Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

29. Phẩm "Thí Bình Đẳng"

28/10/202015:58(Xem: 8018)
29. Phẩm "Thí Bình Đẳng"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***


buddha-468

 

PHẨM "THÍ BÌNH ĐẲNG"

Phần sau Q.532 cho đến phần đầu Q.535, Hội thứ III, ĐBN.

(Tương đương với các phẩm “Thiện Đạt”, phẩm “Thật Tế” và phẩm “Vô Khuyết”,

bắt đầu Q.471 cho đến hết Q.475, Hội thứ II, ĐBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Gợi ý:

Cũng giống như các phẩm trước, phẩm “Thí Bình Đẳng” này gộp ba phẩm của Hội thứ II là “Thiện Đạt”, “Thật Tế” và “Vô Khuyết” thành một phẩm duy nhất, lấy tên là “Thí Bình Đẳng”. Vì vậy, trong phần tóm lược này chúng tôi cũng chia làm ba đoạn tương ưng với ba phẩm nói trên tóm lược và thích nghĩa, để quý vị dễ đọc dễ tra cứu. Nói chung, phẩm “Thí Bình Đẳng” của Hội thứ III và ba phẩm trên của Hội thứ II hợp lại, thuyết về giáo lý hạnh quả… của việc tu hành Bát Nhã giống nhau như hai giọt nước!

 

Tóm lược: 

 

 

1. (Đoạn Kinh này tương đương phẩm “Thiện Đạt”,

phần sau Q.471 đến đầu Q.473, Hội thứ II, ĐBN) 

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ Tát đối với tất cả pháp đạt được tướng vi diệu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật như kẻ được biến hóa chẳng hành tất cả gút tham sân si. Chẳng hành sắc uẩn cho đến thức uẩn. Chẳng hành mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chẳng hành địa giới cho đến ý thức giới. Chẳng hành nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chẳng hành theo duyên sanh ra các pháp. Chẳng hành vô minh cho đến lão tử. Chẳng hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chẳng hành nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng hành chơn như cho đến bất tư nghì giới. Nói rộng ra, chẳng hành tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến Nhất thiết trí trí. Chẳng hành tùy miên các buộc. Chẳng hành pháp thiện, pháp phi thiện. Chẳng hành pháp hữu ký, pháp vô ký. Chẳng hành pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Chẳng hành pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Chẳng hành pháp hữu vi, pháp vô vi. Chẳng hành Thánh đạo và quả Thánh đạo. Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế, đối tất cả pháp đều không sở hành. Đấy là khéo đạt thật tướng các pháp. (Q.532, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào người được Như Lai biến hóa ra tu được Thánh đạo?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Người được biến hóa kia nương tu Thánh đạo không nhiễm, không tịnh, cũng không luân hồi trong năm đường sanh tử, cũng không chứng đắc Niết bàn của Tam thừa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật thông suốt các pháp đều không thật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Người được chư Phật Thế Tôn biến hóa ra, vì thật có, nương thật có kia mà có nhiễm, có tịnh; do đây nên luân hồi sanh tử trong năm đường hay chứng được Niết bàn của Tam thừa không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không có! Người được Thế Tôn biến hóa ra không có chút thật, chẳng nương sự thật kia có nhiễm, có tịnh, cũng không luân hồi sanh tử trong năm đường, cũng không chứng được Niết bàn của Tam thừa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Ba la mật, đối với tất cả pháp thông suốt thật tướng cũng lại như vậy, thông suốt các pháp đều không thật có, tánh tướng đều không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có phải vì tất cả sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến pháp hữu vi, vô vi đều giống việc biến hóa kia không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng vậy! Sắc v.v... năm uẩn, nói rộng cho đến hữu vi, vô vi, tất cả đều giống như biến hóa.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều giống như biến hóa thì những gì được biến hóa ra đều không thật; sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đến hữu vi, vô vi cũng không thật. Do đây nên không tạp nhiễm, không thanh tịnh, cũng không luân hồi sanh tử trong năm đường, cũng không theo nghĩa ấy để được giải thoát. Như vậy, các đại Bồ Tát làm sao đối với các hữu tình có thắng giải?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Khi xưa các đại Bồ Tát hành Bồ Tát đạo, có thấy hữu tình thoát khỏi đường địa ngục, bàng sanh, quỷ giới, cõi trời, người không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không thấy!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Khi các đại Bồ Tát còn hành Bồ Tát đạo, không thấy có hữu tình thoát khỏi năm đường và ba cõi ấy. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát hiểu biết thông suốt tất cả pháp đều như huyễn hóa, đều chẳng thật có.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào hiểu biết thông suốt tất cả pháp như huyễn hóa, đều chẳng thật có, vì việc gì mà tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến vì việc gì mà thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu các hữu tình nào tự mình có thể thông suốt tất cả pháp đều như huyễn hóa, đều chẳng thật có, thì các đại Bồ Tát không cần trải qua vô số đại kiếp, vì các hữu tình mà hành Bồ Tát đạo. Do vì các hữu tình đối với tất cả pháp không hiểu là như huyễn hóa, là chẳng thật có. Vì vậy, nên chúng đại Bồ Tát phải trải qua vô số kiếp vì các hữu tình mà hành Bồ Tát đạo.

Do chúng đại Bồ Tát như thật thông suốt tất cả pháp đều như huyễn hóa, đều chẳng thật có, nên vô số kiếp vì các hữu tình mà tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi lạc cho tất cả hữu tình đến tận đời vị lai.

 

Bấy giờ, Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp như mộng, như huyễn, như tiếng vang, như bóng, như ảnh trong gương, như quáng nắng, như việc biến hóa như thành tầm hương thì sở hóa(1) hữu tình trụ ở chỗ nào, các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm phương tiện khéo léo cứu vớt cho ra?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Sở hóa hữu tình trụ ở danh tướng hư dối phân biệt. Các đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm phương tiện khéo léo, từ danh tướng hư dối phân biệt kia cứu vớt cho ra.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Danh là thế nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Danh chỉ là khách, chỉ là nghĩa giả lập nêu bày, hiển thị. Nghĩa ở đây là tên chỉ cho sắc, thọ, tưởng, hành, thức; tên nhãn xứ cho đến ý xứ; tên sắc xứ cho đến pháp xứ; tên nhãn giới cho đến ý giới; tên sắc giới cho đến pháp giới; tên nhãn thức giới cho đến ý thức giới; tên nam nữ; tên đại tiểu; tên địa ngục cho đến trời, người; tên hữu lậu, tên vô lậu; tên thế gian, tên xuất thế gian; tên hữu vi, tên vô vi; tên quả Dự lưu. Nói rộng, cho đến tên quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; tên phàm phu, tên Thanh văn, tên Độc giác, tên Bồ Tát, tên Như Lai.

Này Thiện Hiện! Tất cả tên như vậy là tiêu biểu cho các nghĩa, chỉ là giả lập nên tất cả tên đều chẳng thật có. Các pháp hữu vi cũng chỉ có danh, do đó vô vi cũng chẳng thật có. Kẻ phàm phu ngu muội vọng chấp là có, còn các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, với tâm bi nguyện, dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa làm cho họ xa lìa, dạy như vầy: Danh là vọng tưởng phân biệt mà sanh ra, do nhiều nhân duyên hòa hợp giả lập. Các ngươi không nên chấp trước. Danh không thật, tự tánh đều Không, chẳng có người trí nào mà chấp lấy pháp Không ấy.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình nói pháp khiến họ khiển trừ danh tự, đây gọi là danh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tướng là như thế nào?

Phật bảo:

Thiện Hiện nên biết! Tướng có hai thứ, do kẻ phàm phu chấp trước nên nói có hai tướng. Hai tướng đó là gì? Một là sắc tướng; hai là vô sắc tướng.

Sắc tướng là thế nào? Nghĩa là các sắc hoặc thô, hoặc tế, hoặc liệt, hoặc thắng, tất cả như vậy tự tánh đều Không. Kẻ phàm phu do phân biệt chấp trước, cho đó là sắc, nên gọi là sắc tướng.

Còn vô sắc tướng là trong tất cả pháp vô sắc, vì kẻ phàm phu phân biệt chấp có tướng, nên sanh ra các phiền não, gọi là vô sắc tướng.

Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa các hữu tình, giúp họ đoạn trừ hai tướng ấy. Lại dạy họ an trụ trong giới vô tướng. Tuy dạy họ an trụ trong giới vô tướng nhưng không làm họ rơi vào chấp nhị biên, cho rằng đây là tướng, đây là vô tướng.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo giáo hóa các hữu tình xa lìa các tướng, trụ giới vô tướng nhưng không chấp trước.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp chỉ có danh tướng, đều là giả lập thì các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, làm sao đối với các thiện pháp tự mình được tăng trưởng? Cũng làm cho người khác đối với thiện pháp được tăng trưởng? Do tự mình đối với thiện pháp tuần tự tăng trưởng nên có thể làm cho các địa tuần tự được viên mãn, cũng có thể an lập các loài hữu tình làm cho họ tùy theo chỗ nên an trụ vào quả Tam thừa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu trong các pháp có chút thật, chẳng phải chỉ giả lập có danh tướng, thì các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với thiện pháp tự mình không được tăng trưởng, cũng không làm cho người khác đối với thiện pháp được tăng trưởng. Do vì trong các pháp không có chút thật, chỉ có giả lập danh tướng. Vì vậy, nên đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với các thiện pháp tự mình được tăng trưởng, cũng có thể làm cho người khác đối với thiện pháp được tăng trưởng.

Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn Bồ Tát địa. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên Như Lai mãn mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn Bồ Tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn Nhất thiết trí trí. Nên đem vô tướng làm phương tiện để viên mãn thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật.

Như vậy, này Thiện Hiện! Do tất cả pháp không có mảy may thật, chỉ có giả lập danh tướng nên các đại Bồ Tát đối với các pháp ấy không sanh điên đảo, chấp trước, nên đem vô tướng làm phương tiện, đối với các thiện pháp tự mình tăng trưởng, rồi cũng làm cho người khác đối với thiện pháp được tăng trưởng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu trong các pháp có tướng thật pháp lượng bằng đầu mảy lông, thời các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật đối tất cả pháp không thể thể giác tri vô tướng vô niệm, cũng vô tác ý, vô lậu tánh rồi, mới chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an lập hữu tình nơi pháp vô lậu, vì các pháp vô lậu đều vô tướng vô niệm vô tác ý vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật sâu xa, phương tiện khéo léo an lập hữu tình nơi pháp vô lậu, mới gọi chân thật nhiêu ích hữu tình.

 Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp chân thật đều vô lậu, vô tướng, vô niệm, vô tác ý thì do duyên gì Thế Tôn ở trong các Kinh thường dạy như vầy: Đây là pháp hữu lậu, đây là pháp vô lậu, đây là pháp thế gian, đây là pháp xuất thế gian, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi, đây là pháp Thanh văn, đây là pháp Độc giác, đây là pháp Bồ Tát, đây là pháp Như Lai?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các pháp hữu lậu cùng với các pháp tánh vô tướng, vô lậu có khác nhau không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không khác!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các pháp Thanh văn cùng với pháp tánh vô tướng, vô lậu có khác nhau không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không khác!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Các pháp hữu lậu không thể coi là pháp tánh vô tướng, vô niệm; cũng không là vô tác ý, vô lậu hay sao?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Có quả Dự lưu cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không thể là pháp tánh vô tướng, vô niệm, cũng không là vô tác ý, vô lậu hay sao?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Vì lý do này nên biết tất cả pháp đều là vô tướng, vô niệm, vô tác ý, không hai không khác.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát nào khi học tất cả pháp tánh vô tướng, vô niệm, vô tác ý, vô lậu thì thường được tăng trưởng các thiện pháp. Đó là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến Nhất thiết tướng trí, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Tất cả Phật pháp như vậy đều là do tu học pháp tánh vô tướng, vô niệm, vô tác ý, vô lậu mà được tăng trưởng. Vì sao? Vì trừ pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, các đại Bồ Tát không còn pháp yếu nào phải học. Vì sao? Vì ba pháp môn giải thoát tóm thâu tất cả pháp thiện vi diệu. Pháp môn giải thoát Không quán tất cả pháp tự tướng đều Không. Pháp môn giải thoát vô tướng quán tất cả pháp xa lìa các tướng. Pháp môn giải thoát vô nguyện quán tất cả pháp xa lìa sở nguyện.

Các đại Bồ Tát nương vào ba môn này có thể tóm thâu tất cả thiện pháp thù thắng. Nhưng nếu xa lìa ba môn này thì sự tu học thiện pháp thù thắng đều không sanh trưởng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào có thể học được ba pháp môn giải thoát như vậy, thì có thể học được năm uẩn; cũng có thể học mười hai xứ; cũng có thể học mười tám giới; cũng có thể học bốn Thánh đế; cũng có thể học mười hai duyên khởi; cũng có thể học pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không; cũng có thể học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; cũng có thể học bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng cho đến cũng có thể học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí; cũng có thể học thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật; cũng có thể học vô lượng, vô biên các Phật pháp khác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật có thể học năm uẩn?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật có thể như thật biết sắc cho đến thức hoặc tướng, hoặc sanh diệt, hoặc chơn như. Đấy gọi là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật có thể học năm uẩn.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của sắc? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về sắc hoàn toàn có lỗ hổng, hoàn toàn có khoảng trống, như bọt nước, tánh không bền chắc. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của sắc.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của sắc? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về sắc khi sanh không từ đâu đến, khi diệt không đi về đâu, tuy không đến, không đi mà tương ưng sanh diệt. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của sắc.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về sắc như (chơn như của sắc)? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết sắc như không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh nó thường như, chẳng lúc nào chẳng như, không hư dối, không biến đổi, nên gọi là “như”. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về sắc như.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của thọ? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về thọ hoàn toàn như ung nhọt, như tên bắn, chóng khởi, chóng diệt, giống như bọt nước, hư dối chẳng trụ, phát sanh do ba sự hòa hợp. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của thọ.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của thọ? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về thọ khi sanh không từ đâu đến, khi diệt cũng không đi về đâu, tuy không đến, không đi mà tương ưng sanh diệt. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của thọ.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về thọ như? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết thọ như không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh nó là chơn thường, không hư dối, không biến đổi, nên gọi là như. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về thọ như.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của tưởng? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về tưởng hoàn toàn như bóng nắng dưới nước, không thật có, do nhân duyên khát ái vọng tưởng này, nói lời giả dối. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của tưởng.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của tưởng? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về tưởng khi sanh không từ đâu đến, khi diệt cũng không đi về đâu, tuy không đến, không đi mà tương ưng sanh diệt. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của tưởng.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về tưởng như? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết tưởng như không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh nó thường như, không hư dối, không biến đổi, nên gọi là như. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về tưởng như.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của hành? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về hành như cây chuối, lột bỏ từng bẹ không thật có. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về hành tướng.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của hành? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về hành khi sanh không từ đâu đến, khi diệt cũng không đi về đâu, tuy không đến, không đi mà tương ưng sanh diệt. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của hành.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về hành như? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết hành như không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh nó là thường như, không hư dối, không biến đổi, nên gọi là như. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về hành như.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của thức? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về thức giống như huyễn hóa; do nhiều duyên hòa hợp thi thiết có thật nhưng bất khả đắc. Như nhà ảo thuật hay học trò của ông, ở nơi ngã tư đường hóa ra làm bốn đội quân, đó là: Quân voi, quân ngựa, quân xe, quân bộ; hoặc hiện ra các loại màu sắc, tướng của nó tuy giống như có nhưng không thật. Thức cũng như thế, thật bất khả đắc. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về tướng của thức.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của thức? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết về thức khi sanh không từ đâu đến, khi diệt cũng không đi về đâu, tuy không đến, không đi mà tương ưng sanh diệt. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về sự sanh diệt của thức.

Này Thiện Hiện! Thế nào là đại Bồ Tát như thật biết về thức như? Nghĩa là đại Bồ Tát như thật biết thức như không sanh, không diệt, không đến, không đi, không nhiễm, không tịnh, không tăng, không giảm, tánh nó là thường như, không hư dối, không biến đổi, nên gọi là như. Đây gọi là đại Bồ Tát như thật biết về thức như. (Q. 532, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học mười hai xứ?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật như thật biết nội xứ, tự tánh nội xứ Không; như thật biết ngoại xứ, tự tánh ngoại xứ Không. Đây gọi là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học mười hai xứ. (Q. 532, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học mười tám giới?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, như thật biết nhãn giới, tự tánh nhãn giới Không. Nói rộng cho đến như thật biết ý thức giới, tự tánh ý thức giới Không. Đây gọi là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học mười tám giới.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học bốn Thánh đế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật như thật biết tướng khổ là bức ngặt, như thật biết tướng tập là sanh khởi, như thật biết tướng diệt là vắng lặng, như thật biết tướng đạo là xa lìa. Lại như thật biết tự tánh khổ tập diệt đạo vốn không, xa lìa hai pháp gọi là Thánh giả. Khổ, Tập v.v… bốn đế tức là chơn như, chơn như tức là Khổ, Tập v.v… bốn đế, không hai không riêng, duy kẻ chơn Thánh mới như thật biết được. Đấy gọi đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật năng học bốn đế.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học mười hai duyên khởi?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật như thật biết tự tánh vô minh cho đến lão tử không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, vốn Không, xa lìa hai pháp. Đây gọi là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học mười hai duyên khởi.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, như thật biết pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không đều vô tự tánh, đều bất khả đắc mà được an trụ. Đây gọi là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. (Q.532, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật như thật biết chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều không hý luận, không phân biệt nhưng an trụ được. Đây gọi là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học bố thí Ba la mật cho đến vô lượng, vô biên Phật pháp?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật như thật biết bố thí Ba la mật cho đến vô lượng, vô biên Phật pháp không tăng, không giảm, không nhiễm, không tịnh, không tự tánh, bất khả đắc nhưng có thể tu tập. Đây gọi là đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật nên học bố thí Ba la mật cho đến vô lượng, vô biên Phật pháp.

Lúc ấy, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật như thật biết sắc, thọ, tưởng v.v... các pháp đều riêng biệt, không xen tạp thì làm sao Thế Tôn đem pháp sắc, thọ, tưởng v.v... làm hư hoại chơn như pháp giới? Vì sao? Vì pháp giới không hai, không sai khác?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu lìa pháp giới mà có pháp khá được, thì nên nói pháp kia năng hoại pháp giới. Nhưng lìa pháp giới không pháp khá được, nên các pháp không năng hoại pháp giới. Vì sao? Chư Phật, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn biết lìa pháp giới không pháp khá được. Đã biết không có pháp lìa pháp giới, thì cũng chẳng thể vì người khác mà lập bày giảng nói. Vì vậy, nên pháp giới không ai có thể phá hoại được.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nên học tướng pháp giới không hai, không sai khác và không thể phá hoại được.

 

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát muốn học pháp giới thì nên học ở đâu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát muốn học pháp giới thì nên học tất cả pháp. Vì sao? Vì tất cả pháp đều thể nhập vào pháp giới.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì nói tất cả pháp đều thể nhập vào pháp giới?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, thì các pháp vẫn thể nhập vào pháp giới, không có tướng sai khác, không do Phật nói. Vì sao? Vì pháp thiện hoặc pháp chẳng thiện, pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian, pháp hữu vi hoặc pháp vô vi v.v... tất cả pháp như vậy không có pháp nào là không nhập vào pháp giới tánh Không vô tướng vô vi.

Vậy nên, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, muốn học pháp giới nên học tất cả pháp, nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới. (Q. 532, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều nhập vào pháp giới, không hai, không riêng biệt thì vì sao các đại Bồ Tát phải học sáu pháp Bát nhã Ba la mật? Vì sao phải học bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc? Vì sao phải học bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo? Vì sao phải học pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không? Vì sao phải học chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì? Nói rộng ra, vì sao phải học tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện? Vì sao phải học tám giải thoát cho đến mười biến xứ? Vì sao phải học Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa? Vì sao phải học tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa? Vì sao phải học năm loại mắt, sáu phép thần thông? Vì sao phải học Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng? Vì sao phải học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả? Vì sao phải học pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả? Vì sao phải học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí? Vì sao phải học thành tựu viên mãn ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp? Vì sao phải học để sanh vào đại tộc Sát đế lợi cho đến đại tộc Cư sĩ? Vì sao phải học sanh vào cõi trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Tha hóa tự tại? Vì sao phải học sanh vào cõi trời Phạm chúng, trời Quảng quả cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ? Vì sao phải học sơ phát Bồ đề tâm cho đến phát Bồ đề tâm thứ mười? Vì sao phải học Bồ Tát Chánh tánh ly sanh? Vì sao phải học thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật? Vì sao phải học đạo của đại Bồ Tát và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề? Học như vậy rồi biết tất cả pháp, tất cả chủng tướng mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí?

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu trong pháp giới không có các pháp sai biệt như vậy thì chúng đại Bồ Tát đâu có thể do đây mà phân biệt thực hành nơi điên đảo, trong không hý luận phát sanh hý luận. Vì sao? Vì trong chơn như pháp giới không có sự phân biệt hý luận.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc cho đến thức tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc cho đến thức. Nói rộng cho đến pháp giới chẳng phải là pháp hữu vi, vô vi, cũng không lìa pháp hữu vi, vô vi. Pháp hữu vi, vô vi tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp hữu vi, vô vi.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Trong chơn như pháp giới không có tất cả phân biệt hý luận. Pháp giới chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Pháp giới tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức; sắc, thọ, tưởng, hành, thức tức là pháp giới. Nói rộng, cho đến pháp giới chẳng phải pháp hữu vi, vô vi, cũng không lìa pháp hữu vi, vô vi. Pháp giới tức là pháp hữu vi, vô vi; pháp hữu vi, vô vi tức là pháp giới.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy có pháp lìa pháp giới thì không thể hướng đến sự mong cầu đạt được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thì không thấy các pháp lìa chơn như pháp giới. (Q. 532, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, biết tất cả pháp tức là chơn như pháp giới, dùng phương tiện khéo léo dùng pháp vô danh tướng, vì các hữu tình mà giảng thuyết danh tướng, nghĩa là: Đây là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Đây là mười hai xứ cho đến mười tám giới. Đây là địa giới cho đến thức giới. Đây là nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Đây là các pháp theo duyên sanh ra. Đây là vô minh cho đến lão tử. Đây là pháp thiện, pháp phi thiện. Đây là pháp hữu lậu, pháp vô lậu. Đây là pháp thế gian, pháp xuất thế gian. Đây là pháp hữu vi, pháp vô vi. Đây là bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến đây là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Như nhà ảo thuật hoặc đệ tử của ông lấy một ít đồ vật ở trước mọi người, biến hóa ra các sắc tượng khác lạ, hoặc là hiện ra hình nam nữ lớn nhỏ. Hoặc hiện làm voi, ngựa, trâu, dê, lạc đà v.v... các loài cầm thú. Hoặc hiện làm thành ấp, xóm làng, vườn rừng, ao hồ v.v… các thứ xinh đẹp, ai cũng ưa thích. Hoặc hiện làm y phục, thức ăn, nước uống, phòng nhà, đồ nằm, hoa hương, chuỗi ngọc, các thứ trân báu kỳ lạ, tiền tài, thóc gạo đầy kho. Hoặc hiện ra vô lượng các loại kỹ nhạc, kỹ nữ, làm cho nhiều người hoan hỷ, ưa thích. Hoặc hiện bày các thứ hình tướng làm cho người tu học, hành trì bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã v.v… Hoặc hiện sanh trong đại tộc Sát đế lợi cho đến đại tộc Cư sĩ. Hoặc hiện ra núi non, biển cả, núi Diệu cao, núi Luân vi v.v... Hoặc hiện sanh trong cõi trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hoặc hiện chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác. Hoặc hiện làm đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo; tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Học trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, học trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, học trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hướng đến Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Phát sanh các thứ thần thông thù thắng, phóng đại quang minh chiếu soi khắp thế giới. Trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình. Dạo chơi trong các cõi tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí. Tu hành các món công đức của Phật. Hoặc lại biến hiện ra hình của Như Lai đầy đủ ba mươi hai tướng Đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp viên mãn trang nghiêm; thành tựu mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và vô lượng, vô biên công đức.

Như vậy, nhà ảo thuật và học trò của ông ta vì dối gạt kẻ khác nên ở trước mọi người làm các việc ảo thuật. Trong ấy, có những người nam nữ lớn nhỏ vô trí, thấy việc này rồi đều khen: Người này lạ thay, giỏi học các môn kỹ xảo, có thể làm các việc hy hữu, kỳ lạ. Cho đến có thể hiện được thân Như Lai tướng hảo trang nghiêm, đầy đủ các công đức. Tự mình biến hiện được những kỹ xảo tài giỏi.

Nhưng trong ấy có những người có trí, thấy việc này rồi suy nghĩ: Thật là thần thông kỳ lạ, làm thế nào mà người ấy có thể biến hóa và làm việc này. Trong ấy tuy không có pháp thật, nhưng làm cho mọi người mê lầm, ưa thích. Với những vật không thật mà tưởng là thật. Chỉ có người trí mới thấu rõ tất cả đều Không, tuy có thấy nghe nhưng không chấp trước.

Các đại Bồ Tát cũng lại như thế, hành sâu Bát nhã Ba la mật tuy chẳng thấy pháp giới lìa các pháp mà có, cũng chẳng thấy các pháp lìa pháp giới mà có, chẳng thấy hữu tình và thi thiết kia thật có khá được, mà năng phát sanh phương tiện khéo léo tự tu sáu Ba la mật, cũng khuyên người tu hành sáu Ba la mật, xưng nêu pháp tu hành sáu Ba la mật không trái, vui mừng khen ngợi kẻ tu hành sáu Ba la mật. Nói rộng, cho đến tự viên mãn Nhất thiết tướng trí, cũng khuyên người viên mãn Nhất thiết tướng trí, xưng nêu pháp viên mãn Nhất thiết tướng trí không trái, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn Nhất thiết tướng trí. Tự viên mãn ba mươi hai tướng tám mươi tùy hảo, cũng khuyên người viên mãn ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo, xưng nêu pháp viên mãn ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo không trái, vui mừng khen ngợi kẻ viên mãn ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hảo.

Thiện Hiện nên biết! Nếu chơn như pháp giới tiền tế, trung tế, hậu tế có sai khác, thì các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, không thể lập bày phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình mà thuyết chơn như pháp giới, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu Bồ Tát hạnh, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vận chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình. Vì chơn như pháp giới tiền tế, trung tế, hậu tế thường không sai khác, nên các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật lập bày các phương tiện thiện xảo, vì các hữu tình mà thuyết chơn như pháp giới, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, tu Bồ Tát hạnh, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vận chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình. (Đến đây chấm dứt Q. 532, Hội thứ III, ĐBN)

Thích nghĩa cho đoạn 1. này:

(1). Sở hóa: (所化) Phạn: Vinìta. Đối lại: Năng hóa. Chỉ cho đối tượng được giáo hóa. Trong 3 loại thế gian nêu trong Hoa nghiêm Kinh thám huyền ký quyển 7 thì Trí chính giác thế gian của Thập Phật là Năng hóa, còn Chúng sinh thế gian thì là sở hóa. (Phật Quang Tự điển).

 

 

2. (Đoạn Kinh sau đây tương đương với phẩm “Thật Tế”,

phần sau Q.473 cho đến đầu Q.474, Hội thứ II, ĐBN)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình và thi thiết kia đều hoàn toàn bất khả đắc thì các đại Bồ Tát vì ai mà hành sâu Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát chỉ lấy thật tế làm lượng nên hành sâu Bát nhã Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu hữu tình tế khác với thật tế thì các đại Bồ Tát không nên hành sâu Bát nhã Ba la mật. Vì các hữu tình tế không khác thật tế nên chúng đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì không làm hoại pháp thật tế an lập hữu tình, làm cho họ trụ nơi thật tế. (Q.533, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu hữu tình tế tức là thật tế, thì vì sao đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật không làm hoại pháp thật tế an lập hữu tình, làm cho trụ nơi thật tế?

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, an lập hữu tình làm cho trụ nơi thật tế, thì an lập thật tế làm cho trụ nơi thật tế. Nếu an lập thật tế làm cho trụ nơi thật tế, thì tức là an lập tự tánh làm cho trụ nơi tự tánh. Nhưng đúng lý thì không thể an lập tự tánh trụ nơi tự tánh. Như vậy, làm sao cho rằng các Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì chẳng làm hoại pháp thật tế, an lập hữu tình trụ nơi thật tế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng lý không nên an lập thật tế trụ nơi thật tế. Cũng không nên an lập tự tánh trụ nơi tự tánh. Nhưng vì các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo nên có thể an lập hữu tình làm cho trụ nơi thật tế, mà hữu tình tế chẳng khác thật tế.

Như vậy, này Thiện Hiện! Hữu tình tế và thật tế không hai, không khác.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là phương tiện thiện xảo của đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình làm cho chúng trụ nơi thật tế, nhưng không làm hoại tướng của thật tế?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ lúc mới phát tâm đã thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình làm cho họ trụ nơi pháp bố thí. Các hữu tình kia trụ nơi pháp bố thí rồi, đại Bồ Tát vì họ mà thuyết tướng bố thí ở ngằn trước giữa sau không sai khác, nói như vầy: “Pháp bố thí như vậy, ở ngằn trước giữa sau đều Không. Người thí, người nhận, kết quả bố thí cũng đều Không. Tất cả như vậy, ở nơi thật tế đều vô sở hữu, đều bất khả đắc. Các ngươi không nên chấp có người bố thí, người nhận, quả thí, thật tế khác nhau. Nếu các ông không chấp vào sự bố thí, người thí, người nhận, quả thí, thật tế đều khác nhau thì phước tu bố thí sẽ đạt đến cam lồ, và được cam lồ, đều nhờ vào cam lồ mà được giải thoát".

Lại nói như vầy: “Các ông làm phước bố thí nhưng không chấp vào sắc uẩn cho đến thức uẩn. Không nên chấp mười hai xứ cho đến mười tám giới. Không nên chấp địa giới cho đến thức giới. Không nên chấp nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không nên chấp các pháp theo duyên sanh ra. Không nên chấp vô minh cho đến lão tử. Không nên chấp bố thí cho đến ngằn trước giữa sau. Không nên chấp pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. Không nên chấp chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, không nên chấp tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Không nên chấp pháp hữu lậu và vô lậu. Không nên chấp pháp thế gian và xuất thế gian. Không nên chấp pháp hữu vi và vô vi. Vì sao? Vì tất cả bố thí, bố thí tánh Không. Tất cả người thí, người thí tánh Không. Tất cả người nhận, người nhận tánh Không. Tất cả quả thí, quả thí tánh Không. Bố thí tánh Không thì người thí, người nhận và các quả thí đều bất khả đắc. Vì sao? Các pháp như vậy đều rốt ráo Không. Trong rốt ráo Không, các pháp như vậy đều bất khả đắc. Do các pháp bất khả đắc nên pháp được cũng bất khả đắc”.(1)

- Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này, nên an lập hữu tình, làm cho họ an trụ nơi tịnh giới. Các hữu tình kia trụ nơi tịnh giới rồi, đại Bồ Tát nói: “Từ nay các ngươi đối với tất cả hữu tình nên sanh tâm thương xót, xa lìa sự giết hại, nói rộng cho đến xa lìa tà kiến, tu hành chánh kiến. Vì sao? Vì các pháp như thế đều vô tự tánh, các ngươi chẳng nên phân biệt chấp trước. Các ngươi phải nên quán sát đúng lý pháp nào gọi là sanh mà muốn hại mạng. Lại do duyên nào mà hại mạng sống? Nói rộng, cho đến pháp nào gọi là cảnh bị tà kiến, muốn sanh tà kiến thì do duyên nào mà sanh tà kiến? Tất cả như vậy, tự tánh đều Không”.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, nên thành thục hữu tình một cách hoàn toàn, đem vô lượng pháp môn vì họ mà giảng thuyết bố thí và quả tịnh giới đều bất khả đắc, làm cho họ biết rõ bố thí và quả tịnh giới tự tánh đều Không. Hữu tình đã biết rõ sự tu bố thí và quả tịnh giới tự tánh Không rồi, nên ngay trong pháp không sanh chấp trước. Do không chấp nên tâm không tán loạn; tâm không tán loạn nên có thể phát sanh diệu tuệ. Nhờ diệu tuệ này, đoạn trừ được tùy miên và các sự trói buộc rồi, nên nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn.

Thiện Hiện nên biết! Sự giảng thuyết như vậy đều nương vào thế tục, chẳng nương nơi thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong pháp Không, không có mảy may pháp nào khả đắc. Hoặc đã Niết bàn, hoặc đang Niết bàn, hoặc sẽ Niết bàn, hoặc người Niết bàn, hoặc do đây nên được nhập vào Niết bàn v.v… tất cả như thế đều vô sở hữu, đều rốt ráo Không. Tánh rốt ráo Không tức là Niết bàn, lìa pháp Không này sẽ không có thật pháp Niết bàn.

- Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như thế. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên thấy các hữu tình tâm nhiều giận dữ, nên thương xót, dùng phương tiện giáo giới, nói như vầy: “Từ nay các ông nên tu an nhẫn, vui pháp an nhẫn, điều phục tâm mình, thọ hành an nhẫn. Pháp mà các ông đã giận dữ, tánh đều Không, tại sao đối với pháp ấy sanh tâm giận dữ? Các ông phải nên quán sát đúng lý: Ta do pháp nào mà sanh giận dữ? Ai giận dữ? Giận dữ với ai? v.v… Các pháp như vậy, bản tánh đều Không. Bản tánh Không chưa từng chẳng Không. Tánh Không như vậy chẳng phải Như Lai tạo ra, chẳng phải Bồ Tát tạo ra, chẳng phải Độc giác tạo ra, chẳng phải Thanh văn tạo ra, cũng chẳng phải rồng thần, nói rộng cho đến người chẳng phải người tạo ra, cũng chẳng phải trời Tứ đại thiên vương cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ tạo ra.

Các ông phải nên quán sát đúng lý: Giận dữ như vậy do đâu sanh ra? Lệ thuộc vào ai? Đối với ai mà sanh? Sẽ thu nhận quả gì? Hiện tại được lợi ích gì? Tất cả pháp này bản tánh đều Không, chẳng phải trong tánh Không có sự giận dữ. Vì vậy, phải tu an nhẫn để làm lợi ích cho chính mình”.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, an lập hữu tình, nơi lý tánh Không, nhân quả tánh Không, tuần tự đem quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chỉ bày, khuyên bảo, khen ngợi, vui mừng, làm cho an trụ hoàn toàn, mau được chứng quả.

Thiện Hiện nên biết! Sự giảng thuyết như vậy đều nương vào thế tục, chẳng nương nơi thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong bản tánh Không, không có người chứng, pháp được chứng, thời chứng, nơi chứng đều không thật có.

Thiện Hiện nên biết! Đây gọi là lý thật tế bản tánh Không. Các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên nương vào lý thật tế bản tánh Không này mà hành sâu Bát nhã Ba la mật, nhưng chẳng đắc hữu tình và sự hoạt động của chúng. Vì sao? Vì tất cả pháp đều lìa hữu tình. Hữu tình lìa pháp nên bất khả đắc. Pháp và hữu tình do đối đãi nhau mà lập nên, nương vào thắng nghĩa nên nói tất cả đều không.

- Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này, nên thấy các hữu tình thân tâm lười biếng, thối lui không tinh tấn, nên dùng phương tiện khuyên bảo, dẫn dắt làm cho họ phát khởi thân tâm tinh tấn, tu các thiện pháp, nói như vầy: “Các thiện nam tử! Hãy nên tin thọ sâu xa, trong bản tánh Không, không có pháp lười biếng, không có người lười biếng, không có lúc lười biếng, không do pháp này mà sanh lười biếng. Tất cả như vậy, bản tánh đều Không, không vượt qua, không lý lẽ. Các ông nên phát khởi thân tâm tinh tấn, xả bỏ sự lười biếng, siêng tu thiện pháp. Nghĩa là tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc tu bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Hoặc trụ pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. Hoặc trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, hoặc trụ hoặc tu tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hoặc tu vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Hãy nên tinh tấn, chớ sanh lười biếng, nếu sanh lười biếng thì chịu khổ vô cùng. (Q. 533, ĐBN)

Các thiện nam thiện nữ! Tất cả pháp này bản tánh đều Không, không có các sự chướng ngại. Các ông nên quán sát đúng lý trong bản tánh Không, không có sự chướng ngại, không có pháp lười biếng, không có người lười biếng, không có lúc lười biếng, không có nhân duyên lười biếng v.v… đều bất khả đắc”.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, an lập hữu tình làm cho trụ vào lý các pháp bản tánh Không. Tuy làm cho an trụ nhưng không có hai tưởng. Vì sao? Vì lý bản tánh Không, không hai, không khác; chẳng phải đối trong pháp không hai mà phát sanh hai tưởng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật, nương nơi bản tánh Không, giáo hóa, truyền trao cho các loài hữu tình, làm cho họ siêng năng tu học, nói như vầy: “Các thiện nam thiện nữ! Các ông đối với thiện pháp này phải siêng năng tu học. Nếu khi hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, thì đối với các pháp này không nên tư duy hai hay không hai tướng. Nói rộng, cho đến nếu khi tu vô lượng, vô biên các Phật pháp khác, thì đối với các pháp này cũng không nên tư duy hai hay không hai tướng. Vì sao? Thiện nam thiện nữ! Vì các pháp như vậy, bản tánh đều Không. Vì lý bản tánh Không, nên không tư duy hai hay không hai tướng”.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo thù thắng, hành Bồ Tát hạnh, thành thục hữu tình; các loài hữu tình đã được thành thục rồi, tùy theo chỗ thích ứng của họ, tuần tự giáo hóa làm cho an trụ quả Dự lưu, hoặc trụ quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, hoặc trụ vào các địa vị Bồ Tát, hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật.

- Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này, nên thấy các hữu tình tâm nhiều tán loạn, đối với các dục cảnh không kiềm chế các căn, phát sanh các nghiệp không thanh tịnh. Bồ Tát thấy rồi dùng phương tiện giáo giới truyền trao, làm cho họ nhập vào thắng định, nói như vầy: “Thiện nam thiện nữ! Hãy đến đây! Các ông nên tu tập Tam ma địa thù thắng, không nên sanh tâm tán loạn, nên tưởng thắng định. Vì sao? Vì các pháp như vậy, bản tánh đều Không. Trong bản tánh Không, không có pháp khả đắc, không có pháp tán loạn, hoặc nhất tâm. Nếu các ông có thể an trụ vào thắng định này, thì làm các việc thiện mau được thành tựu viên mãn, và tùy theo sự mong cầu đều trụ vào bản tánh Không.

Các việc thiện đã làm là như thế nào? Nghĩa là phát sanh nghiệp tịnh thắng nơi thân, khẩu, ý, hoặc là tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến tu Bồ Tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Tất cả thiện pháp tịnh thắng như vậy, do oai lực thắng định, nên mau thành tựu viên mãn và tùy theo sở nguyện trụ vào bản tánh Không”.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo vì muốn làm lợi ích cho các loài hữu tình, nên từ lúc mới phát tâm cho đến cuối cùng làm các việc thiện lợi, luôn không ngừng nghỉ. Vì muốn làm lợi ích an vui cho các hữu tình, nên từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, lắng nghe chư Phật thuyết giảng chánh pháp, trải qua vô số kiếp xả thân, thọ thân cho đến khi thành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ở trong giai đoạn ấy quyết chẳng quên mất. Đại Bồ Tát này được Đà la ni, căn thân, khẩu, ý thường không suy giảm. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này thường tu Nhất thiết tướng trí một cách hoàn toàn, các việc làm suy lường hoàn toàn. Do tu Nhất thiết tướng trí và việc làm suy lường hoàn toàn nên đối với tất cả đạo đều có thể tu tập. Đó là đạo Thanh văn, đạo Độc giác, đạo Bồ Tát, đạo Như Lai, đạo thắng thiên, đạo thắng nhơn, đạo thần thông thù thắng của các Bồ Tát. Đại Bồ Tát này do trụ vào đạo thần thông thù thắng, nên thường làm các việc lợi ích cho các hữu tình, dù phải nhiều kiếp trôi lăn trong vòng sanh tử nhưng thần thông thù thắng thường không suy giảm. Vì không suy giảm dị thục thần thông, nên thường làm các việc lợi ích thù thắng cho mình và người.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật trụ vào bản tánh Không, dùng phương tiện thiện xảo làm lợi ích cho các loài hữu tình một cách hoàn toàn.

- Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ lúc mới phát tâm thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy. Do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên trụ vào bản tánh Không, thấy các hữu tình trí tuệ cạn cợt, ngu si điên đảo, gây nhiều ác nghiệp, Bồ Tát giáo hóa truyền trao phương tiện, dìu dắt chúng vào Bát nhã Ba la mật, nói như vầy: “Thiện nam thiện nữ! Nên tu Bát nhã Ba la mật, quán tất cả pháp bản tánh đều Không. Nếu các ông có thể tu được Bát nhã Ba la mật này, và quán tất cả pháp bản tánh đều Không, thì sự tu hành về nghiệp thân, khẩu, ý sẽ đạt đến cam lồ, được cam lồ và đều nhờ vào cam lồ mà được giải thoát.

Các thiện nam thiện nữ! Tất cả pháp này bản tánh đều Không. Trong bản tánh Không, hữu tình và pháp tuy bất khả đắc nhưng sự tu hành cũng chẳng suy giảm. Vì sao? Này thiện nam tử! Lý bản tánh Không, không tăng không giảm. Trong bản tánh Không, không có pháp tăng giảm, không có người tăng giảm. Vì sao? Vì lý bản tánh Không, chẳng phải có tự tánh, chẳng phải vô tự tánh, lìa các sự phân biệt, đoạn các hý luận, nên ở trong ấy không có pháp tăng giảm, không có người tăng giảm, do đây việc làm cũng không suy giảm. Vì vậy, các ông nên tu Bát nhã Ba la mật, quán bản tánh Không, làm việc đáng làm”.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo giáo giới truyền trao cho các loài hữu tình, làm cho họ an trụ vào Bát nhã Ba la mật, trụ vào bản tánh Không, tu các nghiệp lành.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này giáo hóa truyền trao cho hữu tình như vậy, tu các nghiệp lành, luôn không lười biếng. Nghĩa là: Tự mình thường hành mười thiện nghiệp đạo, cũng khuyên người khác hành mười thiện nghiệp đạo. Tự mình giữ gìn năm giới cận sự, cũng khuyên người khác giữ gìn năm giới cận sự. Tự mình giữ gìn tám giới cận sự, cũng khuyên người khác giữ gìn tám giới cận sự. Tự mình thọ trì các giới xuất gia, cũng khuyên người khác thọ trì các giới xuất gia. Tự mình tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; cũng khuyên người khác tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tự mình tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, cũng khuyên người khác tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tự mình tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện; cũng khuyên người khác tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tự mình tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người khác tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Tự mình an trụ pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không, cũng khuyên người khác an trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Tự mình an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng khuyên người khác an trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, tự mình an trụ tất cả pháp Phật và cũng khuyên người tu hành tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, tự mình tu nghiệp lành luôn không biếng nhác, giáo giới truyền trao cho các loài hữu tình cũng tu theo nghiệp lành, thường không biếng nhác.

Này Thiện Hiện! Đây gọi là các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên an lập hữu tình, làm cho họ trụ nơi thật tế, nhưng không làm hoại tướng thật tế, mau chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh đều Không, trong bản tánh Không hữu tình và pháp đều bất khả đắc. Bởi vì trong ấy cũng không phi pháp, nên đại Bồ Tát làm sao vì các hữu tình cầu mau chứng Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Các pháp chứng được bản tánh đều Không. Trong bản tánh Không, hữu tình và pháp đều bất khả đắc, bởi vì trong ấy cũng không phi pháp.

Thiện Hiện nên biết! Nếu tất cả pháp, tánh chẳng Không thì các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, không nên an trụ vào lý bản tánh Không, cầu mau chứng được Nhất thiết trí trí, vì sự lợi ích cho hữu tình mà thuyết pháp bản tánh Không. Bởi tất cả pháp bản tánh đều Không. Cho nên các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ vào lý của tất cả pháp bản tánh Không, để cầu mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, vì làm lợi ích cho hữu tình mà thuyết pháp bản tánh Không.

 

(Pháp nào bản tánh đều Không?)

 

Những các pháp nào bản tánh đều không mà các đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thật biết rõ bản tánh không rồi, trụ bản tánh không vì các hữu tình thuyết pháp?

Thiện Hiện nên biết! Sắc cho đến thức bản tánh đều Không. Mười hai xứ cho đến mười tám giới bản tánh đều Không. Địa giới cho đến thức giới bản tánh đều Không. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên bản tánh đều Không. Các pháp theo duyên sanh ra bản tánh đều Không. Vô minh cho đến lão tử bản tánh đều Không. Bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật bản tánh đều Không. Pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bản tánh đều Không. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì bản tánh đều Không. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật bản tánh đều Không. Đoạn trừ tất cả các tập khí phiền não tương tục bản tánh đều Không. Nhất thiết trí trí bản tánh đều Không.

Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, như thật biết sắc v.v... năm uẩn, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí bản tánh là Không rồi, trụ vào bản tánh Không, vì các hữu tình mà giảng thuyết chánh pháp bản tánh Không như vậy.

(Rốt ráo nói tất cả pháp đều là bản tánh Không, chẳng pháp nào chẳng không)

 

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu tánh pháp nội không bản tánh chẳng Không, cho đến tánh pháp vô tánh tự tánh không bản tánh chẳng Không, thì các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, không muốn vì các hữu tình mà giảng thuyết tất cả pháp bản tánh đều Không. Nếu thuyết như thế bèn làm hoại bản tánh Không. Nhưng lý bản tánh Không không thể hoại, chẳng thường, chẳng đoạn. Vì sao? Vì lý bản tánh Không không có phương hướng, không nơi chốn, không từ đâu đến, cũng không đi về đâu. Lý không như vậy gọi là pháp trụ. Trong đây không pháp không tụ, không tán, không tăng, không giảm, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh, là bản tánh sở trụ của tất cả pháp. (Q.533, ĐBN)

Các đại Bồ Tát an trụ trong ấy cầu mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. Không thấy có pháp, có sự mong cầu chứng đắc, cũng không thấy có pháp không có sự mong cầu chứng đắc, vì tất cả pháp đều vô sở trụ, nên gọi là pháp trụ. Các đại Bồ Tát an trụ trong ấy hành sâu Bát nhã Ba la mật, thấy tất cả pháp bản tánh Không rồi, nhất định ở nơi quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề quyết không thối chuyển. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này không thấy có pháp có thể chướng ngại. Vì thấy tất cả pháp không chướng ngại, nên đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không sanh nghi ngờ, cũng không thối chuyển.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát trụ trong tất cả pháp bản tánh Không, quán bản tánh Không đều vô sở đắc. Nghĩa là ngã, hữu tình, nói rộng cho đến người biết, người thấy và thi thiết kia đều bất khả đắc. Sắc cho đến thức và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Mười hai xứ cho đến mười tám giới và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Nhãn xúc cho đến ý xúc và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Địa giới cho đến thức giới và thi thiết cũng bất khả đắc. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên và thi thiết cũng bất khả đắc. Các pháp theo duyên sanh ra và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Vô minh cho đến lão tử và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Bố thí cho đến thi thiết và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không và sự thi thiết kia cũng bất khả đắc. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Pháp hữu lậu, vô lậu và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Pháp thế gian, xuất thế gian và thi thiết kia cũng bất khả đắc. Pháp hữu vi, vô vi và thi thiết kia cũng bất khả đắc. (Q.533, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Ví như có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hóa làm bốn chúng là Bí sô, Bí sô ni, cận sự nam, cận sự nữ. Giả sử có vị hóa Phật sống lâu một kiếp hoặc hơn một kiếp, vì bốn chúng được hóa ấy mà giảng Chánh pháp. Ý ngươi nghĩ sao? Hóa chúng như thế có thể chứng được quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn, quả A la hán, quả Bồ đề, cho đến chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề bất thối chuyển không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không chứng được! Vì sao? Vì những chúng biến hóa này đều không thật. Chẳng phải pháp không thật mà có thể được thọ ký Bất thối chuyển.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các pháp cũng vậy, bản tánh đều Không, quyết không có thật. Đối với đại Bồ Tát nào, vì các hữu tình mà giảng thuyết những pháp gì có thể làm cho họ chứng đắc quả Dự lưu cho đến được thọ ký Bất thối chuyển?

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát tuy vì hữu tình giảng pháp Không nhưng các hữu tình thật bất khả đắc. Vì thương xót họ bị đọa trong pháp điên đảo nên cứu vớt làm cho trụ vào pháp không điên đảo. Pháp không điên đảo là pháp không còn phân biệt, không còn phân biệt tức là không điên đảo. Nếu người nào còn phân biệt thì còn điên đảo và còn trong Đẳng lưu quả.

Thiện Hiện nên biết! Điên đảo tức là pháp không điên đảo. Trong không điên đảo, không có ngã và hữu tình, nói rộng cho đến không có người biết, người thấy. Cũng không có sắc uẩn cho đến thức uẩn. Cho đến cũng không có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.

Thiện Hiện nên biết! Vô sở hữu này là bản tánh Không. Các đại Bồ Tát khi hành sâu thi thiết, an trụ trong đây, thấy các hữu tình đọa vào tưởng điên đảo, dùng phương tiện thiện xảo độ họ được giải thoát, nghĩa là giải thoát không có ngã, tưởng có ngã, nói rộng cho đến không có người thấy, biết tưởng có người thấy, biết. Cũng giải thoát, không có sắc tưởng có sắc, nói rộng cho đến không có tám mươi vẻ đẹp tưởng có tám mươi vẻ đẹp. Cũng làm cho giải thoát năm thủ uẩn v.v... các pháp hữu lậu, giải thoát bốn niệm trụ v.v... các pháp vô lậu. Vì sao? Vì bốn niệm trụ v.v... các pháp vô lậu chẳng phải là thắng nghĩa, vô sanh, vô diệt, vô tướng, vô vi, vô hý luận, vô phân biệt. Vì vậy, nên giải thoát các pháp trên. (Q.533, ĐBN)

Chơn thắng nghĩa tức là bản tánh Không. Bản tánh Không ở đây tức là sự tu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chư Phật. Thiện Hiện nên biết! Trong đây không có ngã cho đến người thấy có thể đắc. Không có sắc uẩn cho đến thức uẩn có thể đắc. Không có mười hai xứ cho đến mười tám giới có thể đắc. Cũng không địa giới cho đến thức giới có thể đắc. Không có nhân duyên cho đến tăng thượng duyên có thể đắc. Không có các pháp theo duyên sanh ra có thể đắc. Không có vô minh cho đến lão tử cũng không. Không có bố thí cho đến thi thiết cũng không. Không có pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không có thể đắc. Không có chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì có thể đắc. Nói rộng ra, không có tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật có thể đắc. Không có ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ có thể đắc.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát chẳng vì đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chỉ vì các pháp bản tánh Không nên cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bản tánh Không này, ngằn đầu, giữa, sau bản tánh đều Không, không có đoạn nào là chẳng Không. Các đại Bồ Tát trụ bản tánh Không Ba la mật, vì muốn giải thoát các loài hữu tình, chấp tưởng hữu tình và tưởng pháp, nên hành Đạo tướng trí. Đại Bồ Tát này khi hành Đạo tướng trí tức là hành tất cả đạo, đó là đạo Thanh văn, đạo Độc giác, đạo Bồ Tát, đạo Như Lai.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này đối với tất cả đạo được viên mãn rồi, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thọ mạng lâu dài, chứng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đã chứng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rồi mới có thể làm cho Phật nhãn thường không đoạn diệt. Phật nhãn là như thế nào? Đó là bản tánh Không. Chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại trụ khắp mười phương thế giới, vì các hữu tình mà giảng thuyết Chánh pháp, đều dùng bản tánh Không này mà làm Phật nhãn.

Thiện Hiện nên biết! Chắc chắn không có vị Phật nào lìa bản tánh Không mà xuất hiện ở đời. Chư Phật ra đời đều thuyết nghĩa bản tánh Không, cốt yếu giáo hóa hữu tình nghe Phật thuyết nghĩa bản tánh Không, mới nhập vào Thánh đạo, chứng được Thánh quả. Nếu lìa bản tánh Không thì không có phương tiện nào khác.

Vì vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát muốn mau chứng đắc Nhất thiết trí trí, nên phải an trụ vào lý bản tánh Không, tu hành sáu pháp Ba la mật và các Bồ Tát hạnh. Nếu đã an trụ vào bản tánh Không, tu hành sáu pháp Ba la mật và các Bồ Tát hạnh, thì chắc chắn chẳng thối lui Nhất thiết trí trí, thường làm lợi ích cho tất cả hữu tình.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát rất là hi hữu đặc biệt, tuy hành tất cả pháp bản tánh Không, nhưng đối với bản tánh Không thường không hoại diệt. Nghĩa là không chấp sắc, thọ, tưởng, hành, thức khác bản tánh Không, cho đến không chấp quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khác bản tánh Không.

Bạch Thế Tôn! Sắc tức là bản tánh Không, bản tánh Không tức là sắc. Cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tức là bản tánh Không, bản tánh Không tức là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Các đại Bồ Tát rất hy hữu, tuy hành tất cả pháp bản tánh Không, nhưng đối với bản tánh Không thường không hoại mất.

Thiện Hiện nên biết! Sắc chẳng khác bản tánh Không, bản tánh Không chẳng khác sắc. Sắc tức là bản tánh Không, bản tánh Không tức là sắc. Cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng khác bản tánh Không, bản tánh Không chẳng khác quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật. Quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật tức là bản tánh Không, bản tánh Không tức là quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Nếu sắc khác bản tánh Không, bản tánh Không khác sắc, sắc chẳng phải bản tánh Không, bản tánh Không chẳng phải sắc; cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khác bản tánh Không, bản tánh Không khác quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề; quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng phải bản tánh Không, bản tánh Không chẳng phải quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, chẳng nên quán tất cả pháp bản tánh đều Không, cũng không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Vì sắc chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác sắc. Sắc tức là bản tánh không, bản tánh không tức là sắc. Cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng khác bản tánh không, bản tánh không chẳng khác chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề tức là bản tánh không, bản tánh không tức là chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nên các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, quán tất cả pháp đều bản tánh không mà năng chứng được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì lìa bản tánh không, không có một pháp là thật là thường, khá hoại khá đoạn. Trong bản tánh không, cũng không một pháp là thật là thường, khá hoại khá đoạn. Chỉ bởi các đứa ngu mê lầm điên đảo khởi tưởng riêng khác, nghĩa là phân biệt sắc khác bản tánh không, cho đến phân biệt chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề khác bản tánh không. Vì các đứa ngu này phân biệt các pháp cùng bản tánh không có sai khác, nên chẳng như thật biết sắc, chẳng như thật biết thọ tưởng hành thức. Bởi chẳng biết nên bèn chấp trước sắc, chấp trước thọ tưởng hành thức. Bởi chấp trước nên mới đối sắc chấp ngã ngã sở, đối thọ tưởng hành thức chấp ngã ngã sở. Bởi vọng chấp nên dính mắc vật trong ngoài, thọ thân sau có sắc thọ tưởng hành thức. Do đây chẳng năng giải thoát được các thú sanh lão bệnh tử rầu buồn khổ não, qua lại ba cõi xoay quanh không cùng. Bởi nhân duyên đây, các đại Bồ Tát trụ bản tánh không Ba la mật, hành sâu Bát nhã Ba la mật, chẳng chấp thọ sắc, cũng chẳng hoại sắc hoặc không hoặc chẳng không. Cho đến chẳng chấp thọ chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng chẳng hoại chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề hoặc không hoặc chẳng không. Vì sao? Sắc chẳng hoại không, không chẳng hoại sắc, rằng đây là sắc đây là không. Cho đến chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng hoại không, không chẳng hoại chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, rằng đây là chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đây là không.

Ví như hư không chẳng làm hoại hư không. Cõi hư không nội không làm hoại cõi hư không ngoại, cõi hư không ngoại chẳng làm hoại cõi hư không nội.

Như vậy, này Thiện Hiện! Sắc chẳng hoại Không, Không chẳng hoại sắc. Cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng hoại Không, Không chẳng hoại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì các pháp như thế đều không tự tánh, không thể phân biệt đây là Không, đây là chẳng Không, vì tất cả pháp bản tánh đều Không. Trong bản tánh Không, không còn phân biệt. (Đến đây hết Q. 533, Hội thứ ba, ĐBN)

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp bản tánh đều Không, trong bản tánh Không đều không sai khác, thì các đại Bồ Tát trụ vào đâu hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phát thệ nguyện như vầy: “Ta phải chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rộng lớn, vận chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các hữu tình”?

Bạch Thế Tôn! Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rộng lớn thẳm sâu, không hai hành tướng. Do chẳng có hai hành tướng nên có thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cúi xin Như Lai thương xót nói cho. (Q.534, ĐBN)

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Như vậy! Như ngươi đã nói! Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rộng lớn thẳm sâu, không hai hành tướng. Chẳng hai hành tướng mà năng chứng được. Vì sao? Bồ đề không hai, cũng không phân biệt. Nếu kẻ đối Bồ đề hành hai tướng, có phân biệt tất chẳng thể chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rộng lớn.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát đối với Bồ đề chẳng hành hai tướng, cũng chẳng phân biệt; đều không trụ mà phát tâm hướng đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đối với tất cả pháp, các đại Bồ Tát chẳng hành hai tướng, cũng chẳng phân biệt, cũng không có sở hành thì có thể chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chẳng phải hành hai tướng mà có thể chứng được. Bồ đề của các đại Bồ Tát hoàn toàn không hành xứ. Nghĩa là không hành sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không hành mười hai xứ cho đến mười tám giới. Không hành địa giới cho đến thức giới. Không hành nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không hành các pháp theo duyên sanh ra. Không hành vô minh cho đến lão tử. Không hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Không hành pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Không hành chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, không hành tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ đề của các đại Bồ Tát không duyên nơi danh tướng, âm thanh, chấp ngã, ngã sở; nghĩa là Bồ đề kia không suy nghĩ như vầy: Ta hành nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Bồ đề của các đại Bồ Tát chẳng chấp lấy nên hành, chẳng bỏ nên hành, vì đối với tất cả pháp không có sự phân biệt.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ đề của đại Bồ Tát chẳng chấp lấy nên hành, chẳng bỏ nên hành, đối với tất cả pháp không còn phân biệt, thì Bồ đề của các đại Bồ Tát phải hành chỗ nào?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Bồ đề của hóa thân chư Phật nên hành chỗ nào, để lấy nên hành, để bỏ nên hành?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không phải vậy. Bởi vì hóa thân chư Phật thật vô sở hữu, làm sao nói được có Bồ đề hành nơi chỗ nào, hoặc lấy hoặc bỏ?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ông thế nào? Bồ đề trong mộng, các A la hán nên hành chỗ nào, để lấy chỗ nào nên hành, để bỏ chỗ nào nên hành?

Thiện Hiện bạch Phật:

Bạch Thế Tôn! Không phải vậy! Bởi vì các bậc A la hán đã đoạn tận phiền não, hôn trầm thùy miên, triền cái, tất cả đều chấm dứt hoàn toàn không mộng, thế thì làm sao mà có Bồ đề trong mộng hành nơi chỗ nào hoặc lấy hoặc bỏ?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy, chẳng lấy nên hành, chẳng bỏ nên hành, đều không chỗ hành, vì đạt được tất cả pháp bản tánh Không.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào hành sâu Bát nhã Ba la mật, có Bồ đề chẳng lấy nên hành, chẳng bỏ nên hành, đều không chỗ hành. Nghĩa là không hành sắc, thọ, tưởng, hành, thức, nói rộng cho đến không hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng lại không hành Nhất thiết trí trí. Cũng không có chúng đại Bồ Tát không hành mười địa, không hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Không hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Không hành mười tám pháp Không. Không hành tịnh lự, đẳng trì, đẳng chí. Cho đến chẳng hành Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, mười tám pháp Phật bất cộng. Không hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, nói rộng cho đến tám mươi vẻ đẹp và vô lượng, vô biên các Phật pháp khác. Không trụ vào thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, trang nghiêm cõi Phật, mà có thể chứng được Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bồ đề của các đại Bồ Tát, tuy không có chỗ hành, nhưng chúng đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên chủ yếu hành mười địa và hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến phải trụ vào thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mới có khả năng chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ đề của các đại Bồ Tát nếu không chỗ hành thì không có đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên chẳng trụ vào mười địa tu hành lâu dài viên mãn. Chẳng trụ bố thí cho Bát nhã Ba la mật tu hành lâu dài viên mãn. Nói rộng, cho đến chẳng trụ thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật tu hành lâu dài viên mãn, để có thể viên mãn được Nhất thiết trí trí?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Bồ đề của các đại Bồ Tát tuy không chỗ hành mà chứng, nhưng các đại Bồ Tát vì muốn làm lợi ích cho các hữu tình nên chủ yếu trụ mười địa tu hành lâu dài viên mãn, trụ bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật tu hành lâu dài viên mãn. Nói rộng, cho đến cần trụ thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, tu hành lâu dài viên mãn cho đến có thể chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện nên biết! Nếu các vị đại Bồ Tát tu các căn lành chưa được viên mãn, thì nhất định không đạt được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào muốn chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên trụ sắc bản tánh Không, nên trụ thọ, tưởng, hành, thức bản tánh Không. Nói rộng, cho đến nên trụ Bồ Tát hạnh bản tánh Không, nên trụ quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề bản tánh Không. Nên trụ tất cả pháp bản tánh Không, nên trụ tất cả hữu tình bản tánh Không. Tu hành mười địa cho được viên mãn. Tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật cho được viên mãn. Nói rộng, cho đến tu hành thần thông thù thắng của Bồ Tát, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật được viên mãn rồi mới chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp này lý bản tánh Không và các hữu tình lý bản tánh Không cực kỳ tịch tĩnh, không có chút pháp nào là có tăng hay giảm, sanh hay diệt, thường hay đoạn, nhiễm hay tịnh, đắc quả hay hiện quán.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát nương vào thế tục nói tu Bát nhã Ba la mật, như thật biết rõ bản tánh Không rồi mới chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không nương vào thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế, không có sắc, cũng không có thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến không có Bồ Tát hạnh, cũng không có quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có thể đắc. Không có người hành Bồ Tát hạnh, cũng không có người chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật.

Thiện Hiện nên biết! Các pháp và các hữu tình như vậy đều nương vào lời nói thế tục lập ra, không nương vào thắng nghĩa.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ lúc mới phát tâm, tuy rất dõng mãnh vì các hữu tình mà hành Bồ đề hạnh, nhưng đối với tâm này đều vô sở đắc, đối với các hữu tình cũng vô sở đắc, đối với đại Bồ đề cũng vô sở đắc, đối với Phật, Bồ Tát cũng vô sở đắc. Vì tất cả pháp, tất cả hữu tình bản tánh Không, bất khả đắc.

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều vô sở hữu, đều bản tánh Không, vô sở đắc, thì đại Bồ Tát làm sao hành Bồ đề hạnh? Làm sao có thể chứng đắc Vô thượng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Ý ngươi nghĩ sao? Ở giai đoạn trước đây, ngươi nương vào cảnh giới đoạn để đoạn trừ thân kiến v.v... các phiền não kiết sử để chứng được các căn vô lậu, trụ định vô gián, chứng quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn cho đến quả A la hán. Trong thời gian ấy, ông thấy có mộng, hoặc tâm, hoặc đạo, hoặc các đạo quả có thể đắc không?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Không có!

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nếu ngươi lúc ấy đều vô sở đắc, thì làm sao nói được có quả A la hán?

Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nương vào thế tục mà nói, chẳng nương vào thắng nghĩa.

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, nương vào thế tục nói hành Bồ đề hạnh được đại Bồ đề, chẳng nương vào thắng nghĩa.

Thiện Hiện nên biết! Nương vào thế tục đặt ra có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Nói rộng, cho đến nương vào thế tục đặt ra Bồ Tát hạnh, lập bày quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nương vào thế tục đặt ra có hữu tình, Bồ Tát, chư Phật; chẳng nương vào thắng nghĩa.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát không thấy có pháp nào đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề có tăng, có giảm, có ích, có tổn, vì tất cả pháp bản tánh Không.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát quán bản tánh Không của tất cả pháp còn không thể được, huống là mới phát tâm mà được. Phát tâm đầu tiên còn không được, huống là tu sơ địa cho đến thập địa, tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, tu ba mươi bảy Bồ đề phần pháp, ba pháp môn giải thoát, cho đến vô lượng, vô biên Phật pháp mà có thể được. Nếu có thể được thì chắc chắn không có sự việc ấy.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo hành Bồ Tát hạnh, chứng đại Bồ đề, độ chúng hữu tình, thường không gián đoạn.

Thích nghĩa cho đoạn này:

(1). Đoạn Kinh này nói về tánh không và tất cánh không. Sự khác biệt của hai pháp này như sau:

- Tự tánh của hết thảy các pháp là không, chỉ do các duyên hòa hợp mà dường như có, nếu lìa các duyên thì tự tính các pháp không thật có, là Tánh không.

- Tánh của chúng sinh cũng như hư không, trong đó không có sinh tử qua lại, cũng không có người giải thoát. Vì sinh tử vốn tự chẳng sinh, nên không có qua lại; đã không có sinh tử qua lại thì sinh tử ở đâu mà diệt, nên gọi là Niết bàn, vì thế không có giải thoát. Bởi vậy, sinh tử Niết bàn rốt ráo đều không, tất cả đều không sinh. Tức Niết bàn vốn tự chẳng sinh, sinh tử cũng vốn tự chẳng sinh, cho nên là tất cả chẳng sinh. Vì tất cả chẳng sinh nên gọi là Tất cánh không.

Đã thích nghĩa và chiết giải đoạn Kinh này trong quyển 386, Hội thứ I, ĐBN.

 

 

3. (Đoạn Kinh này tương đương với phẩm “Vô Khuyết”,

phần cuối Q.474 cho đến hết Q.475, Hội thứ II, ĐBN).

 

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát tuy siêng năng tinh tấn tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. An trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Tu hành Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông. Tu hành Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả. Tu hành ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ. Tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Tu hành Nhất thiết trí Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Tu hành Bồ Tát hạnh. Tu hành quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu tu đạo Bồ đề chưa viên mãn, không thể chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì đại Bồ Tát làm sao tu đạo Bồ đề để có thể chứng đắc viên mãn quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên khi tu hành bố thí Ba la mật không thấy bố thí, không thấy người bố thí, không thấy người thọ, không thấy việc thí; cũng không xa lìa các pháp như vậy mà hành bố thí. Đại Bồ Tát này khi bố thí như vậy, thì có thể mau viên mãn đạo Bồ đề.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, tu đạo Bồ đề làm cho được viên mãn, có thể chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đối với tịnh giới Ba la mật v.v... cho đến Bồ Tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tùy theo chỗ thích ứng ấy, nói rộng cũng vậy.

Lúc ấy, Ngài Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, dõng mãnh siêng năng tu đạo Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát nào khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, không hòa hợp sắc cho đến thức; không phân hóa sắc cho đến thức. Không hòa hợp mười hai xứ cho đến mười tám giới; không phân hóa mười hai xứ cho đến mười tám giới. Không hòa hợp địa giới cho đến thức giới; không phân hóa địa giới cho đến thức giới. Không hòa hợp nhân duyên cho đến tăng thượng duyên; không phân hóa nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Không hòa hợp các pháp theo duyên sanh ra; không phân hóa các pháp theo duyên sanh ra. Không hòa hợp vô minh cho đến lão tử; không phân hóa vô minh cho đến lão tử. Không hòa hợp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; không phân hóa bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Không hòa hợp pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không; không phân hóa pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không. Không hòa hợp chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì; không phân hóa chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, không hòa hợp tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề; không phân hóa tất cả pháp Phật từ tThánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì các pháp như vậy đều vô tự tánh, có thể khiến hòa hợp hay phân ly.

Như vậy, Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, dõng mãnh siêng năng tu đạo Bồ đề. (Q.534, ĐBN)

Khi ấy, Xá Lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều vô tự tánh, có thể làm cho hòa hợp và phân hóa thì đại Bồ Tát làm sao ở trong pháp ấy tu học để đạt đến Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát chẳng học Bát nhã Ba la mật thì nhất định không thể đạt được sự mong cầu quả vị Vô thượng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Tử! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Đại Bồ Tát nào chẳng học Bát nhã Ba la mật thì nhất định không thể đạt được sự mong cầu quả vị Vô thượng Bồ đề.

Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát nào mong cầu chứng được quả vị Vô thượng Bồ đề thì phải học Bát nhã Ba la mật mới có thể chứng được.

 

Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát mong cầu chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cần phải có phương tiện thiện xảo mới có thể chứng được, chẳng phải không có phương tiện thiện xảo mà có thể chứng được.

Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, nếu thấy có pháp tự tánh khả đắc thì nên lấy, không thấy có pháp tự tánh khả đắc thì lấy ở chỗ nào? Chỗ chẳng lấy ấy chính là Bát nhã Ba la mật. Đây là tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Bát nhã Ba la mật. Đây là sắc uẩn cho đến thức uẩn. Đây là mười hai cho đến mười tám giới. Đây là nhãn xúc cho đến ý xúc. Đây là các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Đây là địa giới cho đến thức giới. Đây là nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Đây là các pháp theo duyên sanh ra. Đây là vô minh cho đến lão tử. Đây là pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Đây là chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, đây là tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Đây là phàm phu, đây là Thanh văn, đây là Độc giác, đây là đại Bồ Tát, đây là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, như thật biết rõ tất cả pháp tánh đều không thể chấp thủ. Đó là Bát Nhã cho đến bố thí Ba la mật đều không chấp thủ. Sắc uẩn cho đến thức uẩn đều không chấp thủ. Mười hai xứ cho đến mười tám giới đều không chấp thủ. Địa giới cho đến thức giới đều không chấp thủ. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên đều không chấp thủ. Các pháp theo duyên sanh ra đều không chấp thủ. Vô minh cho đến lão tử đều không chấp thủ. Bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo đều không chấp thủ. Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không đều không chấp thủ. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì đều không chấp thủ. Nói rộng ra, tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đều không chấp hữu. Tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều không chấp thủ. (Q.534, ĐBN)

Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, như thật biết rõ tất cả pháp tánh đều không chấp thủ, nên đối với tất cả pháp đều không chướng ngại.

Này Xá Lợi Tử! Không chấp thủ Ba la mật này tức là không chướng ngại Bát nhã Ba la mật. Không chướng ngại Bát nhã Ba la mật như vậy, tức là Bát nhã Ba la mật. Các đại Bồ Tát nên học như vậy.

Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát nào có thể học như vậy thì đối với tất cả pháp đều vô sở đắc, hãy chẳng đắc shọc huống đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, huống đắc Bát nhã Ba la mật, đắc quả phàm phu, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Phật. Vì sao? Này Xá Lợi Tử! Vì không có chút thật pháp nào có tự tánh. Nếu trong tất cả pháp không có tự tánh thì những pháp nào là phàm phu? những pháp nào là Dự lưu cho đến chư Phật?

Này Xá Lợi Tử! Các pháp như vậy đã bất khả đắc thì nương vào những pháp nào để lập ra con người? Con người cũng bất khả đắc thì làm sao nói đây là phàm phu, đây là Dự lưu cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

Khi ấy, Xá Lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không tự tánh, đều chẳng thật có thì nương vào đâu để biết rõ đây là phàm phu, đây là pháp của phàm phu? Nói rộng, cho đến đây là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đây là pháp Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác?

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Tử! Ý ngươi nghĩ sao? Vì thật có sắc, hoặc đã có, hoặc sẽ có như sự chấp trước của các phàm phu không? Thật có thọ, tưởng, hành, thức, hoặc đã có, hoặc sẽ có như sự chấp trước của các phàm phu không? Nói rộng, cho đến thật có quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, hoặc đã có, hoặc sẽ có như sự chấp trước của các phàm phu không? Thật có phàm phu cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, hoặc đã có, hoặc sẽ có như chấp trước của các phàm phu không?

Xá Lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng thật có, chỉ vì các phàm phu điên đảo chấp có như vậy.

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, tuy quán các pháp đều không tự tánh, đều chẳng thật có, nhưng nương vào thế tục hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình phương tiện giảng thuyết làm cho họ hiểu biết chơn chính, xa lìa các điên đảo.

Khi ấy, Xá Lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, do oai lực của phương tiện thiện xảo này nên tuy quán các pháp vô tự tánh, đều chẳng thật có, nhưng nương vào thế tục hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vì các hữu tình phương tiện giảng thuyết làm cho họ hiểu biết chơn chính, xa lìa các điên đảo?

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, thành tựu phương tiện thiện xảo như vầy: Nghĩa là không thấy có chút thật pháp nào trụ bên trong. Nếu còn trụ bên trong thì còn ngăn ngại. Do có ngăn ngại nên có thối thất. Do thối thất nên tâm suy yếu. Vì tâm suy yếu mới sanh giải đãi.

Này Xá Lợi Tử! Vì tất cả pháp đều không thật có, không có ngã và ngã sở, đều dùng vô tánh làm tự tánh, bản tánh Không tịch, tự tướng Không tịch. Chỉ có tất cả phàm phu mê lầm điên đảo, chấp trước sắc uẩn cho đến thức uẩn. Chấp trước mười hai xứ cho đến mười tám giới. Chấp trước nhãn xúc cho đến ý xúc. Chấp trước các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Chấp trước địa giới cho đến thức giới. Chấp trước nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Chấp trước các pháp theo duyên sanh ra. Chấp trước vô minh cho đến lão tử. Chấp trước bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Chấp trước pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Chấp trước chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, chấp trước tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến chấp trước quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Chấp trước phàm phu cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

Do nhân duyên này, các đại Bồ Tát quán tất cả pháp đều không thật có, không có ngã và ngã sở, đều dùng vô tánh làm tự tánh, bản tánh Không tịch, tự tướng Không tịch. Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, tu tập như nhà ảo thuật, vì các hữu tình mà nói pháp: Đối với những kẻ tham lam thì nói pháp bố thí. Những người phạm giới thì nói tịnh giới. Những người hay giận dữ thì nói an nhẫn. Những người lười biếng thì nói tinh tấn. Những người tán loạn thì nói tịnh lự. Những người ác tuệ thì nói Bát nhã. Đại Bồ Tát này an lập hữu tình làm cho an trụ vào pháp bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, rồi lại vì họ giảng thuyết Thánh pháp thù thắng để giải thoát sanh tử, làm cho các hữu tình nương vào đó tu học, chứng được quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, nhập vào địa vị đại Bồ Tát, trụ quả vị Vô thượng Bồ đề.

Khi ấy, Xá Lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, vì sao không gọi là bậc có sở đắc, đối với các hữu tình thật không có sở hữu mà khiến an trụ nơi bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, lại vì họ giảng thuyết Thánh pháp thù thắng để giải thoát sanh tử, chứng được quả Dự lưu cho đến chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, đối với các hữu tình chẳng phải hữu sở đắc. Vì sao? Vì đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, không thấy hữu tình có chút khả đắc nào. Do đó, chỉ nương theo thế tục giả nói hữu tình.

Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật, an trụ vào hai đế, vì các hữu tình mà giảng thuyết Chánh pháp. Hai đế đó là: Một là thế tục; hai là thắng nghĩa.

Này Xá Lợi Tử! Tuy nương vào hai đế lập ra hữu tình nhưng đều bất khả đắc, nhưng các đại Bồ Tát khi hành sâu Bát nhã Ba la mật sâu xa, dùng phương tiện thiện xảo vì các hữu tình mà giảng thuyết pháp yếu, làm cho các hữu tình nghe Chánh pháp rồi, ở trong pháp hiện tại còn chẳng đắc ngã, huống là sẽ đạt được Thánh quả. (Q.534, ĐBN)

Như vậy, này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, tuy vì hữu tình mà giảng thuyết pháp yếu, làm cho họ tu theo chánh hạnh để được chứng quả, nhưng tâm đối với sự việc ấy đều vô sở đắc, vì biết rõ các pháp đều bất khả đắc.

Xá Lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát này là chơn đại Bồ Tát. Tuy đối với các pháp không đắc nhất pháp, không đắc dị pháp, không đắc tổng pháp, không đắc biệt pháp mà mặc giáp mũ đại công đức như vậy. Do mặc giáp mũ đại công đức như vậy nên không sanh vào cõi Dục giới, không sanh vào cõi Sắc giới, không sanh vào cõi Vô sắc, không thấy cảnh giới hữu vi, không thấy cảnh giới vô vi. Tuy giáo hóa hữu tình làm cho ra khỏi ba cõi nhưng đối với hữu tình đều vô sở đắc, cũng chẳng đắc thi thiết hữu tình. Vì thi thiết hữu tình chẳng đắc, nên không trói, không mở. Vì không trói, không mở nên không nhiễm, không tịnh. Vì không nhiễm tịnh, nên không thể biết rõ các cảnh giới sai khác. Vì không thể biết rõ các cảnh giới sai khác, nên không nghiệp, không phiền não. Vì không nghiệp, không phiền não, nên cũng không có quả dị thục. Đã không có quả dị thục thì làm sao có ngã và hữu tình trôi lăn trong các đường, sanh vào ba cõi, có các cảnh giới sai khác?

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Tử! Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói!

Này Xá Lợi Tử! Nếu loại hữu tình trước có sau không, Bồ Tát, Như Lai lẽ có lầm lỗi. Trước không sau có, lý cũng chẳng phải. Luân hồi trong các cõi có không cũng thế.

Vì vậy, này Xá Lợi Tử! Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, pháp tánh vẫn thường trụ, chơn như pháp giới tánh chẳng hư dối, chắc chắn không cải đổi. Vì tất cả pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, pháp định, chơn như, thật tế đều như hư không. Trong đây hãy không ngã thảy khá được, huống có sắc cùng các pháp khá được. Đã không sắc thảy các pháp khá được, làm sao mà có các thú lộn quanh. Các thú lộn quanh đã chẳng khá được, làm sao sẽ có thành thục hữu tình khiến kia giải thoát? Chỉ nương thế tục giả nói là có.

Này Xá Lợi Tử! Vì pháp như vậy, tự tánh đều Không, nên các đại Bồ Tát ở đời quá khứ theo Phật nghe như thật rồi, vì các hữu tình mà độ thoát khỏi sự điên đảo, chấp trước, cầu đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Khi đạt đến quả vị, Bồ Tát không nghĩ như vầy: Ta đối với pháp này đã đạt được, hoặc sẽ đạt được, làm cho các hữu tình kia cũng đã được độ, hoặc sẽ được độ, không còn chấp trước, ra khỏi sanh tử.

Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này vì các hữu tình mà độ họ thoát khỏi sự điên đảo, chấp trước, mặc giáp mũ công đức, phát đại thệ nguyện, trang nghiêm dõng mãnh, siêng năng, không bị đắm trước, không thối chuyển quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thường đối với Bồ đề không sanh tâm nghi ngờ là ta sẽ chứng hoặc không chứng. Chỉ nên chánh niệm: Ta nhất định sẽ đạt được sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích chơn thật cho các hữu tình, đó là độ họ thoát khỏi sự mê lầm điên đảo, luân hồi các nẻo, chịu khổ sanh tử.

Này Xá Lợi Tử! Đại Bồ Tát này tuy độ các hữu tình thoát khỏi sự mê lầm điên đảo, các đường sanh tử, nhưng không sở đắc, chỉ nương vào thế tục nói có việc này.

Này Xá Lợi Tử! Như nhà ảo thuật tài giỏi hoặc học trò của y, nương vào ảo thuật, biến hóa vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng. Lại hóa ra các món thực phẩm thượng hạng, đem vật huyễn ấy bố thí cho các hữu tình được no nê. Nhà huyễn thuật làm việc này rồi, vui mừng nghĩ: Tôi đã được phước đức rộng lớn. Ý ngươi nghĩ sao? Nhà ảo thuật tài giỏi này và học trò của ông thật làm cho các hữu tình được ăn no không?

Xá Lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không có thật!

Phật dạy:

- Này Xá Lợi Tử! Các đại Bồ Tát cũng lại như vậy. Từ lúc mới phát tâm vì muốn độ thoát các loài hữu tình nên tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. An trụ pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. An trụ chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. An trụ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Tu hành bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Tu hành bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Tu hành pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện. Tu hành tám giải thoát cho đến mười biến xứ v.v… Tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Viên mãn đạo đại Bồ đề của Bồ Tát. Thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. (Q.534, ĐBN)

Này Xá Lợi Tử! Mặc dù các đại Bồ Tát làm việc này nhưng đối với hữu tình và tất cả pháp đều vô sở đắc, không nghĩ như vầy: Ta đem pháp này điều phục các loài hữu tình như vậy, làm cho họ xa lìa điên đảo chấp trước, không còn qua lại chịu khổ sanh tử nữa.

 

(Đạo Bồ đề của Bồ Tát?)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đạo Bồ đề của Bồ Tát? Các đại Bồ Tát tu hành đạo này phương tiện thiện xảo, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau chứng được quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát từ lúc mới phát tâm tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, nói rộng cho đến tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí và vô lượng, vô biên Phật pháp khác, đều gọi là đạo Bồ đề của Bồ Tát.

Các đại Bồ Tát tu hành đạo này dùng phương tiện thiện xảo, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng không tưởng có hữu tình ở trong thập hiệu và cõi Phật.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào đại Bồ Tát khi hành bố thí Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo thành thục hữu tình?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo, tự mình hành bố thí, cũng khuyên người khác hành bố thí, ân cần dạy bảo, truyền trao cho họ, nói như vầy: “Này các thiện nam thiện nữ! Không nên chấp vào việc bố thí. Nếu chấp bố thí thì sẽ bị tái sanh. Nếu do đây bị tái sanh thì phải luân chuyển sẽ chịu vô lượng, vô biên thống khổ.

Này các thiện nam thiện nữ! Trong lý thắng nghĩa đều không bố thí, cũng không có người thí, người nhận, vật thí và các quả thí. Các pháp như vậy, bản tánh đều Không. Trong bản tánh Không, không có pháp nắm bắt, các pháp tánh Không cũng không nắm bắt”.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, tuy đối với hữu tình tự mình hành bố thí, cũng khuyên người khác hành bố thí, nhưng đối với việc bố thí, người bố thí, kẻ nhận, vật thí, quả thí đều vô sở đắc. Bố thí Ba la mật như vậy, gọi vô sở đắc Ba la mật.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này khi đối với các pháp vô sở đắc, phương tiện thiện xảo có thể giáo hóa hữu tình trụ quả Dự lưu, nói rộng cho đến quả vị Vô thượng Bồ đề.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành bố thí Ba la mật, thành thục hữu tình, làm cho chúng được lợi ích an vui.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này tự mình hành bố thí, cũng khuyên người khác hành bố thí, thường tự mình tán dương pháp hành bố thí, vui mừng khen ngợi người hành bố thí. Đại Bồ Tát này tu hành đại bố thí như vậy rồi, sẽ được sanh vào đại tộc Sát đế lợi, hoặc đại tộc Bà la môn, đại tộc Trưởng giả, đại tộc Cư sĩ giàu sang đầy đủ; hoặc làm Tiểu vương ở trong một tiểu quốc giàu sang tự tại; hoặc làm Đại vương ở trong một đại quốc giàu sang tự tại; hoặc làm Đại luân vương ở trong bốn châu giàu sang tự tại.

Đại Bồ Tát này sanh vào những chỗ như vậy, dùng bốn nhiếp sự giáo hóa các hữu tình. Trước hết dạy họ an trụ vào bố thí, do đây tuần tự dạy họ tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát nhã. Lại làm cho họ an trụ vào bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc; an trụ trong ba mươi bảy Bồ đề phần pháp; an trụ vào ba pháp môn giải thoát. Đại Bồ Tát này giáo hóa các hữu tình trụ vào các thiện pháp như vậy rồi, hoặc làm cho họ nhập vào Chánh tánh ly sanh, chứng quả Dự lưu cho đến quả A la hán. Đã nhập vào Chánh tánh ly sanh rồi, tuần tự chứng quả Độc giác Bồ đề. Đã nhập vào Chánh tánh ly sanh rồi, tuần tự học các địa vị của Bồ Tát, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại dạy rằng: “Này các thiện nam thiện nữ! Phải phát đại nguyện để mau được chứng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm việc lợi ích thù thắng cho các hữu tình. Các loài hữu tình này vì hư vọng phân biệt chấp trước các pháp đều vô tự tánh, do vì chúng điên đảo vọng chấp cho là có. Vì vậy, nên các ông phải siêng năng tinh tấn tự mình đoạn trừ điên đảo, cũng khuyên người khác đoạn trừ; tự mình thoát sanh tử, cũng làm cho người giải thoát; tự mình được lợi lớn, cũng làm cho người khác được lợi lớn”. (Q.534, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát này thường nên tu hành bố thí Ba la mật như vậy. Do bố thí này nên từ lúc mới phát tâm cho đến được rốt ráo không bị đọa vào ác thú, nghèo hèn, biên địa. Vì muốn lợi ích an vui cho các hữu tình nên phần nhiều được sanh làm người, làm Chuyển luân vương giàu sang tự tại, được nhiều điều lợi ích. Vì sao? Vì nhờ sức lực của hạt giống nên mới cảm quả như vậy. Nghĩa là Bồ Tát kia làm Chuyển luân vương, thấy người đến xin liền suy nghĩ: Ta nhờ làm việc gì mà ở trong vòng sanh tử được làm Chuyển luân vương? Nay ta ở trong sanh tử, hưởng quả báo tốt này phải làm lợi ích an vui cho hữu tình, chứ không làm việc gì khác cả? Nghĩ như vậy rồi, bảo những người đến xin: “Các ngươi tùy ý, cần dùng các thứ của cải chi, ta đều thí cho. Khi các ngươi đến lấy vật dụng, nghĩ nó như của mình, đừng nghĩ của người khác. Vì sao? Vì ta nhờ các ngươi nên được an vui mà thọ thân này, chứa nhóm của cải, nên của cải này là của các ngươi, tùy ý thọ dụng, hay cho người khác dùng, chớ có ngại ngùng”.

Khi đại Bồ Tát này khởi tâm thương xót các hữu tình như vậy, nên mau được viên mãn tâm vô duyên đại bi. Nhờ tâm đại bi mau viên mãn nên tuy thường làm lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình nhưng đối với hữu tình đều vô sở đắc, và cũng chẳng đắc cảm quả thù thắng, nên biết một cách như thật, chỉ do lời nói của thế tục lập ra nhiều thứ lợi ích an vui cho các hữu tình. Lại biết một cách như thật việc thi thiết đều giống như tiếng vang, như ảnh tượng, tuy hiện ra tựa có nhưng không chân thật. Do đấy đối pháp đều không chỗ lấy.

Thiện Hiện nên biết! Các đại Bồ Tát thường nên tu hành bố thí Ba la mật, như vậy, nghĩa là đối với hữu tình không có sự luyến tiếc. Cho đến xương thịt, thân thể còn đem bố thí, huống là các của cải bên ngoài. Đem các của cải bố thí, giáo hóa cho hữu tình mau được giải thoát sanh, lão, bệnh, tử. (Q.535, ĐBN)

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đem của cải nào để nhiếp hóa hữu tình mau giải thoát sanh, lão, bệnh, tử ra sao?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật là sở hữu của cải. Hoặc trụ nội không cho đến vô tánh tự tánh không là sở hữu của cải. Hoặc trụ chơn như cho đến bất tư nghì giới là sở hữu của cải. Hoặc trụ khổ tập diệt đạo Thánh đế là sở hữu của cải. Hoặc tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo là sở hữu của cải. Hoặc tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc là sở hữu của cải. Hoặc tu không, vô tướng, vô nguyện giải thoát môn là sở hữu của cải. Hoặc tu tám giải thoát cho đến mười biến xứ là sở hữu của cải. Nói rộng ra, hoặc tu Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là sở hữu của cải. Hoặc được quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề là sở hữu của cải. Hoặc hành Bồ Tát hạnh là sở hữu của cải. Hoặc chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là sở hữu của cải.

Thiện Hiện nên biết! Các của cải thiện pháp như vậy nhiếp hóa hữu tình, làm cho mau được giải thoát sanh, lão, bệnh, tử. Các đại Bồ Tát thường dùng các thứ của cải như thế làm phương tiện thiện xảo nhiếp hóa hữu tình, giúp cho mau được giải thoát các khổ sanh, lão, bệnh, tử.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ nơi bố thí Ba la mật, tự mình hành bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình hành bố thí rồi, nếu còn thấy hữu tình hủy phá tịnh giới thì nên sanh tâm thương xót, khuyên bảo họ: “Các ngươi phải nên thọ trì tịnh giới, ta sẽ bố thí của cải cho, các ngươi từ nay không bị thiếu thốn. Bởi vì các ngươi thiếu thốn vật dụng sanh nhai nên mới hủy phá tịnh giới, gây các ác nghiệp, nay ta sẽ tùy theo sự thiếu thốn đó mà cung cấp cho các ngươi được đầy đủ. Các ngươi an trụ nơi giới luật thanh tịnh này tuần tự sẽ được đoạn trừ các khổ, nương theo pháp Tam thừa, tùy theo chỗ thích ứng, thoát khỏi khổ sanh tử, được vui Niết bàn”.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này an trụ bố thí Ba la mật, tự mình thọ trì tịnh giới, cũng khuyên người khác thọ trì tịnh giới, thường tự mình khen ngợi pháp thọ trì tịnh giới, vui mừng khen ngợi người thọ trì tịnh giới.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát tu hành bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình an trụ vào tịnh giới, thoát khổ sanh tử, được vui Niết bàn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình sân giận lẫn nhau, sanh tâm thương xót, khuyên bảo họ: “Nguyên nhân nào các ngươi sân giận với nhau như vậy? Các ngươi nếu vì sự thiếu thốn mà cùng nhau tạo các ác nghiệp, thì nên đến đây ta sẽ bố thí cho, đừng có ngại ngùng. Tùy theo các ngươi cần dùng ta đều thí cho. Các ngươi chẳng nên sân giận với nhau mà nên tu an nhẫn, cùng phát từ tâm”.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình tu an nhẫn rồi, muốn làm cho họ có niềm tin vững chắc, khuyên họ như vầy: “Nhân duyên sân giận đều không nhất định, không có thật, từ vọng tưởng phân biệt khởi ra, vì tất cả pháp bản tánh Không. Nguyên nhân nào các ngươi đối với pháp không thật mà vọng sanh sân giận, tổn hại với nhau? Các ngươi đừng vì nhân hư vọng phân biệt mà sân giận với nhau, tạo ra các ác nghiệp phải đọa vào địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ và chỗ xấu ác, chịu các sự khổ nặng nề. Sự khổ ấy thật là khốc liệt, bén nhọn, cắt hại thân tâm vô cùng đau đớn. Các ngươi đừng chấp vào việc chẳng thật, vọng tưởng sân giận tạo ra các ác nghiệp. Do nghiệp tội này thọ thân người hạ liệt còn khó có thể được, huống là sanh lên cõi trời, hoặc cõi người, hoặc gặp Phật nghe pháp, hết lòng tin thọ, như lời dạy mà tu hành.

Các ngươi nên biết! Thân này khó được, Phật ra đời khó gặp, phát sanh niềm tin lại khó, nghe pháp thọ trì lại càng khó hơn. Ngày nay các ngươi đã được đầy đủ, đừng vì sân giận mà đánh mất thời cơ tốt đẹp. Nếu mất thời cơ này khó tìm lại được. Vậy nên, các ngươi đối với các hữu tình đừng sanh sân giận, phải tu an nhẫn”. (Q.535, ĐBN)

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này an trụ bố thí Ba la mật, tự mình hành an nhẫn, cũng khuyên người khác hành an nhẫn, thường tự mình khen ngợi pháp hành an nhẫn, vui mừng khen ngợi người hành an nhẫn.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình tu hành an nhẫn. Các loài hữu tình do sự tuần tự này lần lần nương vào Tam thừa mà được giải thoát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình thân tâm biếng nhác, sanh lòng thương xót, khuyên bảo họ: “Nguyên nhân nào các ngươi không siêng năng tinh tấn tu các thiện pháp, lại sanh biếng nhác như vậy?” Người ấy trả lời: “Bởi vì chúng tôi thiếu thốn của cải, nên đối với thiện pháp chẳng siêng năng tu được”. Bồ Tát bảo: “Ta sẽ cho của cải để được đầy đủ, không bị thiếu thốn. Các ngươi nên siêng năng tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã”.

Khi được Bồ Tát bố thí của cải rồi, các hữu tình này không còn thiếu thốn, thân tâm phấn khởi, tinh tấn tu các thiện pháp mau được viên mãn. Hữu tình nhờ thiện pháp được viên mãn nên tuần tự phát sanh các pháp vô lậu. Nhờ pháp vô lậu nên được chứng quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc quả Độc giác Bồ đề, hoặc nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, tuần tự mình tu các địa vị của Bồ Tát, chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này an trụ bố thí Ba la mật, tự mình hành tinh tấn, cũng khuyên người khác hành tinh tấn, thường tự mình khen ngợi pháp hành tinh tấn, vui mừng khen ngợi người hành tinh tấn.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, giáo hóa các hữu tình xa lìa sự biếng nhác, siêng năng tu các điều thiện, mau được giải thoát.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình thân tâm tán loạn, sanh lòng thương xót, khuyên bảo họ: “Nguyên nhân nào các ngươi không tu tịnh lự, để bị tán loạn thất niệm, luân hồi sanh tử?” Người ấy trả lời: “Chúng tôi do thiếu thốn của cải, nên đối với tịnh lự chẳng tu tập được”. Bồ Tát bảo: “Ta sẽ bố thí cho các ngươi của cải để được đầy đủ, không bị thiếu thốn. Từ nay các ngươi không nên khởi tâm hư vọng phân biệt, chạy theo vật chất, tìm tòi các thứ bên ngoài, làm rối loạn tâm mình”.

Khi các hữu tình này được Bồ Tát bố thí của cải rồi, không còn bị thiếu thốn, liền đoạn trừ hư vọng phân biệt, tầm từ dục ác, nhập sơ tịnh lự; tuần tự được nhập vào các tịnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư. Nương vào các tịnh lự để đưa đến từ, bi, hỷ, xả và làm chỗ y chỉ cho bốn phạm trụ tịnh lự vô lượng, tuần tự nhập vào bốn định vô sắc, tịnh lự vô lượng, vô sắc. Điều phục tâm được nhu nhuyến rồi, tu bốn niệm trụ tuần tự cho đến tám chi Thánh đạo. Do vậy phát sanh các pháp không, vô tướng, vô nguyện; tùy theo họ ưa thích đều làm cho đầy đủ và chứng được quả Tam thừa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này an trụ bố thí Ba la mật, tự mình tu tịnh lự, cũng khuyên người khác tu tịnh lự, thường tự mình khen ngợi pháp tu tịnh lự, vui mừng khen ngợi người tu tịnh lự.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình xa lìa tán loạn, tu các tịnh lự được lợi ích lớn.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, thấy các hữu tình ngu si điên đảo, sanh lòng thương xót, khuyên bảo họ: “Nguyên nhân nào các ngươi không tu Bát nhã, lại ngu si điên đảo luân hồi sanh tử”? Người ấy trả lời: “Chúng tôi do thiếu thốn của cải nên đối với Bát Nhã không tu tập được”.

Bồ Tát bảo: “Ta sẽ bố thí cho các ngươi để được đầy đủ, không bị thiếu. Các ngươi nên nhận lấy. Trước hết tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự được viên mãn rồi, nên quán sát kỹ thật tướng của các pháp, tu hành Bát nhã Ba la mật. Nghĩa là hiện tại nên quán sát kỹ xem có chút pháp nào có thể đắc không? Nghĩa là ngã, hữu tình v.v… nói rộng cho đến người biết, người thấy có thể đắc không?

Sắc cho đến thức. Nhãn xứ cho đến ý xứ. Sắc xứ cho đến pháp xứ. Nhãn giới cho đến ý giới. Sắc giới cho đến pháp giới. Nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Nhãn xúc cho đến ý xúc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Địa giới cho đến thức giới. Nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Các pháp theo duyên sanh ra. Vô minh cho đến lão tử. Cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Bố thí cho đến Ba la mật. Pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không. Chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, Tất cả pháp Phật từ tứ Thánh đế cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Xét kỹ mỗi một pháp đều có thể đắc không”? (Q. 535, ĐBN)

Các hữu tình kia đã được của cải, khỏi bị thiếu thốn, y theo lời Bồ Tát dạy, trước hết tu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự được viên mãn rồi, lại quán sát kỹ thật tướng các pháp tu hành Ba la mật. Khi quán sát kỹ như trước đã nói, thật tánh các pháp đều bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên không còn chấp trước. Vì không chấp trước nên không thấy chút pháp có sanh, có diệt, có nhiễm, có tịnh. Người kia đối với các pháp vô sở đắc, đối với tất cả chỗ không sanh phân biệt, nghĩa là không phân biệt đây là địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ, A tu la, trời, người; cũng không phân biệt trì giới, phá giới; cũng không phân biệt phàm phu, Thánh giả; cũng không phân biệt đây là Dự lưu cho đến đây là Bồ Tát, chư Phật; cũng không phân biệt hữu vi, vô vi v.v… Người kia do không phân biệt như vậy nên tùy theo chỗ thích ứng tuần tự chứng đắc Thánh quả của Tam thừa.

Thiện Hiện nên biết! Đại Bồ Tát này an trụ bố thí Ba la mật, tự mình tu Bát nhã Ba la mật, cũng khuyên người khác tu Bát nhã, thường tự mình khen ngợi pháp tu Bát nhã, vui mừng khen ngợi người tu Bát nhã.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ bố thí Ba la mật, khuyên các hữu tình siêng năng tu Bát nhã, làm cho họ được an vui thù thắng hoàn toàn.

Nói tóm lại, đại Bồ Tát khi tu hành các Ba la mật, dùng phương tiện thiện xảo thấy các hữu tình bị thiếu thốn tài vật, phiền não dẫy đầy, không tu thiện được, Bồ Tát thương xót bảo: “Nếu các ngươi vì sự thiếu thốn tài vật của cải, không tu thiện được thì ta sẽ cung cấp tài vật cho các ngươi, các ngươi không nên sanh ác nghiệp phiền não, nên chơn chánh tu học các thiện pháp bố thí v.v..”.

Đại Bồ Tát này an trụ tịnh giới Ba la mật, đúng pháp giáo hóa các loài hữu tình: Nếu có người tham lam thì dạy tu bố thí, đối với thân mạng, tài vật không luyến tiếc.

Người phá giới dạy tu tịnh giới, nên chơn chánh thọ trì mười thiện nghiệp đạo, an trụ luật nghi giới không phá, không hủy, không uế, không tạp, cũng không chấp thủ.

Người sân hận dạy tu an nhẫn, dù bị hủy nhục gia hại, tâm không biến đổi.

Người biếng nhác dạy tu tinh tấn, tu các thiện pháp như chữa lửa cháy đầu.

Người tán loạn dạy tu tịnh lự, tâm thường vắng lặng, lìa các loạn động.

Người ngu si dạy tu diệu tuệ.

Người chấp trước, dạy quán pháp Không.

Đối với các công đức khác, người nào còn thiếu sót dạy họ siêng năng tinh tấn tu bồi những công đức ấy.

Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát an trụ các Ba la mật, thành thục hữu tình, dùng phương tiện thiện xảo độ họ giải thoát các đường ác khổ, hoặc giúp họ chứng đắc Niết bàn của Tam thừa.

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Thí Bình Đẳng” của Hội thứ III gộp ba phẩm của Hội thứ II thành một như đã nói trong phần gợi ý. Nhưng Hội thứ II lại không thích nghĩa và lược giải nên chúng tôi liệt kê chi tiết các phẩm tương đương với Hội thứ I để Quý vị có dịp so chiếu, tụng đọc mà không nhọc công tìm tòi:

1. Phẩm “Thiện Đạt”, Hội thứ II tương đương phẩm “Các Tướng Bình Đẳng” của Hội thứ I;

2. Phẩm “Thật Tế” của Hội thứ II tương đương phẩm “Bất Khả Động” của Hội thứ I;

3. Phẩm “Vô Khuyết” của Hội thứ II tương đương phẩm cùng tên là “Vô Khuyết” của Hội thứ I.

Quý vị có thể theo chỉ dẫn đó để thọ trì đầy đủ phẩm “Thí Bình Đẳng” hơn nếu muốn.

 

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com