Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

52. Thiền sư Sĩ Khuê Trúc Am ở Long Tường

04/09/201102:42(Xem: 10335)
52. Thiền sư Sĩ Khuê Trúc Am ở Long Tường

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 3
ĐỜI THỨMƯỜI SÁU SAU LỤC TỔ

52.THIỀN SƯ SĨ KHUÊ TRÚC AMỞLong Tường

Sư con nhà họ Sử ở Thành đô. Buổi đầu Sư nương thầyTông Nhã ở chùa Đại Từ, tâm say Lăng Nghiêm trải qua nămnăm. Sư dạo đi phương Nam yết kiến các hàng tôn túc rồimới đến Long Môn. Sư đem chỗ bình thường sở đắc bạchPhật Nhãn. Phật Nhãn bảo: - Ông hiểu tâm đã tột, chỉthiếu gắng sức mở mắt thôi. Sư bèn vào nhà ban chức sự.

Một hôm Sư đứng hầu hỏi rằng: - Khi tuyệt đối đãi thìthế nào?

Phật Nhãn đáp: - Giống hệt ông trong Tăng đường bạch chùy.Sư mờ mịt. Đến chiều Phật Nhãn vào nhà ban chức sự,Sư đem thoại khi sáng hỏi. Phật Nhãn bảo: - Ngôn ngữ nhàn.

Ngay lời này Sư đại ngộ.

Cuối niên hiệu Chánh Hòa (1116) Sư trụ trì ở Thiên Ninh,từng dời đến nhiều ngôi danh lam. Khoảng niên hiệu ThiệuHưng (1131-1163), Sư vâng chiếu đến khai sơn chùa Năng Nhơnở Nhạn Đãng. Khi ấy, Chơn Yết ở Giang Tâm nghe Sư đến,e duyên pháp chưa chín, đặc biệt qua sông đón Sư về phươngtrượng lạy chín lạy để dẫn dụ người xứ Ôn. Do đó,dân chúng hợp nhau qui kính. Chưa xem giấy cử, đồ chúng kiasợ hành qui pháp, giữa đêm phóng lửa đốt, ngôi chùa trởthành một đống ngói gạch vụn. Sư cột chùm cây làm thất,đăng tòa dạy chúng: Thích nhàn chẳng đánh trống Cổ Sơn,dưỡng già lại xem núi Nhạn Đãng, gác đẹp lầu to toànchẳng thấy, bên suối nhà tranh hai ba căn. Lại có ngườicùng chung ra tay chăng? Sư hét một hét xuống tòa. Tín thíđến nghe pháp góp sức xây dựng chưa bao lâu thành ngôi chùakhang trang. Kế đó, Sư bị bổ đến Giang Tâm.

Sư thượng đường: Muôn năm một niệm, một niệm muôn năm,hòa y trong bùn lẫn, rửa chân trên giường ngủ, việc đãtrải qua chỉ như hiện nay, biển cả sóng to vỗ, tiểu nhântấc vuông sâu. Sư cầm cây gậy lên nói: Cả thảy các ngươichưa được lối vào, cần phải được lối vào, đã đượclối vào, cần phải có con đường xuất thân mới được.Đại chúng! Thế nào là một con đường xuất thân? Sư imlặng giây lâu nói: - Tùng hiện đáy khe tuyết khó đè, bêntrời gió thổi trăng nào động. Sư chao cây gậy một cái,xuống tòa.

Sư thượng đường: Muôn cơ chẳng đến, mắt thấy sắc,tai nghe tiếng, một câu hiện bày, đầu đội trời chân đạpđất. Các ông chỉ biết ngày nay là mùng một tháng năm, đâuchẳng biết "quạ vàng nửa đêm đi gấp gấp, thỏ ngọc ngàymai biển đông lên". Sư lấy phất tử gõ giường thiềnmột cái xuống tòa.

Sư thượng đường: Rõ ràng không ngộ, có pháp tức mê. Cácngười nhằm trong ấy lập chẳng được, các người nhằmtrong ấy trụ chẳng được. Nếu lập thì nguy, nếu trụ thìmù. cần phải ý chẳng dừng huyền, câu chẳng dừng ý, dụngchẳng dừng cơ. Ba điều này đã rõ, tất cả chỗ không nênbó buộc tự nhiên hiện tiền, chẳng phải chiếu cố tựnhiên minh bạch. Tuy nhiên như thế, lại phải biết có việchướng thượng. Mưa lâu chẳng tạnh. Dốt!

Sư thượng đường: Một lá rụng thiên hạ thu muốn cùngngàn dặm mắt, lại lên một từng lầu. Một hạt bụi dấyđại địa thâu, Gia Châu đánh voi lớn, Thiểm Phủ tắm trâusắt. Kẻ sáng mắt nên làm sao? Sư im lặng giây lâu nói: Hạnlâu mái thềm vắng, cầu trôi nước chẳng trôi. Sư chao câygậy xuống tòa.

Sư thượng đường: "Kiến kiến chi thời kiến phi thị kiến,kiến du ly kiến kiến bất năng cập", hoa rơi có ý theo giòngnước, giòng nước vô tình luyến hoa rơi. "Các cái có thểtrả tự nhiên chẳng phải ông, cái chẳng bị ông trả chẳngphải ông là ai?" Thường hận xuân về không chỗ kiếm, đâungờ chuyển nhập trong đây rồi. Sư hét một tiếng nói: Sauba mươi năm chớ nói Năng Nhơn (chùa) dạy phá hoại nam nữnhà người.

Tăng hỏi: - Thế nào là ý Tổ sư Tây sang?

Sư đáp: - Nhà đông đốt đèn nhà tây ngồi tối.

Tăng hỏi: - Chưa biết ý chỉ thế nào?

Sư đáp: - Ngựa nên gác yên, lừa nên cột dây.

Tăng lễ bái. Sư bảo: - Thiền tăng lanh lợi, chỉ tiêu mộtcái, Sư bèn nói: - Ngựa nên gác yên, lừa nên cột dây, thiềntăng lanh lợi chỉ tiêu một cái, dù khiến nhà đông đốtđèn sáng, chưa hẳn nhà tây ngồi trong tối, Tây sang ý chỉhỏi thế nào, ông thầy lắm mồm tự chuốc họa.

Tăng hỏi: - Thế nào là đệ nhất nghĩa?

Sư đáp: - Ông hỏi ấy là đệ nhị nghĩa.

Tăng hỏi: - Con chó lại có Phật tánh hay không, Triệu Châunói không, ý chỉ thế nào?

Sư đáp: - Một phen bị rắn cắn, sợ thấy dây giếng đứt.

Tăng hỏi: - Chim én sâu bàn thật tướng khéo nói pháp yếu,lý này thế nào?

Sư đáp: - Chẳng bằng nhạn ngậm lau.

Tăng hỏi: - Thế nào là Phật?

Sư đáp: - Con rùa cửa động Hoa Dương.

Tăng hỏi: - Tổ Đạt-ma xây mặt vào vách ý chỉ thế nào?

Sư đáp: - Kim mộc thủy hỏa thổ, sao La Hầu Kế Đô.

Tăng hỏi: - Câu có câu không như bìm nương cây là thế nào?

Sư đáp: - Làm giặc lòng người rỗng.

Tăng hỏi: - Quốc sư ba phen gọi thị giả lại là sao?

Sư đáp: - Đánh trống khỉ đùa giỡn, trống vỡ khỉ chạytan.

*

Đến ngày mười tám tháng bảy năm Bính Dần, Sư gọi Trưởnglão Tông Phạm đến dặn dò việc sau. Hôm sau, Sư tắm gộiđánh chuông họp chúng đến tòa ngồi yên thị tịch.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com