- Tập 1
- Ðời Thứ Tư Sau Lục Tổ
- 29. Thiền sư Ðàm Thạnh (Vân Nham)
- 30. Thiền sư Viên Trí (Ðạo Ngô)
- 31. Thiền sư Ðức Thành (Hoa Ðình Thuyền Tử)
- 32. Sa-di Cao
- 33. Thiền sư Vô Học (Thúy Vi)
- 34. Thiền sư Nghĩa Trung (Tam Bình)
- 35. Thiền sư Linh Hựu (Qui Sơn)
- 36. Thiền sư Hy Vận (Hoàng Bá)
- 37. Thiền sư Ðại An
- 38. Thiền sư Thần Tán
- 39. Thiền sư Vô Ngôn Thông
- 40. Thiền sư Hoằng Biện
- 41. Thiền sư Trí Chơn
- 42. Thiền sư Cảnh Sầm (Trường Sa)
- 43. Thiền sư Tùng Thẩm (Triệu Châu)
- 44. Thiền sư Sùng Tín (Long Ðàm)
- Lời nói đầu
- Đời Thứ Năm Sau Lục Tổ
- 01. Thiền sư Lương Giới ở Động Sơn khai Tổ tông Tào Động
- 02. Thiền sư Tăng Mật
- 03. Thiền sư Khánh Chư ở Thạch Sương
- 04. Thiền sư Đại Đồng ở núi Đầu Tử
- 05. Thiền sư Thiện Hội ở Giáp Sơn
- 06. Thiền sư Nghĩa Huyền ở Lâm Tế khai Tổ tông Lâm Tế
- 07. Thiền sư Trần Tôn Túc hiệu Đạo Minh
- 08. Thiền sư Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn - Tổ thứ hai tông Qui Ngưỡng
- 09. Thiền sư Trí Nhàn ở Hương Nghiêm
- 10. Thiền sư Thường Thông ở núi Tuyết Đậu
- 11. Ni Liễu Nhiên ở Mạt Sơn
- 12. Thiền sư Tuyên Giám ở Đức Sơn
- Đời Thứ Sáu Sau Lục Tổ
- 13. Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn - Tổ thứ hai Tào Động
- 14. Thiền sư Đạo Ưng ở Vân Cư
- 15. Thiền sư Tồn Tương ở Hưng Hóa
- 16. Thiền sư Huệ Nhiên ở viện Tam Thánh
- 17. Hòa thượng Đại Giác
- 18. Thiền sư Văn Hỷ
- 19. Thiền sư Quang Dũng ở Nam Tháp
- 20. Thiền sư Toàn Khoát ở Nham Đầu
- 21. Thiền sư Nghĩa Tồn ở Tuyết Phong
- Đời Thứ Bảy Sau Lục Tổ
- 22. Thiền sư Huyền Ngộ hiệu Quang Huệ ở Hà Ngọc
- 23. Thiền sư Tùng Chí hiệu Huyền Minh ở Kim Phong
- 24. Thiền sư Xử Chơn ở Lộc Môn
- 25. Thiền sư Huệ Ngung hiệu Bảo Ứng ở Nam Viện
- 26. Thiền sư Toàn Phó ở Thanh Hóa
- 27. Thiền sư Huệ Thanh ở Ba Tiêu
- 28. Thiền sư Sư Nhan ở Đoan Nham
- 29. Thiền sư Tông Nhất pháp danh Sư Bị ở Huyền Sa
- 30. Thiền sư Huệ Lăng ở Trường Khánh
- 31. Thiền sư Văn Yến ở Vân Môn khai Tổ tông Vân Môn
- Đời Thứ Tám Sau Lục Tổ
- 32. Thiền sư Trí Tịnh hiệu Ngộ Không ở Cốc Ẩn
- 33. Thiền sư Hành Nhơn ở Lô Sơn Phật Thủ Nham
- 34. Thiền sư Diên Chiểu ở Phong Huyệt
- 35. Thiền sư Thanh Nhượng ở núi Hưng Dương
- 36. Thiền sư Pháp Mãn ở núi U Cốc
- 37. Thiền sư Quế Sâm ở viện La-hán
- 38. Thiền sư Huệ Cầu ở viện An Quốc núi Ngọa Long
- 39. Hòa thượng Bạch Vân Tường hiệu Thật Tánh
- 40. Thiền sư Trừng Viễn ở Hương Lâm
- 41. Thiền sư Tông Huệ hiệu Thủ Sơ ở Động Sơn
- Đời Thứ Chín Sau Lục Tổ
- 42. Thiền sư Trí Nghiêm ở Cốc Ẩn
- 43. Thiền sư Pháp Hiển ở viện Phổ Ninh
- 44. Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn Nhữ Châu
- 45. Thiền sư Chơn ở Quảng Huệ
- 46. Thiền sư Văn Ích hiệu Tịnh Huệ khai Tổ tông Pháp Nhãn
- 47. Thiền sư Hưu Phục hiệu Ngộ Không ở viện Thanh Lương
- 48. Thiền sư Thiệu Tu ở Long Tế
- 49. Thiền sư Quang Tộ ở chùa Trí Môn Tùy Châu
- 50. Thiền sư Giới ở Ngũ Tổ
- 51. Am chủ Tường ở Liên Hoa Phong
- Đời Thứ Mười Sau Lục Tổ
- 52. Thiền sư Kỉnh Huyền ở núi Đại Dương
- 53. Thiền sư Thiện Chiêu ở Phần Dương
- 54. Thiền sư Qui Tỉnh ở viện Quảng Giáo Diệp Huyện
- 55. Thiền sư Trí Tung ở Tam Giao viện Thừa Thiên
- 56. Thiền sư Trùng Hiển ở Tuyết Đậu, Minh Châu
- 57. Thiền sư Hiểu Thông ở Động Sơn
- 58. Thiền sư Tự Bảo ở Động Sơn
- 59. Quốc sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai
- 60. Thiền sư Huệ Minh ở chùa Báo Ân
- 61. Thiền sư Pháp Đăng hiệu Thái Khâm ở viện Thanh Lương
- 62. Thiền sư Thanh Tủng ở Linh Ẩn Hàn Châu
- Đời Thứ Mười Một Sau Lục Tổ
- 63. Thiền sư Nghĩa Thanh ở Đầu Tử
- 64. Thiền sư Thanh Phẩu ở Hưng Dương
- 65. Thiền sư Từ Minh Sở Viên ở Thạch Sương
- 66. Thiền sư Quảng Chiếu Huệ Giác ở núi Lang Nha
- 67. Thiền sư Nghĩa Hoài ở Thiên Y
- 68. Cư sĩ Tu Tuyển Tằng Hội
- 69. Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp Xương
- 70. Thiền sư Phật Ấn hiệu Liễu Nguyên ở Vân Cư
- 71. Thiền sư Huệ Nhật Trí Giác ở chùa Vĩnh Minh Diên Thọ
- 72. Thiền sư Chí Phùng ở chùa Hoa Nghiêm núi Ngũ Vân
- 73. Thiền sư Bổn Tiên ở chùa Đoan Lộc
- Đời Thứ Mười Hai Sau Lục Tổ
- 74. Thiền sư Đạo Giai ở Phù Dung
- 75. Thiền sư Báo Ân ở núi Đại Hồng
- 76. Thiền sư Huệ Nam ở Hoàng Long khai Tổ hệ phái Hoàng Long
- 77. Thiền sư Phương Hội ở Dương Kỳ khai Tổ hệ phái Dương Kỳ
- 78. Thiền sư Tông Bổn hiệu Viên Chiếu ở Huệ Lâm
- 79. Thiền sư Pháp Tú hiệu Viên Thông ở chùa Pháp Vân
- 80. Thiền sư Duy Chánh ở viện Tịnh độ Hàn Châu
- Lời đầu sách
- Đời Thứ Mười Ba Sau Lục Tổ
- 01. Thiền sư Pháp Thành ở Hương Sơn
- 02. Thiền sư Tề Liên ở Đại Trí
- 03. Thiền sư Tử Thuần ở Đơn Hà
- 04. Thiền sư Duy Chiếu ở Bảo Phong
- 05. Thiền sư Tổ Tâm Hối Đường Hoàng Long
- 06. Thiền sư Khắc Văn Chơn Tịnh ở Phần Đàm
- 07. Thiền sư Hồng Anh ở Phần Đàm
- 08. Thiền sư Thủ Đoan ở Bạch Vân
- 09. Thiền sư Nhơn Dũng ở Bắc Ninh
- 10. Thiền sư Thiện Bổn ở Pháp Vân
- 11. Thiền sư Tu Ngung Chứng Ngộ ở Đầu Tử
- 12. Thiền sư Thiện Ninh Pháp Ấn ở Kim Sơn
- 13. Thiền sư Duy Nhạc Phật Nhật ở Tịnh Nhơn
- Đời Thứ Mười Bốn Sau Lục Tổ
- 14. Thiền sư Chánh Giác hiệu Hoằng Trí ở Thiên Đồng Minh Châu
- 15. Thiền sư Thanh Liễu Chơn Yết ở Trường Lô Chơn Châu
- 16. Thiền sư Đức Chỉ Chơn Tế ở Viên Thông Giang Châu
- 17. Thiền sư Cảnh Thâm ở Trí Thông Hưng Quốc
- 18. Thiền sư Ngộ Tân Tử Tâm ở Hoàng Long
- 19. Thiền sư Duy Thanh Linh Nguyên ở Hoàng Long
- 20. Thiền sư Tùng Duyệt ở Đẩu Suất
- 21. Thiền sư Cảo Phật Chiếu ở Pháp Vân
- 22. Thiền sư Văn Chuẩn ở Phần Đàm
- 23. Thiền sư Pháp Diễn ở Ngũ Tổ
- 24. Thiền sư Trí Bổn núi Vân Cái Đàm Châu
- 25. Thiền sư Nhật Ích ở Thượng Phương
- 26. Thiền sư Bảo Ấn Sở Minh ở Tịnh Từ phủ Lâm An
- 27. Thiền sư Diệu Trạm Tư Huệ ở Tuyết Phong
- 28. Thiền sư Chí Tuyền Tổ Đăng ở Vân Phong
- Đời Thứ Mười Lăm Sau Lục Tổ
- 29. Thiền sư Từ Tông ở Tuyết Đậu Minh Châu
- 30. Thiền sư Huệ Huy Tự Đắc ở Tịnh Từ Hàn Châu
- 31. Thiền sư Huệ Phương ở Hòa Sơn
- 32. Am chủ Diệu Phổ Tánh Không ở Hoa Đình
- 33. Thiền sư Thủ Trác ở Trường Linh Thiên Ninh
- 34. Thiền sư Bổn Tài Phật Tâm ở Thượng Phong Đàm Châu
- 35. Thiền sư Khắc Cần Phật Quả ở Chiêu Giác
- 36. Thiền sư Huệ Cần Phật Giám ở Thái Bình
- 37. Thiền sư Thanh Viễn Phật Nhãn ở Long Môn
- 38. Thiền sư Đạo Ninh ở Khai Phước Đàm Châu
- 39. Thiền sư Nguyên Tĩnh ở Nam Đường Đại Tùy
- 40. Thiền sư Tông Thới ở Vô Vi Hán Châu
- 41. Thiền sư Biểu Tự ở Ngũ Tổ Kỳ Châu
- Đời Thứ Mười Sáu Sau Lục Tổ
- 42. Thiền sư Tông Cảo Đại Huệ Diệu Hỷ
- 43. Thiền sư Thiệu Long ở Hổ Khưu
- 44. Thiền sư Đoan Dụ Phật Trí ở Dục Vương
- 45. Thiền sư Pháp Giới Phật Tánh ở Đại Qui
- 46. Thiền sư An Dân Mật Ấn ở Hoa Tạng
- 47. Thiền sư Tổ Giác Hoa Nghiêm Trung Nham
- 48. Thiền sư Huệ Viễn Hạt Đường Linh Ẩn
- 49. Thiền sư Tâm Đạo ở Văn-thù phủ Thường Đức
- 50. Thiền sư Trí Tài ở Long Nha
- 51. Thiền sư Thủ Tuần Phật Đăng ở Hà Sơn
- 52. Thiền sư Sĩ Khuê Trúc Am ở Long Tường
- 53. Thiền sư Pháp Trung Mục Am ở Hoàng Long
- 54. Thiền sư Đạo Hạnh Tuyết Đường ở Ô Cự
- 55. Thiền sư Minh Biện Chánh Đường ở Đạo Tràng
HTThích Thanh Từ
TẬP 2
B.Phái Hoài Nhượng
Sưhọ Lý quê ở Hình Châu, vào núi Thước xuất gia. Năm haimươi tuổi, Sư trở về chùa Khai Nguyên ở bổn Châu thọgiới, ở đây học kinh luật bảy năm. Sư tự than: "Ma-đằngsang Hán dịch ra văn này, Đạt-ma đến Lương nói rõ việcgì" Sư bèn cất bước du phương, đến tham vấn Hòa thượngTrường Sa.
TrườngSa hỏi:- Ngươi người ở xứ nào?
Sưthưa:- Ở Hình Châu.
- Tabảo chẳng phải từ kia đến.
- Hòathượng đã từng ở đây chăng?
TrườngSa chấp nhận, cho vào thất.
Sau,Sư đến Động Sơn, Thạch Sương thấy pháp không có vị khác.Đến niên hiệu Hàm Thông, Sư dạo Tuyên Thành, Quận thú lậpThiền uyển nơi núi Ta Tiên để hiệu Đoàn Thành Viện thỉnhSư trụ trì. Tăng chúng tìm đến tham vấn
*
Tănghỏi: "Thế nào là mật thất?" Sư đáp: "Chẳng thông gió."Tăng hỏi: "Thế nào là người trong mật thất?" Sư đáp: "Cácthánh tiên xem chẳng thấy." Lại nói: "Ngàn Phật không thểnghĩ, muôn thánh chẳng thể bàn, càn khôn hoại mà không hoại,hư không bao mà chẳng bao, tất cả so sánh không bằng, ba đờixướng mà chẳng khởi."
*
Khoảngniên hiệu Quang Khải (883-885) giặc cướp nổi loạn, Sư đemđồ chúng đến Tứ Minh. Đến niên hiệu Đại Thuận nămthứ hai (891), Quận thú thỉnh Sư ở núi Tuyết Đậu, ở đâysự giáo hóa được hưng thạnh.
*
Niênhiệu Thiên Hựu năm thứ hai (905) tháng bảy, Sư có chút ítbệnh, nhóm chúng thắp hương phó chúc xong, chấp tay thị tịch,thọ bảy mươi hai tuổi.
MãTổ - (709 - 788)
Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.
Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Mộthôm Sư dạy chúng:
- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.
Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.
Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Connít nín rồi thì thế nào?
- Phitâm phi Phật.
- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nóivới y là "phi vật".
- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãydạy y thể hội đại đạo.
*
Cóvị Tăng hỏi:
- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?
Sưđáp:
- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
TríTạng hỏi:
- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.
Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.
Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.
*
Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?
Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?
Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!
Sưliền nhìn thẳng xuống.
Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
TríTạng thưa:- Nên cúng dường.
HoàiHải thưa:- Nên tu hành.
PhổNguyện phủi áo ra đi.
Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.
*
HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
HoàiHải dựng đứng cây phất tử.
Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
HoàiHải ném cây phất tử xuống.
*
Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.
*
ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- ÐườngThạch Ðầu trơn.
- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấylà tông chỉ gì?
ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"
ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
ThạchÐầu bèn: Hư! hư!
ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâukhông phải là sư tử con?
- Khôngdám.
Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảngsư nói:- Ðây là pháp.
- Làpháp gì?
- Phápsư tử ra khỏi hang.
Sưbèn im lặng.
Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Làpháp gì?
- Phápsư tử ở trong hang.
- Khôngra không vào là pháp gì?
Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủtọa!
Giảngsư xoay đầu lại.
Sưhỏi:- Là pháp gì?
Giảngsư cũng không đáp được.
Sưbảo:- Ông thầy độn căn.
*
Mộthôm Sư dạy chúng:
- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.
Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.
Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:
- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.
Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.
Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.