Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

59. Quốc sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai

04/09/201102:42(Xem: 10327)
59. Quốc sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨMƯỜI SAU LỤC TỔ

59.QUỐC SƯ ĐỨC THIỀUỞnúi Thiên Thai - (881 - 972)

Sưquê ở Long Tuyền, Xử Châu, cha họ Trần, mẹ họ Diệp. MẹSư nằm mộng thấy một luồng sáng chạm vào thân, nhân đóbiết có thai. Đến khi Sư ra đời có nhiều điềm lạ.

NămSư mười lăm tuổi có vị Tăng lạ thấy Sư liền vỗ saulưng nói: "ông nên xuất gia, trong trần tục không phải làchỗ của ông". Năm mười bảy tuổi, Sư đến chùa Long Quiở quê nhà xuất gia. Năm mười tám tuổi, Sư đến chùa KhaiNguyên ở Tín Châu thọ giới.

*

Khoảngniên hiệu Khai Bình (907-910) nhà Lương, Sư cất bước du phương.Trước đến núi Đầu Tử, Sư ra mắt Thiền sư Đại Đồng,đó là buổi phát tâm ban đầu.

*

Kế,Sư tham vấn Hòa thượng Tuần ở Long Nha. Sư hỏi: Bậc tônhùng hùng vì sao gần chẳng được? Long Nha đáp: Như lửavới lửa. Sư hỏi: Chợt gặp nước đến thì sao? Long Nhabảo: Ngươi chẳng hội. Sư lại hỏi: Trời chẳng che đấtchẳng chở, lý này thế nào? Long Nha đáp: Nên như thế. Sưkhông lãnh hội được, lại cầu xin chỉ dạy. Long Nha bảo:Đạo giả! ngươi về sau tự hội.

*

Sưđến tham vấn Sơ Sơn. Sư hỏi: Trăm vòng ngàn lớp là cảnhgiới gì?

SơSơn đáp: Tay trái bám dây mang trói con quỉ. Sư hỏi: Chẳngrơi xưa nay thỉnh Thầy nói. Sơ Sơn bảo: Chẳng nói. Sư hỏi:Vì sao chẳng nói? Sơ Sơn đáp: Trong ấy chẳng biện có không.Sư thưa: Nay Thầy khéo nói. Sơ Sơn kinh hãi.

Nhưthế, Sư đi tham vấn qua năm mươi bốn vị thiện tri thức,mà pháp duyên chưa hợp. Sau cùng, Sư đến Lâm Xuyên yết kiếnPháp Nhãn (Thiền sư Văn Ích).

*

Sưdo đi khắp các tùng lâm nên mỏi mệt lười thưa hỏi. Ởtrong hội Pháp Nhãn, Sư chỉ theo chúng mà thôi.

Mộthôm, Pháp Nhãn thượng đường, có vị Tăng hỏi: Thế nàolà một giọt nước ở nguồn Tào? Pháp Nhãn đáp: Là giọtnước ở nguồn Tào. Vị Tăng ấy mờ mịt thối lui. Sư ngồibên cạnh hoát nhiên khai ngộ, bình sanh những mối nghi ngờdường như băng tiêu, cảm động đến rơi nước mắt ướtáo. Sư trình chỗ sở ngộ cho Pháp Nhãn. Pháp Nhãn bảo: Ngươingày sau sẽ làm thầy quốc vương, khiến ánh sáng đạo củaTổ sư càng rộng lớn, ta không sánh bằng.

*

Sưdạo núi Thiên Thai xem những di tích của Thiền sư Trí Khảidường như chỗ mình ở cũ. Sư lại đồng họ với Trí Khải.Thời nhân gọi Hậu thân Trí Khải.

Banđầu, Sư trụ tại Bạch Sa. Lúc đó, Thái tử Trung Hiến Vươngtrấn ở Thai Châu, nghe danh Sư thỉnh đến hỏi đạo. Sư cóbảo: Ngày sau làm chủ thiên hạ nên nhớ ơn Phật pháp.

Đếnniên hiệu Càn Hựu năm đầu (948) Thái tử lên ngôi, sai sứthỉnh Sư, đối xử theo tình thầy trò.

*

Sưthượng đường nói:

- Thánhxưa phương tiện nhiều như hà sa. Tổ sư nói "không phảigió phan động mà tâm nhân giả động", đây là pháp môn tâmấn vô thượng. Chúng ta là khách ở trong pháp môn của Tổsư, nên làm sao hội được ý Tổ sư. Chớ nói gió phan chẳngđộng mà tâm ông vọng động. Chớ nói chẳng bác gió phan,đến gió phan nhận lấy. Chớ nói chỗ gió phan động là cáigì? Có người nói gá vật sáng tâm chẳng cầu nhận vật.Có người nói sắc tức là không. Có người nói chẳng phảigió phan động nên phải khéo hội. Giải hội như thế đốivới ý chỉ Tổ sư có gì giao thiệp. Đã chẳng cho hội nhưthế, chư Thượng tọa liền nên biết rõ. Nếu ở trong ấyngộ được triệt để, có pháp môn nào mà chẳng rõ. Trămngàn phương tiện của chư Phật một lúc rỗng suốt, lạicó chỗ nghi nào? Do đó, Cổ nhân nói: một liễu thì ngànminh, một mê thì muôn lầm.

ChưThượng tọa! đâu phải ngày nay hội được một, ngày mailại chẳng hội. Đâu phải có một phần việc hướng thượngkhó hội, có một phần hạ liệt phàm phu chẳng hội. Kiếngiải như thế dù trải qua số kiếp như bụi, chỉ tự mỏimệt tinh thần đâu có lẽ phải.

Sưcóbài kệ dạy chúng:

Thông huyền phong đảnh

Bất thị nhân gian

Tâm ngoại vô pháp

Mãn mục thanh sơn.

Thấu huyền chót đảnh

Chẳng phải nhân gian

Ngoài tâm không pháp

Đầy mắt núi xanh.

PhápNhãn nghe được bảo: một bài kệ này có thể làm sống dậytông của ta.

*

Sưdời trụ tại chùa Bát-nhã mở hội thuyết pháp. Hội đầu,Sư dạy chúng:

Mộtsợi lông nuốt biển cả, tánh biển không thiếu, một hộtcải ném trên mũi nhọn, mũi nhọn không động. Thấy cùngchẳng thấy, hội cùng chẳng hội, chỉ ta biết vậy. Có bàitụng:

Tạm hạ cao phong dĩ hiển dương

Bát-nhã viên thông biến thập phương

Nhân thiên hạo hạo vô sai biệt

Pháp giới tung hoành xứ xứ chương.

Dịch:

Tạm xuống cao phong đã hiển dương

Bát-nhã viên thông khắp mười phương

Người trời bát ngát không sai khác

Pháp giới dọc ngang chốn chốn chương.

Cóvị Tăng hỏi:

- Ngườixưa nói: "người thấy Bát-nhã liền bị Bát-nhã trói, ngườichẳng thấy Bát-nhã cũng bị Bát-nhã trói", đã thấy Bát-nhãvì sao lại bị Bát-nhã trói?

Sưđáp:- Ngươi nói Bát-nhã thấy cái gì?

- Chẳngthấy Bát-nhã vì sao cũng bị Bát-nhã trói?

- Ngươinói Bát-nhã chỗ nào chẳng thấy?

Sưlại bảo:

- Nếuthấy Bát-nhã chẳng gọi là Bát-nhã, nếu chẳng thấy Bát-nhãcũng chẳng gọi là Bát-nhã. Hãy bảo nói cái gì là thấychẳng thấy? Sở dĩ, cổ nhân nói "nếu thiếu một pháp chẳngthành pháp thân, nếu dư một pháp cũng chẳng thành pháp thân;nếu có một pháp chẳng thành pháp thân, nếu không một phápcũng chẳng thành pháp thân". Đây là chân tông Bát-nhã vậy.

*

Hộithứ tư, Sư thượng đường dạy chúng:

- Cổnhân nói: Thế nào là thiền? Tam giới miên miên. Thế nàolà đạo? Thập phương hạo hạo.? Vì sao nói tam giới miênmiên? Chỗ nào là đạo lý của thập phương hạo hạo? Cầnhội chăng? Bít mắt lại, bít tai, mũi, lưỡi, thân, ý lạikhông chỗ rỗng thiếu, không chỗ chuyển động. Thượng tọahội chăng? Ngang cũng chẳng được, dọc cũng chẳng được,buông ra cũng chẳng được, đoạt đi cũng chẳng được, khôngcó chỗ dụng tâm, cũng không có chỗ lập bày. Nếu hội đượcnhư thế mới là pháp môn bặt chọn lựa, tất cả ngôn ngữdứt rỉ chảy.

*

Hộithứ sáu, Sư thượng đường dạy chúng:

- Phậtpháp hiện hành, tất cả đầy đủ. Người xưa nói: "trònđồng thái hư không thiếu không dư". Nếu như thế thì cáigì thiếu cái gì dư, cái gì phải cái gì quấy? Ai là ngườihội? Ai là người chẳng hội? Do đó nói, đi đông cũng làThượng tọa, đi tây cũng là Thượng tọa, đi nam cũng làThượng tọa, đi bắc cũng là Thượng tọa. Thượng tọa tạisao được thành đông tây nam bắc? Nếu hội được, tự nhiêncon đường thấy nghe hiểu biết bặt dứt, tất cả các pháphiện tiền. Vì sao như thế? Vì pháp thân không tướng, chạmmắt đều bày, Bát-nhã vô tri đối duyên liền chiếu, mộtlúc hội triệt để là tốt.

ChưThượng tọa! kẻ xuất gia làm gì? Cái lý bản hữu này chưaphải là phần bên ngoài. "Thức tâm đạt bản nguyên nên gọilà Sa-môn." Nếu biết rõ ràng, không còn một mảy tơ làmchướng ngại. Thượng tọa đứng lâu, trân trọng.

*

Đếnniên hiệu Khai Bảo thứ tư (972), ngày hai mươi tám tháng sáu,Sư có chút bệnh, họp chúng từ biệt xong, ngồi kiết giàthị tịch. Sư tịch tại Liên Hoa Phong thọ tám mươi hai tuổi,được sáu mươi lăm tuổi hạ.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com