HTThích Thanh Từ
TẬP 3
Sư họ Lương, quê ở Đường Cố phủ Hưng Nguyên. Thuở trongnôi thấy tượng Phật, Sư liền cười, đến đồng tử Sưchẳng ưa nghe rượu thịt. Sa-môn Hư Phổ ở chùa Kim Sơn đếnnhà khất thực, Sư ở trước cửa ứng đối như người lớn.Lúc bấy giờ mới tám tuổi, Sư xin từ cha mẹ theo Hư Phổvề chùa.
*
Kinh lược Thiểm Tây là Phạm Công đến chùa Hư Phổ, Phổtuổi già ứng đối lơ là. Sư đứng hầu bên cạnh giảithích rõ ràng tới lui có qui củ, Phạm Công muốn dẫn Sưvề Thiểm Tây, Sư từ rằng: Lên núi để cầu ngọc vào biểnđể tìm châu, mỗi người có chí của mình. Người học đạocó bản hạnh, việc đẹp ở đời không phải là chỗ tâmthích. Phạm Công thầm khen lời này, liền cho xuất gia làmTăng.
Sư đến nương Thiền sư Thừa ở Lương Sơn. Thừa quở rằng:Khu ô chưa thọ giới dám học Phật thừa. Sư vòng tay thưa:- Đàn tràng là giới chăng? Xà-lê phạm hạnh và ba phen yết-malà giới chăng?
Thừa kinh ngạc. Sư cười thưa: - Tuy nhiên đâu dám không vânglời dạy. Sư bèn đến Luật sư Đường An thọ giới cụtúc. Sư dạo khắp các nơi giảng dạy tại Thành đô. Phápsư Đàm Diễn thích chỗ anh tài của Sư vỗ về bảo: Ônglà pháp thuyền sau này. Phương Nam có các bậc khai sĩ nhưChơn Như ở Đại Qui, Chơn Tịnh ở Cửu Phong, nên đến đócầu đạo. Sư lễ bái vâng dạy, cùng đồng học đến ĐạiQui, trụ tại đây khá lâu mà không khế ngộ.
Sư đến Cửu Phong yết kiến Chơn Tịnh. Chơn Tịnh hỏi: -Ở đâu đến?
Sư thưa:- Hưng Nguyên phủ đến.
Chơn Tịnh hỏi:- Vừa rời chỗ nào?
Sư thưa:- Đại Qui.
Chơn Tịnh hỏi:- Hạ ở đâu?
Sư thưa:- Qui Sơn.
Chơn Tịnh xòe tay nói:- Tay ta sao giống tay Phật.
Sư mờ mịt không biết. Chơn Tịnh quở: - Mới đến câu câukhông sai lầm một mảy tơ linh minh thiên chân, vừa nói đếntay Phật liền thành cách ngại, bệnh tại chỗ nào?
Sư thưa:- Chẳng hiểu.
Chơn Tịnh bảo:- Tất cả hiện thành lại bảo ai hiểu?
Sư ở đây hầu hạ hơn mười năm. Một hôm Sư cầm cây gậyvạch mặt hồ cho trống giặt y, nhân đây đại ngộ, chạyđến Chơn Tịnh thuật sở ngộ.
Chơn Tịnh quở:- Trong đây lại dám dùng gai sậy ư?
Từ đây, Sư càng ẩn giấu mà danh càng bày.
Tiết chế Lý Cảnh Chơn thú Dự Chương mến đức Sư thỉnhkhai pháp ở Vân Nham. Chưa bao lâu, Phạm Công mời Sư đếnPhần Đàm. Sư lời lẽ như tên bay nước lũ, cơ phong nhưđiện chớp, Thiền tăng sợ mà kính. Dưới sự hướng dẫncủa Sư có cả ngàn người. Sư tự hiệu là Trạm Đường.
Có vị Tăng mới đến yết kiến liền trải tọa cụ. Sưbảo:- Chưa hỏi việc người, Thượng tọa vừa rời chỗnào?
Tăng thưa:- Qui Tông ở Lô Sơn.
Sư hỏi:- Qui Tông chỗ nào?
Tăng thưa:- Hạ!
Sư bảo:- Trong hang ếch làm kế sống.
Tăng thưa:- Hòa thượng sao không lãnh thoại?
Sư bảo:- Ông đâu chẳng phải từ Qui Tông lại.
Tăng thưa:- Phải.
Sư bảo:- Kẻ trước lừa sau ngựa.
Sư hỏi đệ nhị tòa:- Vừa ở chỗ nào đến?
Tăng thưa:- Viên Châu.
Sư hỏi:- Hạ ở đâu?
Tăng thưa:- Ngưỡng Sơn.
Sư hỏi:- Lại thấy tiểu Thích-ca chăng?
Tăng thưa:- Thấy.
Sư hỏi:- Lỗ mũi dài hay ngắn?
Tăng suy nghĩ. Sư bảo: - Ông thầy quê, lời nói đã rơi.
*
Sư hỏi vị Tăng: - Ông đến làm gì?
Tăng thưa: - Con đến vấn an Hòa thượng.
Sư bảo: - Mây bay đầu núi nhàn biết mấy, nước chảy dướikhe rất nhộn nhàng.
Tăng thưa: - Hòa thượng chớ lừa người.
Sư bảo: - Mã Đại sư vì sao từ gót chân ông đi qua?
Tăng không đáp được. Sư bảo: - Lại là Xà-lê lừa lãoTăng.
*
Sư ở Phần Ninh gặp Hòa thượng Tử Tâm, Tử Tâm hỏi:- Ôngtrở về trong núi này chăng?
Sư thưa: - Cần đến lễ bái Sư huynh.
Tử Tâm bảo: - Khi ông đến khéo xem phương tiện.
Sư thưa: - Cớ sao?
Tử Tâm bảo: - Con đường Hoàng Long ta trơn.
Sư hỏi: - Đã té nhào bao nhiêu người?
Tử Tâm bảo: - Ông chưa đến Hoàng Long gót chân trước đãrít.
Sư thưa: - Hòa thượng đâu được đóng cửa tiếp nhau.
Tử Tâm lại hỏi: - Lão Chuẩn nuôi nhiều Tăng thế này chỉlà tụ đầu cãi lẽ rồi ăn cơm, ông cứu kính đem cái gìvì người?
Sư thưa: - Nhân gió thổi lửa.
Tử Tâm bảo: - Nhiễu loạn làm gì?
Sư thưa: - Từ đây có chút ít.
Sư hỏi lại: - Trong núi Hòa thượng nuôi bao nhiêu chúng?
Tử Tâm nói: - Bốn trăm người toàn là Thiền tăng tinh xảo.
Sư thưa: - Trong hang sư tử không thú khác.
Tử Tâm bảo: - Khi ông đến cũng phải chiếu cố.
Sư thưa: - Cũng đợi khi đến.
Tử Tâm hỏi: - Khi đến làm sao?
Sư thưa: - Kêu lại rửa chân.
Tử Tâm bảo: - Ông thầy đất Xuyên mở miệng to thế.
Sư thưa: - Thượng tọa Chuẩn từ lâu như thế.
Tử Tâm nói: - Ba mươi năm đùa cỡi ngựa.
Thấy Tăng xem kinh, Sư hỏi: - Xem kinh gì?
Tăng thưa: - Kinh Kim Cang.
Sư bảo: - Trong kinh nói "Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp?phải chăng"
Tăng thưa: - Phải.
Sư bảo: - Tại sao núi Vân Cư cao, núi Bảo Phong thấp?
Tăng thưa: - Pháp ấy bình đẳng không có cao thấp.
Sư bảo: - Ông chỉ làm được kẻ tôi tớ Tọa chủ.
Tăng thưa: - Hòa thượng lại thế nào?
Sư bảo: - Hãy buông lỗ mũi ông để thở.
*
Sư hỏi vị Tăng: - An vui chăng?
Tăng thưa: - Vô sự.
Sư bảo: - Ông còn có việc lớn.
Tăng hỏi: - Chưa biết con còn có việc gì?
Sư bảo: - Gần đây Kim Cang ở Thượng Lam cùng Thổ Địaở Thiên Ninh đánh nhau.
Tăng không nói được. Sư bảo: - Nguyên lai vô sự.
*
Một hôm Sư thượng đường: Bảo Phong một đêm ngủ khôngsuy tính, ngày nay thượng đường moi bụng móc ngực thảysuy nghĩ chẳng ra, mà nay đến giờ việc bức ngặt phải racửa gấp, liền đưa cây gậy nói: Thượng tọa Chuẩn gầnđây làm được cán cây phất tử, hãy tạm đem cúng dườngđại chúng, bèn ném xuống nói: Gốc tre lá móc dây gai cột,dạng tựa thiên nhiên riêng một nhà.
*
Niên hiệu Chánh Hòa thứ năm (1115) mùa hạ tháng sáu, Sư bịbệnh. Thủ tọa đến hỏi thăm: - Ngày gần đây thân thểHòa thượng thế nào?
Sư bảo: - Lừa què leo vách.
Thủ tọa thưa: - Hòa thượng cũng nên uống thuốc.
Sư bảo: - Cây mục bắc cầu.
Thủ tọa thưa: - Cũng biết Hòa thượng chẳng chịu kiêngmiệng.
Sư hỏi: - Ông làm sao?
Thủ tọa suy nghĩ để nói. Sư bảo: - Ông cũng cần phảiuống thuốc.
Đến ngày hai mươi hai tháng bảy, Sư nói kệ rồi tịch, thọnăm mươi lăm tuổi, ba mươi lăm tuổi hạ.
Thừa tướng Trương Vô Tận làm lời bia, Giản Nghị HồngCâu phụ chép Ngữ lục.