Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. Thiền sư Tông Huệ hiệu Thủ Sơ ở Động Sơn

04/09/201102:42(Xem: 9557)
41. Thiền sư Tông Huệ hiệu Thủ Sơ ở Động Sơn

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨTÁM SAU LỤC TỔ

41.THIỀN SƯ TÔNG HUỆ THỦ SƠỞĐộng Sơn - (?-990)

Banđầu Sư đến tham vấn Vân Môn. Vân Môn hỏi: Vừa rời ởđâu? Sư thưa: Tra Độ. Vân Môn hỏi: Mùa hạ rồi ở đâu?Sư thưa: Ở chùa Báo Từ tại Hồ Nam. Vân Môn hỏi: Rời nơiấy lúc nào? Sư thưa: Ngày hai mươi lăm tháng tám. Vân Mônbảo: Tha ngươi ba gậy.

Hômsau, Sư đến thưa: Hôm qua nhờ ơn Hòa thượng tha ba gậy,con không biết lỗi tại chỗ nào? Vân Môn bảo: Cái túi cơm!Giang Tây Hồ Nam liền thế ấy. Ngay câu nói này, Sư đạingộ, bèn nói: Về sau nhằm chỗ không có khói người, chẳngchứa một hột gạo, chẳng trồng một cọng rau, tiếp đãimười phương chúng Tăng qua lại, trọn vì họ nhổ đinh tháochốt, gỡ bỏ cái khăn thịt mỡ, cổi cái áo xương thúi,dạy họ thênh thang phóng khoáng làm nạp tăng (Thiền sư) vôsự, đâu chẳng thích ư? Vân Môn bảo: Cái túi cơm! thân ngườibằng cây liễu mà mở miệng to như thế. Sư liền lễ bái.

*

Saukhi Sư làm trụ trì dạy chúng:

- Tronglời nói có lời nói là câu chết (tử cú), trong lời nóikhông lời nói gọi là câu sống (hoạt cú). Chư thiền đức!Thế nào là câu sống? Đến trong ấy thật khó có ngườiđược, nếu được thì chẳng động một hạt bụi, chẳngvạch một cảnh, thấy việc liền nói đáp thoại. Trưởnglão để chân xuống, chẳng được nói đông tây nam bắc,chớ biết nhiều ít, chỉ cần được bước đi rời khỏinước bùn, làm con mắt người sống, khen ngợi tông phong,kích dương đại sự, chẳng nói toàn không, kia đâu lại ít.Chỉ người duyên chưa đạt nguồn kia, rơi trong cảnh giớima thứ tám, biết được cái chẳng tên chẳng vật, khôngthị không phi. Mỗi mỗi vật vật vẫn còn đầy đủ, mànói ta được chỗ đất an lạc lại chẳng mong gì khác. Phàmcó người đến thưa hỏi liền gõ giường thiền, dựng phấttử, lại chẳng tiếc liền lập bày, liền hành dụng, nhằmtrong hầm nước nhỏ trồi lên hụp xuống, đùa giỡn vớicon chồn không đuôi, đến tiếng trống đêm ba mươi thángchạp điểm, đập đánh con chồn chạy mất, tay chân thácloạn, không thành tựu được một cái gì, hối hận làm saokịp? Nếu thật là nạp tăng (Thiền sư) dù gặp phải cáilạnh chết người, cái đói chết người trọn chẳng mặcchiếc áo xương thúi của kẻ khác.

*

Sưdạy chúng:

- Lờikhông dính việc, nói chẳng hợp cơ, nương lời thì mất,kẹt câu là mê. Nơi đây, trong bốn câu nói thấy được rõràng. Làm một nạp tăng (Thiền sư) khoáng đạt, nhân mộtcây đòn tay, một miếng ngói, một bữa cháo, bữa cơm cũngcó thể vì người làm thiện tri thức. Nơi đây, nếu chẳngrõ sẽ trở thành kẻ bướng bỉnh.

*

Sưlại dạy:

- Ngườinêu cao tông thừa xiển dương đại giáo, phải được conmắt pháp sáng suốt, mới hay soi xét duyên thiết yếu củaTăng và tục, chân vọng một nguồn, nước sữa chung ly, đếnđây thật khó phân. Đông Sơn (chỉ Sư) tầm thường dùngcon mắt trong tâm xét tướng ngoài thân, xem đó lại xem, mớibiện được chân ngụy. Nếu chẳng như thế làm sao gọi làthiện tri thức? Hiện nay thiên hạ cái gì là thiện tri thức?Chư Thiền đức! đã tham vấn bao nhiêu vị thiện tri thứcrồi đến đây? Không nên thong thả, cần phải tham cho triệt,xem cho thấu đến chỗ ngàn thánh còn không thể chứng minh,mới bày hiện được kẻ đại trượng phu. Đâu không thấyông già Thích-ca khi sao mai mọc lên liền hoát nhiên đại ngộ,cùng toàn thể chúng sanh trên thế giới đồng thời thànhPhật không có mé trước sau, đâu không sướng thích sao? Tuynhiên như thế, nếu gặp người mắt sáng nạp tăng cũng khéobày xương sống liền đánh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Khi một con đường xa xôi thì thế nào?

Sưđáp:- Trời trong chẳng chịu đi, đợi đến mưa ướt đầu.

- Khitâm chưa sanh, pháp ở chỗ nào?

- Gióthổi lá cây khua quyết định có cá lội.

Sưhỏi vị Tăng mới đến: Đâu chẳng phải mới đến ư? Tăngthưa: Phải. Sư bảo: Đêm đến tìm chỗ nghỉ, sáng nay việcthế nào? Tăng thưa: Sáng nay gió thổi mạnh, đi trên lưngnúi xanh. Sư bảo: Chưa phải, lại nói đi. Tăng thưa: Trântrọng. Sư liền đánh.

*

Tănghỏi:

- Trongmười hai giờ đi đứng ngồi nằm, khi tự tỉnh giác thìthế nào?

Sưđáp:- Xem người ăn cơm.

- Đâukhỏi bóng cây chẳng chênh sao?

- Lờithân ra từ miệng thân.

*

Tănghỏi:

- Đạichúng đã nhóm họp, thỉnh Thầy tóm yếu điểm và nêu đạicương?

Sưđáp:

- Trênnước hòn bọt bày năm sắc, đáy biển cá tôm nói trăng trong.

*

Sưcó làm bài tụng "Con Chó Theo Trâu":

Gia hữu nhất cẩu nhi

Ngãi tiểu nhân nan kiến

Chung nhật tùy ngưu khứ

Vị tỉnh sử nhân hoán.

Kiến khách bất tác thanh

Kiến nhân thiên năng thiện

Nghĩ nghị thượng môn lai

Tảo thị thâu tha tiện.

Hảo hảo báo Thiền sư

Tu trước tinh thần khán

Nhậm nhữ linh lợi nhân

Bất giác vi tử hán.

Nhà có một con chó

Nhỏ tíu người khó thấy

Trọn ngày đi theo trâu

Chưa tỉnh khiến người gọi.

Thấy khách chẳng biết sủa

Thấy người riêng hay giỏi

Toan tính trên cửa vào

Sớm là lấy đồ người.

Khéo léo bảo Thiền sư

Cần để tinh thần xét

Dù ông người khôn lanh

Chẳng biết thành kẻ chết.

*

NhàTống niên hiệu Thuần Hóa năm đầu (990) tháng bảy, Sư khôngbệnh ngồi kiết già thị tịch.


8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567