Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

34. Thiền sư Diên Chiểu ở Phong Huyệt

04/09/201102:42(Xem: 10048)
34. Thiền sư Diên Chiểu ở Phong Huyệt

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨTÁM SAU LỤC TỔ

34.THIỀN SƯ DIÊN CHIỂUỞPhong Huyệt - (896 - 973)

Sưhọ Lưu, quê ở Dư Hàn, thuở nhỏ đã tỏ ra lỗi lạc cóchí khí anh tài. Các sách vở đời, Sư đều xem qua, mà khôngcó ý kinh bang tế thế. Cha và anh cố ép Sư đi thi làm quan.Đi đến kinh đô, Sư sang chùa Khai Nguyên xin xuất gia vớiLuật sư Trí Cung. Sau khi thọ giới cụ túc, Sư dạo qua cácnơi giảng kinh luận, chuyên nghiền ngẫm bộ kinh Pháp Hoa HuyềnNghĩa, tập tu chỉ quán định tuệ. Sư phát chí du phươnghành khước.

Trướcđến Việt Châu yết kiến Thiền sư Cảnh Thanh. Cảnh Thanhhỏi: Vừa rời nơi nào? Sư thưa: Từ Chiết Đông đến. CảnhThanh hỏi: Có qua sông nhỏ chăng? Sư thưa: Thuyền to riêngbay bổng, sông bé chở được nào? Cảnh Thanh bảo: Nướccảnh núi Thái chim bay chẳng qua, ngươi chớ nói lời nghe lóm.Sư thưa: Biển cả còn kinh sức thuyền chiến, vượt Hán buồmbay khỏi Ngũ hồ. Cảnh Thanh dựng đứng phất tử hỏi: Cáinày là sao? Sư thưa: Cái này là cái gì? Cảnh Thanh bảo: Quảnhiên chẳng biết. Sư thưa: Ra vào cuộn duỗi cùng Thầy đồngdụng. Cảnh Thanh bảo: Chiếc muỗng nghe tiếng rỗng, ngủsay mặc nói xàm. Sư thưa: Đầm rộng chứa núi, lý hay dẹpcọp. Cảnh Thanh bảo: Tha tội bỏ lỗi hãy mau đi ra. Sư thưa:Ra đi tức mất. Sư ra đến pháp đường, liền nghĩ: phàmngười hành khước nhân duyên chưa tột chỗ cứu kính, khôngthể bèn thôi đi. Sư liền trở lại thưa: Con vừa rồi trìnhbày chỗ cạn hẹp có xúc chạm đến Thầy, mong Thầy từbi tha thứ cho. Cảnh Thanh bảo: Vừa rồi ông nói từ Đôngđến, đâu không phải từ Thúy Nham đến? Sư thưa: TuyếtĐậu tạm dừng đông Bảo cái. Cảnh Thanh bảo: Chẳng theodê mất cuồng giải hết, trở lại trong ấy nhớ Chương thiên.Sư thưa: Gặp tay kiếm khách nên trình kiếm, chẳng phải nhàthơ chớ hiến thơ. Cảnh Thanh bảo: Thơ nên cất, tạm mượnkiếm xem? Sư thưa: Cúi đầu người sành mang gươm đi. CảnhThanh bảo: Chẳng những chạm phong hóa cũng tự bày lầm lẫn.Sư thưa: Nếu chẳng chạm phong hóa đâu thấy được tâm cổPhật? Sư thưa: Lại hứa thật với Thầy, nay có gì? CảnhThanh bảo: Nạp tử (Thiền sinh) phương Đông đến chẳng rànhđậu bắp, chỉ nghe chẳng thôi mà thôi, đâu được hay thôimà thôi. Sư thưa: Sóng to vọt ngàn tầm, nước trong đâu rờibiển. Cảnh Thanh bảo: Một câu bặt dòng muôn cơ nghĩ sạch.Sư liền lễ bái. Cảnh Thanh bảo: Nạp Tử trổi thay!

*

Sưđến Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm bảo: Ta có làm bài ca chăn trâu,mời Xà-lê hòa. Sư thưa: Nhịp trống huơ roi trâu cọp chạy,xadồn cây biển mỏm thành nhà.

Dừnglại Hoa Nghiêm, Sư làm Duy-na. Nhân có thị giả Khoách từNam Viện đến, Sư nhận được những đặc điểm nên kếtlàm bạn và thầm ngộ được chỉ yếu tam huyền. Sư than:Chỗ dùng của Lâm Tế như thế ư? Thị giả Khoách bảo Sưđến yết kiến Nam Viện.

*

ĐếnNam Viện vừa gặp, Sư không lễ bái. Nam Viện bảo: Vào cửaphải rành chủ. Sư thưa: Quả nhiên thỉnh Thầy phân. Nam Việnlấy tay vỗ gối trái một cái. Sư liền hét. Nam Viện vỗgối mặt một cái. Sư lại hét. Nam Viện bảo: Vỗ bên tráigác lại, vỗ bên mặt là sao? Sư thưa: Mù. Nam Viện liềnnắm gậy. Sư thưa: Chớ gông mù gậy tối. Giựt gậy đậpHòa thượng, chớ bảo chẳng nói. Nam Viện ném gậy, nói:Ba mươi năm làm trụ trì, hôm nay bị gã Chiết mặt vàng vàocửa hãm lại. Sư thưa: Hòa thượng in tuồng ôm bát chẳngđược, nói gạt là chẳng đói. Nam Viện hỏi: Xà-lê từngđến Nam Viện lúc nào? Sư thưa: Là lời nói gì? Nam Việnbảo: Lão tăng hỏi ông rõ ràng. Sư thưa: Cũng chẳng đượcbỏ qua. Nam Viện bảo: Hãy ngồi uống trà.

Sưuống nhà tăng xong, trở lên đảnh lễ tạ lỗi. Nam Việnhỏi: Xà-lê đã từng gặp người nào rồi đến đây? Sưthưa: Ở Nhượng Châu chùa Hoa Nghiêm cùng nhập hạ với Thịgiả Khoách. Nam Viện bảo: Gần kẻ tác gia. Nam Viện lạihỏi: Phương Nam một gậy thương lượng thế nào? Sư thưa:Thương lượng rất kỳ đặc. Sư lại hỏi: Hòa thượng ởđây một gậy thương lượng thế nào? Nam Viện cầm gậylên bảo: Dưới gậy vô sanh nhẫn, gặp cơ chẳng thấy Thầy.Ngay câu nói này Sư triệt ngộ, Sư ở lại đây sáu năm.

*

Mộthôm, Nam Viện gọi Sư bảo: Ngươi nương nguyện lực đếngánh vác đại pháp, chẳng phải ngẫu nhiên. Lại hỏi: Ngươinghe Lâm Tế khi sắp tịch nói chăng? Sư thưa: Nghe. Nam Việnbảo: Lâm Tế nói "ai biết chánh pháp nhãn tạng của ta đếnbên con lừa mù diệt". Lại, Ngài lúc bình sanh như con sư tửthấy liền giết người, đến khi sắp tịch cớ sao lại bógối xuôi đuôi như vậy? Sư thưa: Mật phó sắp tịch, toànchủ tức mật. Nam Việt lại hỏi: Tại sao Tam Thánh Huệ Nhiêncũng không nói? Sư thưa: Con thật đã gần gũi nhận lãnh vàothất, chẳng đồng với người đi ngoài cửa. Nam Viện gậtđầu, lại hỏi: Ngươi nói bốn thứ liệu giản là liệugiản pháp gì? Sư thưa: Phàm nói ra chẳng kẹt nơi phàm tìnhliền rơi vào thánh giải, là bệnh lớn của học giả. Bậcthánh trước vì thương xót mở bày phương tiện như lấychốt tháo chốt.

Sưhỏi: Thế nào là đọat nhân chẳng đoạt cảnh?

NamViện đáp: Cung vàng vừa ra khỏi lò hồng, bắn bể Xà-lêda mặt sắt (tân xuất hồng lô kim đàn tử, sứu phá xà-lêthiết diện bì).

- Thếnào đọat cảnh chẳng đoạt nhân?

- Cắtcỏ chợt chia đầu sọ tét, mây dồn mới tụ bóng vẫn còn(sô thảo tạt phân đầu não liệt, loạn vân sơ trán ảnhdu tồn).

- Thếnào nhân cảnh đều đoạt?

- Bướcnhẹ tiến lên cần gấp gấp, nắm roi cầm cương chớ chậmchậm (niếp túc tiến tiền tu cấp cấp, tróc tiên đươngưởng mạc trì trì).

- Thếnào nhân cảnh đều chẳng đoạt?

- Thườngnhớ Giang Nam trong tháng ba, vườn hoa thơm ngát chá cô hót(thường ức Giang Nam tam ngoạt lý, chá cô đề xứ bách hoahương).

*

Đếnniên hiệu Trường Hưng năm thứ hai (931) hậu Đường, Sưsang Nhữ Thủy ở chùa Phong Huyệt. Ngôi chùa này hiện đanghư hoại chỉ còn mấy tấm tranh che kèo cột. Sư dừng ởđây một mình ban ngày lượm trái rụng ăn, tối lại đốtdầu thông, suốt bảy năm tròn như thế. Sau này, đàn việtbiết được, góp công chung sức cất thành ngôi chùa mới,liền trở thành ngôi đại tùng lâm. Niên hiệu Thiên Phúcnăm thứ hai (937) Ngụy Tấn, ngày rằm tháng giêng Sư khai pháp.

*

Sưthượng đường bảo chúng:

- Phàmcon mắt người tham học gặp cơ liền phải đại dụng hiệntiền, chớ tự ràng buộc nơi tiết nhỏ. Giả sử lời nóitrước tiến được, vẫn còn kẹt vỏ dính niệm, dù là dướicâu liền được tinh thông, chưa khỏi chạm đến lại làthấy cuồng. Xem thấy hết thảy các ông đều là nhằm đếnnương người tìm hiểu, sáng tối hai lối vì các ông mộtlúc quét sạch, dạy thẳng mỗi người các ông như sư tửcon gầm gừ rống lên một tiếng, đứng thẳng như vách caongàn nhẫn, ai dám để mắt nhìn đến, nhìn đến là mù mắty.

*

Sưđến Dỉnh Châu ở trong Nha môn lên tòa dạy chúng:

- Tâmấn của Phật Tổ in tuồng như máy trâu sắt, đi liền ấnđứng, đứng liền ấn phá, chỉ như chẳng đi chẳng đứngấn tức là phải hay chẳng ấn tức là phải? lại có ngườinói được chăng?

Khiấy, có Trưởng lão Lô Pha bước ra hỏi:

- Họcnhân có máy trâu sắt, thỉnh Thầy chẳng ấn vào?

Sưbảo:

- Quencâu kình nghê dầm trong rộng, lại than ếch nhảy ngựa lănbùn (quán điếu kình nghê trừng thủy tẩm, khước nha oa bộtriển nê sa).

LôPha trầm ngâm, Sư hét rằng: Trưởng lão sao chẳng nói lên?Lô Pha suy nghĩ. Sư đánh một phất tử, nói: Lại nhớ đượcthoại đầu chăng thử nêu lên xem? Lô Pha vừa mở miệng,Sư lại đánh một phất tử.

Mụcchủ nói: mới biết Phật pháp cùng Vương pháp một loại.Sư hỏi: Thấy đạo lý gì? Mục chủ nói: Đương cơ chẳngđoạn, lại chuốc loạn kia. Sư xuống tòa.

*

Sưthượng đường.

Cóvị Tăng hỏi:

- Thầyxướng gia khúc tông phong ai? Nối pháp người nào?

Sưđáp:

- Siêunhiên vượt khỏi ngoài Oai Âm, kiễng chân luống nhọc khenđất cát.

- Hátxưa không âm vận, thế nào hòa được bằng?

- Gàgỗ gáy nửa đêm, chó rơm sủa hừng sáng.

*

Tănghỏi:- Thế nào là Phật?

Sưđáp:- Thế nào chẳng phải Phật?

- Chưahiểu huyền ngôn, thỉnh Thầy chỉ thẳng?

- Nhàở châu Hải Môn, Phù Tang (Nhật Bản) chiếu trước nhất.

*

Tănghỏi:- Gương xưa khi chưa lau thì thế nào?

Sưđáp:- Thiên ma bể mật.

- Saukhi lau thì thế nào?

- Huỳnhđế không đạo?

*

Tănghỏi:

- Phàmcó hỏi ra đều là niết quái, thỉnh Thầy chặt thẳng cộinguồn?

Sưđáp:- Ít gặp người tai phủng, thường thấy kẻ khắc thuyền.

- Chínhkhi ấy thì làm sao?

- Rùamù gặp bộng (cây) tuy an ổn, cây khô trổ hoa vật ngoạixuân.

*

Tănghỏi:- Khi một niệm muôn năm thì thế nào?

Sưđáp:- Áo tiên lau đá rách.

- Hồngchung khi chưa đánh thì thế nào?

- Đầydẫy đại thiên đều âm vận, diệu hợp thầm thông đâuhay phân.

- Saukhi đánh thì thế nào?

- Váchđá núi sông đâu chướng ngại, mù tiêu thông suốt mong thầmnghe.

*

NhàTống niên hiệu Khai Bảo năm thứ sáu (973) ngày mùng mộttháng tám, Sư lên tòa nói kệ:

Đạo tại thừa thời tu tế vật

Viễn phương lai mộ tự đằng đằng

Tha niên hữu tẩu tình tương tợ

Nhật nhật hương yên dạ dạ đăng.

Dịch:

Phải thời truyền đạo lợi quần sanh

Chẳng quản phương xa tự vươn lên

Năm khác có người dòng giống đó

Ngày ngày hương khói đêm đêm đèn.

Đếnngày rằm, Sư ngồi kiết già thị tịch, thọ bảy mươi támtuổi, năm mươi chín tuổi hạ. Trước đó một ngày, Sư viếtthơ từ giã đàn việt.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com