bớt, thì sáu pháp Ba la mật  đều vô sở hữu. Nếu sáu pháp Ba la mật  đều vô sở hữu, thì tại sao đại Bồ Tát tu hành bố thí cho đến Bát nhả Ba la mật, cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, có thể đến gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Bố thí, trì giới v.v..., sáu pháp Ba la mật đều không thêm bớt, cũng vô sở hữu. Nhưng khi các đại Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật phương tiện thiện xảo không nghĩ như vầy: Như vậy, bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật có thêm, có bớt. Chỉ nên nghĩ: Chỉ có danh tướng gọi là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật .

Đại Bồ Tát khi tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật , đem bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật đây cùng hành tác ý, và nương đấy khởi tâm cùng hành với các hữu tình bình đẳng chung có, hồi hướng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đúng như Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà khởi hồi hướng. Do hồi hướng đây phương tiện khéo léo tăng thượng thế lực năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Q.550, TBBN)

 

(Như như của các pháp gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề)

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Như Như của các pháp gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết: Vì các pháp như không có thêm bớt nên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật cũng không thêm bớt. Nếu đại Bồ Tát thường an trụ tác ý tương ưng với Như Như như vậy, thì liền gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thế nên, này Thiện Hiện! Nghĩa không thể nói, tuy không thêm bớt nhưng không thối chuyển tác ý Như như. Ba la mật tuy không thêm bớt nhưng không thối lui sự mong cầu Vô Thượng Bồ đề. Đại Bồ Tát nào an trụ tác ý Như Như như như vậy mà tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, liền gần quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

Lược giải:

 

 Phẩm này của cả hai Kinh: Kinh Tiểu Bản Bát Nhã (thuộc ĐBN) do Ngài Huyền Trang dịch hay Phật Mẫu Bát Nhã Kinh do Thí Hộ dịch, đều nêu ra bốn vấn đề: 1. Thế nào là nghĩa xứ Bát Nhã? 2. Công đức của người thọ trì Bát Nhã và người làm công việc pháp thí như thế nào? 3. Nói về Tánh Không Bát Nhã và 4. Thế nào gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Đó là tất cả tinh yếu của phẩm này nói riêng và cũng là cốt tủy của ĐBN nói chung.

 

1.Nghĩa xứ thậm thâm mà Bồ Tát chứng đắc trí rộng lớn đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, tịch tịnh, Niết bàn, chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế v.v… Tên của nghĩa xứ thậm thâm đã nói như vậy đều chỉ rõ Niết bàn là chỗ thậm thâm. Không những thế tất cả các pháp khác cũng gọi là thậm thâm: Sắc thậm thâm; thọ, tưởng, hành, thức thậm thâm. Mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề là thậm thâm. Vì sao? Vì sắc như thậm thâm nên sắc cũng thậm thâm; vì thọ, tưởng, hành, thức như thậm thâm nên thọ, tưởng, hành, thức cũng thậm thâm. Vì 12 xứ như, 18 giới như và tất cả pháp như thậm thâm nên xứ, giới và tất cả pháp cũng thậm thâm. Vì sao tất cả pháp như thậm thâm? Vì sắc như chẳng phải là sắc, chẳng lìa sắc, cho nên thậm thâm; vì thọ, tưởng, hành, thức như chẳng phải là thọ, tưởng, hành, thức, chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức, cho nên thậm thâm. Vì tất cả pháp như chẳng phải là tất cả pháp, chẳng phải lìa tất cả pháp, cho nên thậm thâm.

Nói rõ ra, tất cả pháp kể cả pháp Phật… đều không, đều như. Hiểu là chứng như vậy là nhập pháp giới, tức giác ngộ.

Đó là phương tiện rất vi diệu, vì đại Bồ Tát Bất thối chuyển trừ khiển(1) sắc, trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức; trừ khiển mười hai xứ, mười tám giới, tứ thiền, tứ định, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao; cũng trừ khiển tất cả pháp hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc cộng, hoặc bất cộng, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc hữu vi, hoặc vô vi v.v… cũng tu trừ cái khiển tu đây để chỉ rõ Niết bàn. Đó là tu Bát nhã Ba la mật.

Mỗi khi dùng khiển để tu hay trừ khiển để tu, là còn động niệm. Nên tu là khiển phải bỏ mà trừ khiển cũng phải bỏ nốt, để tâm được an nhiên tịch lặng, mới được xem là vi diệu.

Nếu đại Bồ Tát đối với các chỗ thậm thâm như thế tu pháp không, pháp như, tức nương vào tác ý Bát nhã Ba la mật thậm thâm tư duy, suy lường quán sát, tu học không gián đoạn, an trụ quả vị Giác ngộ tối cao. Lại khởi tâm nhất niệm, còn có khả năng thâu nhiếp vô số, vô lượng, vô biên công đức, vượt vô lượng kiếp sanh tử lưu chuyển, mau chứng quả vị Giác ngộ tối cao.

 

2. Nếu đại Bồ Tát an trụ như Bát nhã Ba la mật thậm thâm đã dạy, trải qua một ngày một đêm thì công đức đạt được này giả sử có hình tướng thì cả Tam thiên đại thiên thế giới cũng chẳng thể dung chứa hết. Nếu đại Bồ Tát xa lìa Bát nhã Ba la mật, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp bố thí cúng dường tam bảo Phật, Pháp, Tăng tuy cũng được vô số, vô lượng, vô biên công đức, nhưng không bằng đại Bồ Tát nương vào Bát nhã Ba la mật chỉ trải qua một ngày một đêm như lời dạy mà tu học, thì công đức đạt được còn nhiều hơn công đức kia gấp bội phần.

Nếu đại Bồ Tát xa lìa Bát nhã Ba la mật, giả sử trải qua hằng hà sa số đại kiếp tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự phước đức tuy vô lượng, vô biên. Nhưng, nếu đại Bồ Tát ấy nương vào lời dạy của Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tinh cần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, thì công đức đạt được hơn công đức kia rất nhiều. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm là mẹ các đại Bồ Tát, vì Bát nhã Ba la mật có khả năng sanh ra chúng đại Bồ Tát. Tất cả chúng đại Bồ Tát nương vào Bát nhã Ba la mật mau viên mãn tất cả pháp Phật.

Nếu đại Bồ Tát nương vào lời dạy của Bát Nhã thậm thâm mà an trụ, trải qua một ngày một đêm tu hành bốn tịnh lự, tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề thì công đức đạt được rất nhiều so với công đức của người đã từng tu hành các Ba la mật  trong vô lương kiếp mà xa lìa Bát nhã Ba la mật thậm thâm.

Vì vậy, nếu đại Bồ Tát, muốn chứng đắc quả vị Giác ngộ tối cao, thì chẳng nên xa lìa Bát nhã Ba la mật v.v… và v.v…

 

Một phút tư duy:

(Nói về Không, về pháp Như)

 

- Phẩm“Bất Khả Động”, quyển 386, Hội thứ I. ĐBN. Nói:

“Pháp bản tánh không chưa từng chẳng không”.

Đây là câu nói căn bản mà hành giả Bát nhã Ba la mật phải ghi nhớ nằm lòng khi thọ trì Bát nhã Ba la mật này.

 

- Phẩm 18, “Tánh Không”, quyển thứ 17, “Phật Mẫu Bát nhã Kinh”. Tu Bồ Đề bạch Phật:

“Phật bảo Tu Bồ Đề: Sắc vô lượng, thọ tưởng hành thức cũng vô lượng.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô lượng có nghĩa là gì?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Vô lượng nghĩa là Không, nghĩa là Vô tướng, nghĩa là Vô nguyện.

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Bạch thế tôn! Vô lượng chỉ có nghĩa là tam muội Không, Vô tướng, Vô nguyện, không phải là nghĩa của tất cả pháp sao?

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Ý ngươi thế nào? Chẳng lẽ ngươi không nghe Phật nói tất cả pháp đều không sao?

Tu Bồ Đề bạch Phật:

- Đúng thế! Bạch Thế Tôn! Phật nói tất cả pháp đều không.

Phật bảo Tu Bồ Đề:

- Không tức là vô lượng. Vì thế, trong này nghĩa của tất cả các pháp không có phân biệt, lìa mọi tạo tác. Tu bồ đề, nói như thế chính là Phật thuyết. Vì sao? Nếu nói như thế tức là vô lượng, vô lượng tức vô số, vô số tức Không, Không tức Vô tướng, Vô tướng tức Vô nguyện, Vô nguyện tức Vô sinh, Vô sinh tức Vô diệt, Vô diệt tức Vô tác, Vô tác tức Vô tri, Vô tri tức Vô tánh, Vô tánh tức Vô nhiễm, Vô nhiễm tức Niết bàn tịch tĩnh. Pháp môn như thế do chính Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác thuyết. Thuyết như thế tức là tất cả các pháp không có thuyết”.

 

- Phẩm “Khen Tánh Chẳng Chắc Thật”, quyển 346, Hội thứ I, ĐBN thuyết:

“Các đại Bồ Tát tu hành sâu sắc Bát nhã Ba la mật , quán tất cả pháp đều không, đó là quán tất cả pháp hữu sắc không, pháp vô sắc cũng không; quán tất cả pháp hữu kiến không, pháp vô kiến cũng không; quán tất cả pháp hữu đối không, pháp vô đối cũng không; quán tất cả pháp hữu lậu không, pháp vô lậu cũng không; quán tất cả pháp hữu vi không, pháp vô vi cũng không; quán tất cả pháp thế gian không, pháp xuất thế gian cũng không; quán tất cả pháp tịch tịnh không, pháp chẳng tịch tịnh cũng không; quán tất cả pháp viễn ly không, pháp chẳng viễn ly cũng không; quán tất cả pháp quá khứ không, pháp vị lai, hiện tại cũng không; quán tất cả pháp thiện không, pháp bất thiện, vô ký cũng không; quán tất cả pháp Dục giới không, pháp Sắc, Vô sắc giới cũng không; quán tất cả pháp học không, pháp vô học, phi học, phi vô học cũng không; quán tất cả pháp kiến sở đoạn không, pháp tu sở đoạn, phi sở đoạn cũng không; quán tất cả pháp hữu không, pháp vô, phi hữu, phi vô cũng không”.

Tất cả đều không. Nếu thấy biết tất cả pháp đều không như vậy thì không còn vướng mắc. Tâm mới không còn quái ngại.

 

- Phẩm “Thật Ngữ”, quyển 458, Hội thứ II, ĐBN. Phật bảo Khánh Hỷ: “Khánh Hỷ phải biết: Tất cả pháp tánh không không kẻ năng kiến, không kẻ năng tri, không kẻ năng chứng, không động không tác. Vì sao? Vì tất cả pháp đều như hư không, không có tác dụng, vì năng lấy bị lấy tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, vì năng sở nghĩ bàn tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp đều như huyễn như mộng..., nhiều duyên hòa hợp giả có. Vì tất cả pháp không kẻ tác thọ, vọng hiện như có, nhưng không bền chắc vậy”.

 

- Phẩm “Pháp Tánh Vô Động”, quyển 397, Hội thứ I, ĐBN. Phật bảo: “Này Thiện Hiện! Không có bất cứ một pháp nào dù nhỏ nhặt bằng đầu mảy lông mà tự tánh chẳng không, tự tánh không này không do ai làm ra, tánh nó thường không, đây tức là Niết bàn. Vì không ai làm ra, tự tánh thường không, chẳng lúc nào chẳng không, nên mới gọi là Niết bàn. Niết bàn là vô sanh, vô diệt, phi hóa”.

 

- Phẩm “Phật Mẫu”, Q.306, Hội thứ I, ĐBN. Nói:

 “Bát nhã Ba la mật thậm thâm lấy không làm tướng; Bát nhã lấy vô tướng, vô nguyện làm tướng; Bát nhã lấy vô tác, vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tánh làm tướng; Bát nhã lấy vô tự tánh, vô sở y, phi đoạn phi thường, phi nhất phi dị, vô khứ vô lai làm tướng; Bát nhã lấy hư không làm tướng; Bát nhã Ba la mật có vô lượng tướng như thế”.

 

Có thể tóm tắt Tánh không hay Bán tánh không bằng câu nói sau đây: “Chẳng chấp thật có, chẳng chấp thật không, chẳng chấp thật chân, chẳng chấp thật giả, được như thế thì các pháp tự không, chẳng cần đoạn diệt, không cần khiển hay trừ khiển tất cả tướng rồi mới thành không, nên gọi là Tánh không”.

Toàn thể Đại Bát Nhã nói về Tánh không này. Nên ở đây chúng tôi trích dẫn các đoạn kinh ngắn này để bổ túc cho phẩm “Tướng Không” quá ngắn nói trên.

 

- Thế nào gọi là quả vị Vô Thượng Bồ đề?

 

“Phật dạy: Này Thiện Hiện! Như như của các pháp gọi là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”.

Vì thấu hiểu Như nầy nên tu luyện thì được tâm như như bất động. Tâm như như bất động tức thấy sắc trần là không. Một khi thấy sắc trần không thì tâm không bị lôi kéo nữa, nên được an nhiên tịch lặng. Khi đạt đến chỗ này thì huệ mở tức trở thành Như Lai không khác. Vì vậy, kinh nói Phật chứng Như rất viên mãn, nên gọi là Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác(2), Như đó là Phật, Như đó là Như Lai, Như đó cũng gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, như đó cũng là như của tất cả pháp.

Người nào thông hiểu như đó thì thông hiểu chơn như thật tướng của tất cả pháp hay nói khác là nhập được pháp giới, thì đồng với chư Như Lai không khác.

Nói tóm lại, tất cả pháp là không, trong đó như cũng là không cho dù là uẩn xứ giới, là chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh hay pháp Phật. Nếu chơn như là không, pháp giới là không… dù nói thế nào đi nữa thì “thật tánh của tất cả pháp cũng là không”. Học Bát nhã Ba la mật là học cái không này mới được vo thức, vô niệm, vô tâm.

 Vì cái không này quá mênh mông, nên kinh diễn tả bằng nhiều cách hoặc không, hoặc như, hoặc như huyễn như mộng, hoặc vô tri trì độn, hoặc giả danh, không thật, hoặc vô tác, vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô tánh, vô tướng, vô sở y, phi đoạn phi thường, phi nhất phi dị, vô khứ vô lai… Rốt lại, là rỗng không tất cả!

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Trừ khiển có nghĩa là bỏ, không khiển, không trách như câu nói “trừ khiển sắc để chỉ Niết bàn”, nghĩa là không trách sắc. Nếu không trách, không khen chê sắc nữa thì sắc không phải là sắc hay nói khác sắc tức không, không sanh không diệt, không tốt không xấu, không nhiễm không tịnh... như vậy tất cả đều tịch lặng. Tịch lặng chính là Niết bàn. Vì khiển lại là một thứ động niệm, nên khiển cũng bỏ, trừ khiển cũng bỏ nốt. Như thế, tất cả đều tốt đẹp như như hết!

(2). Câu nói “Phật chứng chơn như rất viên mãn, nên gọi là Như Lai ứng Chánh Đẳng Giác”. (Phẩm “Tấn Tốc”, quyển 552, Hội thứ IV, TBBN). Từ ghép chơn như, được La Thập dịch là Như hay Như Như./.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com