HTThích Thanh Từ
TẬP 2
Sưhọ Lưu, quê ở Dư Hàn, thuở nhỏ đã tỏ ra lỗi lạc cóchí khí anh tài. Các sách vở đời, Sư đều xem qua, mà khôngcó ý kinh bang tế thế. Cha và anh cố ép Sư đi thi làm quan.Đi đến kinh đô, Sư sang chùa Khai Nguyên xin xuất gia vớiLuật sư Trí Cung. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư dạo qua cácnơi giảng kinh luận, chuyên nghiền ngẫm bộ kinh Pháp Hoa HuyềnNghĩa, tập tu chỉ quán định tuệ. Sư phát chí du phươnghành khước.
Trướcđến Việt Châu yết kiến Thiền sư Cảnh Thanh. Cảnh Thanhhỏi: Vừa rời nơi nào? Sư thưa: Từ Chiết Đông đến. CảnhThanh hỏi: Có qua sông nhỏ chăng? Sư thưa: Thuyền to riêngbay bổng, sông bé chở được nào? Cảnh Thanh bảo: Nướccảnh núi Thái chim bay chẳng qua, ngươi chớ nói lời nghe lóm.Sư thưa: Biển cả còn kinh sức thuyền chiến, vượt Hán buồmbay khỏi Ngũ hồ. Cảnh Thanh dựng đứng phất tử hỏi: Cáinày là sao? Sư thưa: Cái này là cái gì? Cảnh Thanh bảo: Quảnhiên chẳng biết. Sư thưa: Ra vào cuộn duỗi cùng Thầy đồngdụng. Cảnh Thanh bảo: Chiếc muỗng nghe tiếng rỗng, ngủsay mặc nói xàm. Sư thưa: Đầm rộng chứa núi, lý hay dẹpcọp. Cảnh Thanh bảo: Tha tội bỏ lỗi hãy mau đi ra. Sư thưa:Ra đi tức mất. Sư ra đến pháp đường, liền nghĩ: phàmngười hành khước nhân duyên chưa tột chỗ cứu kính, khôngthể bèn thôi đi. Sư liền trở lại thưa: Con vừa rồi trìnhbày chỗ cạn hẹp có xúc chạm đến Thầy, mong Thầy từbi tha thứ cho. Cảnh Thanh bảo: Vừa rồi ông nói từ Đôngđến, đâu không phải từ Thúy Nham đến? Sư thưa: TuyếtĐậu tạm dừng đông Bảo cái. Cảnh Thanh bảo: Chẳng theodê mất cuồng giải hết, trở lại trong ấy nhớ Chương thiên.Sư thưa: Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhàthơ chớ hiến thơ. Cảnh Thanh bảo: Thơ nên cất, tạm mượnkiếm xem? Sư thưa: Cúi đầu người sành mang gươm đi. CảnhThanh bảo: Chẳng những chạm phong hóa cũng tự bày lầm lẫn.Sư thưa: Nếu chẳng chạm phong hóa đâu thấy được tâm cổPhật? Sư thưa: Lại hứa thật với Thầy, nay có gì? CảnhThanh bảo: Nạp tử (Thiền sinh) phương Đông đến chẳng rànhđậu bắp, chỉ nghe chẳng thôi mà thôi, đâu được hay thôimà thôi. Sư thưa: Sóng to vọt ngàn tầm, nước trong đâu rờibiển. Cảnh Thanh bảo: Một câu bặt dòng muôn cơ nghĩ sạch.Sư liền lễ bái. Cảnh Thanh bảo: Nạp Tử trổi thay!
*
Sưđến Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm bảo: Ta có làm bài ca chăn trâu,mời Xà-lê hòa. Sư thưa: Nhịp trống huơ roi trâu cọp chạy,xadồn cây biển mỏm thành nhà.
Dừnglại Hoa Nghiêm, Sư làm Duy-na. Nhân có thị giả Khoách từNam Viện đến, Sư nhận được những đặc điểm nên kếtlàm bạn và thầm ngộ được chỉ yếu tam huyền. Sư than:Chỗ dùng của Lâm Tế như thế ư? Thị giả Khoách bảo Sưđến yết kiến Nam Viện.
*
ĐếnNam Viện vừa gặp, Sư không lễ bái. Nam Viện bảo: Vào cửaphải rành chủ. Sư thưa: Quả nhiên thỉnh Thầy phân. Nam Việnlấy tay vỗ gối trái một cái. Sư liền hét. Nam Viện vỗgối mặt một cái. Sư lại hét. Nam Viện bảo: Vỗ bên tráigác lại, vỗ bên mặt là sao? Sư thưa: Mù. Nam Viện liềnnắm gậy. Sư thưa: Chớ gông mù gậy tối. Giựt gậy đậpHòa thượng, chớ bảo chẳng nói. Nam Viện ném gậy, nói:Ba mươi năm làm trụ trì, hôm nay bị gã Chiết mặt vàng vàocửa hãm lại. Sư thưa: Hòa thượng in tuồng ôm bát chẳngđược, nói gạt là chẳng đói. Nam Viện hỏi: Xà-lê từngđến Nam Viện lúc nào? Sư thưa: Là lời nói gì? Nam Việnbảo: Lão tăng hỏi ông rõ ràng. Sư thưa: Cũng chẳng đượcbỏ qua. Nam Viện bảo: Hãy ngồi uống trà.
Sưuống nhà tăng xong, trở lên đảnh lễ tạ lỗi. Nam Việnhỏi: Xà-lê đã từng gặp người nào rồi đến đây? Sưthưa: Ở Nhượng Châu chùa Hoa Nghiêm cùng nhập hạ với Thịgiả Khoách. Nam Viện bảo: Gần kẻ tác gia. Nam Viện lạihỏi: Phương Nam một gậy thương lượng thế nào? Sư thưa:Thương lượng rất kỳ đặc. Sư lại hỏi: Hòa thượng ởđây một gậy thương lượng thế nào? Nam Viện cầm gậylên bảo: Dưới gậy vô sanh nhẫn, gặp cơ chẳng thấy Thầy.Ngay câu nói này Sư triệt ngộ, Sư ở lại đây sáu năm.
*
Mộthôm, Nam Viện gọi Sư bảo: Ngươi nương nguyện lực đếngánh vác đại pháp, chẳng phải ngẫu nhiên. Lại hỏi: Ngươinghe Lâm Tế khi sắp tịch nói chăng? Sư thưa: Nghe. Nam Việnbảo: Lâm Tế nói "ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta đếnbên con lừa mù diệt". Lại, Ngài lúc bình sanh như con sư tửthấy liền giết người, đến khi sắp tịch cớ sao lại bógối xuôi đuôi như vậy? Sư thưa: Mật phó sắp tịch, toànchủ tức mật. Nam Việt lại hỏi: Tại sao Tam Thánh Huệ Nhiêncũng không nói? Sư thưa: Con thật đã gần gũi nhận lãnh vàothất, chẳng đồng với người đi ngoài cửa. Nam Viện gậtđầu, lại hỏi: Ngươi nói bốn thứ liệu giản là liệugiản pháp gì? Sư thưa: Phàm nói ra chẳng kẹt nơi phàm tìnhliền rơi vào thánh giải, là bệnh lớn của học giả. Bậcthánh trước vì thương xót mở bày phương tiện như lấychốt tháo chốt.
Sưhỏi: Thế nào là đọat nhân chẳng đoạt cảnh?
NamViện đáp: Cung vàng vừa ra khỏi lò hồng, bắn bể Xà-lêda mặt sắt (tân xuất hồng lô kim đàn tử, sứu phá xà-lêthiết diện bì).
- Thếnào đọat cảnh chẳng đoạt nhân?
- Cắtcỏ chợt chia đầu sọ tét, mây dồn mới tụ bóng vẫn còn(sô thảo tạt phân đầu não liệt, loạn vân sơ trán ảnhdu tồn).
- Thếnào nhân cảnh đều đoạt?
- Bướcnhẹ tiến lên cần gấp gấp, nắm roi cầm cương chớ chậmchậm (niếp túc tiến tiền tu cấp cấp, tróc tiên đươngưởng mạc trì trì).
- Thếnào nhân cảnh đều chẳng đoạt?
- Thườngnhớ Giang Nam trong tháng ba, vườn hoa thơm ngát chá cô hót(thường ức Giang Nam tam ngoạt lý, chá cô đề xứ bách hoahương).
*
Đếnniên hiệu Trường Hưng năm thứ hai (931) hậu Đường, Sưsang Nhữ Thủy ở chùa Phong Huyệt. Ngôi chùa này hiện đanghư hoại chỉ còn mấy tấm tranh che kèo cột. Sư dừng ởđây một mình ban ngày lượm trái rụng ăn, tối lại đốtdầu thông, suốt bảy năm tròn như thế. Sau này, đàn việtbiết được, góp công chung sức cất thành ngôi chùa mới,liền trở thành ngôi đại tùng lâm. Niên hiệu Thiên Phúcnăm thứ hai (937) Ngụy Tấn, ngày rằm tháng giêng Sư khai pháp.
*
Sưthượng đường bảo chúng:
- Phàmcon mắt người tham học gặp cơ liền phải đại dụng hiệntiền, chớ tự ràng buộc nơi tiết nhỏ. Giả sử lời nóitrước tiến được, vẫn còn kẹt vỏ dính niệm, dù là dướicâu liền được tinh thông, chưa khỏi chạm đến lại làthấy cuồng. Xem thấy hết thảy các ông đều là nhằm đếnnương người tìm hiểu, sáng tối hai lối vì các ông mộtlúc quét sạch, dạy thẳng mỗi người các ông như sư tửcon gầm gừ rống lên một tiếng, đứng thẳng như vách caongàn nhẫn, ai dám để mắt nhìn đến, nhìn đến là mù mắty.
*
Sưđến Dỉnh Châu ở trong Nha môn lên tòa dạy chúng:
- Tâmấn của Phật Tổ in tuồng như máy trâu sắt, đi liền ấnđứng, đứng liền ấn phá, chỉ như chẳng đi chẳng đứngấn tức là phải hay chẳng ấn tức là phải? lại có ngườinói được chăng?
Khiấy, có Trưởng lão Lô Pha bước ra hỏi:
- Họcnhân có máy trâu sắt, thỉnh Thầy chẳng ấn vào?
Sưbảo:
- Quencâu kình nghê dầm trong rộng, lại than ếch nhảy ngựa lănbùn (quán điếu kình nghê trừng thủy tẩm, khước nha oa bộtriển nê sa).
LôPha trầm ngâm, Sư hét rằng: Trưởng lão sao chẳng nói lên?Lô Pha suy nghĩ. Sư đánh một phất tử, nói: Lại nhớ đượcthoại đầu chăng thử nêu lên xem? Lô Pha vừa mở miệng,Sư lại đánh một phất tử.
Mụcchủ nói: mới biết Phật pháp cùng Vương pháp một loại.Sư hỏi: Thấy đạo lý gì? Mục chủ nói: Đương cơ chẳngđoạn, lại chuốc loạn kia. Sư xuống tòa.
*
Sưthượng đường.
Cóvị Tăng hỏi:
- Thầyxướng gia khúc tông phong ai? Nối pháp người nào?
Sưđáp:
- Siêunhiên vượt khỏi ngoài Oai Âm, kiễng chân luống nhọc khenđất cát.
- Hátxưa không âm vận, thế nào hòa được bằng?
- Gàgỗ gáy nửa đêm, chó rơm sủa hừng sáng.
*
Tănghỏi:- Thế nào là Phật?
Sưđáp:- Thế nào chẳng phải Phật?
- Chưahiểu huyền ngôn, thỉnh Thầy chỉ thẳng?
- Nhàở châu Hải Môn, Phù Tang (Nhật Bản) chiếu trước nhất.
*
Tănghỏi:- Gương xưa khi chưa lau thì thế nào?
Sưđáp:- Thiên ma bể mật.
- Saukhi lau thì thế nào?
- Huỳnhđế không đạo?
*
Tănghỏi:
- Phàmcó hỏi ra đều là niết quái, thỉnh Thầy chặt thẳng cộinguồn?
Sưđáp:- Ít gặp người tai phủng, thường thấy kẻ khắc thuyền.
- Chínhkhi ấy thì làm sao?
- Rùamù gặp bộng (cây) tuy an ổn, cây khô trổ hoa vật ngoạixuân.
*
Tănghỏi:- Khi một niệm muôn năm thì thế nào?
Sưđáp:- Áo tiên lau đá rách.
- Hồngchung khi chưa đánh thì thế nào?
- Đầydẫy đại thiên đều âm vận, diệu hợp thầm thông đâuhay phân.
- Saukhi đánh thì thế nào?
- Váchđá núi sông đâu chướng ngại, mù tiêu thông suốt mong thầmnghe.
*
NhàTống niên hiệu Khai Bảo năm thứ sáu (973) ngày mùng mộttháng tám, Sư lên tòa nói kệ:
Đạo tại thừa thời tu tế vật
Viễn phương lai mộ tự đằng đằng
Tha niên hữu tẩu tình tương tợ
Nhật nhật hương yên dạ dạ đăng.
Dịch:
Phải thời truyền đạo lợi quần sanh
Chẳng quản phương xa tự vươn lên
Năm khác có người dòng giống đó
Ngày ngày hương khói đêm đêm đèn.
Đếnngày rằm, Sư ngồi kiết già thị tịch, thọ bảy mươi támtuổi, năm mươi chín tuổi hạ. Trước đó một ngày, Sư viếtthơ từ giã đàn việt.