Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

14. Thiền sư Chánh Giác hiệu Hoằng Trí ở Thiên Đồng Minh Châu

04/09/201102:42(Xem: 9814)
14. Thiền sư Chánh Giác hiệu Hoằng Trí ở Thiên Đồng Minh Châu

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 3
ĐỜI THỨMƯỜI BỐN SAU LỤC TỔ

14.THIỀN SƯ CHÁNH GIÁC HIỆU HOẰNG TRÍ
ỞThiên Đồng Minh Châu - (1069 - 1135)

Sư họ Lý, quê ở Thấp Châu, mẹ Sư mộng thấy một vịTăng ở Ngũ Đài cởi chiếc vòng mang vào cánh tay mặt bà.Sau đó, bà thọ thai Sư. Trong lúc mang thai, bà gìn giữ traigiới cẩn mật. Sư sanh ra, cánh tay mặt nổi quầng giốngchiếc vòng. Ông nội và cha Sư tham thiền với Thiền sư Phật-đàTôn đã lâu. Phật-đà chỉ Sư nói với cha Sư rằng: Đứabé này đạo vận rất tốt, chẳng phải là người ở trongtrần ai. Nếu xuất gia ắt làm pháp khí. Năm mười một tuổi,Sư được độ ở Tịnh Minh Bổn Tông. Năm mười bốn tuổi,Sư thọ giới cụ túc. Năm mười tám tuổi, Sư đi du phương.Khi sắp ra đi, Sư thưa với ông nội rằng: "Nếu con khôngphát minh việc lớn, thề không trở về."

Sư đến Hương Sơn chùa Tịnh Nhơn của Thiền sư Thành. Thiềnsư Thành một phen trông thấy Sư liền hứa nhận. Một hôm,Sư nghe vị Tăng tụng kinh Pháp Hoa đến câu "con mắt do chamẹ sanh hẳn thấy ba ngàn thế giới", bỗng nhiên có tỉnh.Sư liền đến trượng thất trình bày chỗ ngộ. Thiền sưThành chỉ hương trên đài hỏi: - Trong đây là vật gì?

Sư thưa: - Là tâm hạnh gì?

Thiền sư Thành hỏi: - Chỗ ngộ của ngươi lại thế nào?

Sư lấy tay vẽ một tướng tròn để trình, lại ném ra phíasau.

Thiền sư Thành nói: - Kẻ đùa hòn đất có giới hạn gì?

Sư thưa: - Lầm!

Thiền sư Thành bảo: - Phải thấy người khác mới được.

Sư thưa: - Vâng! Vâng!

*

Sư đến Thiền sư Tử Thuần Đơn Hà. Đơn Hà hỏi: - Thếnào là chính mình trước không kiếp?

Sư thưa: - Con ếch nuốt trăng nằm đáy giếng, canh ba chẳngmượn cuốn rèm lên.

Đơn Hà bảo: - Chưa phải, nói lại.

Sư suy nghĩ. Đơn Hà đánh một phất tử, nói:

- Lại nói chẳng mượn?

Sư ngay lời nói đó đại ngộ, liền đảnh lễ.

Đơn Hà bảo: - Sao chẳng nói lấy một câu?

Sư thưa: - Ngày nay con mất tiền bị tội.

Đơn Hà bảo: - Chưa rảnh để làm xong, ngươi hãy đi.

Đơn Hà nhận trụ chùa Đại Hồng, cử Sư giữ chức Thưký. Sau Đơn Hà sai Sư thủ chúng, số người đắc pháp kháđông. Được bốn năm, Sư dời đến Viên Thông. Khi ấy, Thiềnsư Chơn Yết mời đến trụ Trường Lô, sai Tăng đi rướcSư. Sư đến, chúng ra nghênh đón, trông thấy y phục củaSư rách rưới đều lấy làm lạ. Chơn Yết sai thị giả đổigiày mới cho Sư. Sư bảo: - Tôi vì giày mà đến sao?

Cả chúng nghe nói hết lòng kính phục cầu thỉnh thuyết pháp.Sư ở lại đây làm Đệ nhất tọa sáu năm.

Sư ra trụ trì chùa Phổ Chiếu ở Thất Châu kế bổ trụchùa Viên Thông, chùa Năng Nhơn ở Thái Bình. Sau cùng đếnThiên Đồng ở Trường Lô. Nơi đây chật hẹp, Sư sửa sangkhoáng đạt, Tăng chúng đua nhau đến tham vấn rất đông.

Sư thượng đường: Gác vàng rèm sổ ai truyền tin nhà, mànđỏ phủ tối ném chân châu, chính khi ấy thấy nghe có chỗchẳng đến, nói năng có chỗ chẳng kịp, làm sao thông đượctin tức? Mộng về đêm tối mờ mờ sáng, cười chỉ gia phongrực rỡ xuân.

Sư thượng đường: Tâm không thể duyên miệng không thểluận, dù cho lui bước gánh vác, tối kỵ đương đầu chạmhúy. Gió mát trăng trong bến đò xưa, thuyền đêm chèo chuyểnlưu ly dấy.

Sư thượng đường: Không kiếp có chân tông, trước tiếnghỏi chính mình, đỏ cùng kế sống mới, trong trắng gia phongxưa, quả thật ngoài tam thừa, lặng lẽ trong một ấn, trởlại đi dị loại, muôn dòng tự về đông.

Sư thượng đường: Hôm nay là ngày đức Thích-ca đản sanh,Trường Lô chẳng biết nói thiền cùng quí vị vẽ hình tướng,chỉ như khi còn ở trong thai bà Ma-da thì sao? Sư lấy phấttử vẽ tướng này ( ), nói: Chỉ như khi lấy nước trongtắm sắc thân lại thế nào? Sư lại vẽ tướng này ( ), nói: Khi đi bảy bước, mắt nhìn bốn phương, tay chỉ trờitay chỉ đất, thành đạo thuyết pháp thần thông biến hóa,trí tuệ biện tài bốn mươi chín năm hơn ba trăm hội, nóixanh luận vàng chỉ Đông vẽ Tây, khi nhập Niết-bàn lạilà sao? Sư vẽ tướng này ( ), lại nói: Nếu là kẻ Thiềntăng đủ mắt ắt là nhận nhau, kia nếu chưa được thế,mỗi mỗi trải qua mới được.

Sư thượng đường, Tăng ra hỏi: - Thế nào là người nhằmđi?

Sư đáp: - Mây trắng gieo khe mất, núi xanh tựa không cao.

Tăng thưa: - Thế nào là người trở lại?

Sư đáp: - Tóc bạc đầy đầu lìa hang núi, đêm tối xuyênmây vào xóm làng.

Tăng thưa: - Thế nào là người không đi không lại?

Sư đáp: - Gái đá kêu về mộng tam giới, người gỗ ngồibặt sáu cửa an.

Sư lại nói: - Trong câu sáng tông thì dễ, trong tông biệnthấu ắt khó. Sư im lặng giây lâu nói: Lại hiểu chăng? Gàsương chưa gáy Gia Lâm sáng, thầm lặng hành nhân qua TuyếtSơn.

Tăng hỏi: - Khi một mảy tơ chẳng mắc thì thế nào?

Sư đáp: - Hợp nhau thuyền khách thảy gay chèo.

Tăng hỏi: - Trong kia việc thế nào?

Sư đáp: - Đao bén búa bén chẻ chẳng vào.

Tăng hỏi: - Khi miệng đãy mở thì thế nào?

Sư đáp: - Mặc tình chận khe lấp suối.

Tăng hỏi: - Khi lý thanh hư cứu kính không thân thì thế nào?

Sư đáp: - Vân màu dấu chưa bày, tin tức khó truyền đến.

Tăng thưa: - Một bước thầm dời huyền lộ chuyển, khắpthân buông thõng kiếp hồ không.

Sư đáp: - Khi đản sanh đến cha toàn thân không sót chiếu.

Tăng thưa: - Lý đã như thế sự lại thế nào?

Sư đáp: - Rành rẽ kéo về việc phân hóa, mây ứng mườiphương lại ngại gì.

Tăng thưa: - Thế ấy thì bụi bụi đều hiện thân bản lairồi vậy?

Sư đáp: - Thấu tất cả sắc, siêu tất cả tâm.

Tăng thưa: - Như lý như sự lại là thế nào?

Sư đáp: - Rắn chết trên đường thôi chớ đập, chiếc giỏkhông đáy bỏ mang về.

Tăng thưa: - Vào chợ khéo thổi dài, về nhà mặc áo ngắn.

Sư đáp: - Người gỗ trên núi ca, gái đá bên khe múa.

Sư thượng đường: - Chư Thiền đức! Người nuốt hết Phậtba đời, vì sao lại mở miệng chẳng được? Người soi thấubốn thiên hạ, vì sao nhắm mắt chẳng được? Bảo ngườinhiều bệnh hoạn cùng ông đồng thời niêm xong vậy. Hãylàm sao được thập thành thấu suốt đi. Lại hiểu chăng?Chẻ bể Hoa Sơn sắc nối nhau, khai thấu Hoàng Hà tiến đếnbiển.

Sư trụ trì được cúng không mừng, cho ra không chán, gặpnhững năm khó khăn lương thực cạn mà vẫn nuôi hơn vạnchúng. Sư thường quá ngọ không ăn.

Đến niên hiệu Thiệu Hưng (1135) tháng chín năm Đinh Sửu,Sư đi ra mắt quan liêu và đàn việt trong quận, kế đếnra mắt Việt soái Triệu Công để lời từ biệt, ngày bảytháng mười về núi. Hôm sau, Sư tắm gội mặc y phục ngồingay thẳng nói chuyện với chúng. Sư nhìn vị Tăng hầu đòibút viết thơ, để lại cho Thiền sư Đại Huệ ỏ Dục Vươngviệc thỉnh người kế thừa. Thơ kệ rằng:

Mộng huyễn không hoa,

Sáu mươi bảy năm,

Chim trắng khói lặn,

Nước thu tiếp trời.

Sư ném bút liền tịch. Sư thọ sáu mươi bảy tuổi, vua sắcthụy là Hoằng Trí, tháp hiệu Diệu Quang.




8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com