Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

29. Thiền sư Tông Nhất pháp danh Sư Bị ở Huyền Sa

04/09/201102:42(Xem: 10228)
29. Thiền sư Tông Nhất pháp danh Sư Bị ở Huyền Sa

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨBẢY SAU LỤC TỔ

29.THIỀN SƯ TÔNG NHẤT
Phápdanh Sư Bị ở Huyền Sa - (835-908)

Sưhọ Tạ quê ở huyện Mân, Phước Châu. Thuở nhỏ thích câucá, Sư sắm một chiếc thuyền nhỏ thường thả câu trênsông Nam Đài.

Đếnnăm ba mươi tuổi, nhằm niên hiệu Hàm Thông năm đầu (860),Sư chợt phát tâm cầu giải thoát. Liền bỏ thuyền câu, Sưlên núi Phù Dung theo Thiền sư Linh Huấn xuất gia, đến chùaKhai Nguyên ở Dự Chương thọ giới cụ túc với Luật sưĐạo Huyền. Sau đó, Sư chỉ mặc áo gai đi giày cỏ, ăn vừađủ sống, suốt ngày ngồi yên lặng. Trong chúng thấy đềukinh dị.

Đốivới Tuyết Phong Nghĩa Tồn, Sư là đàn em trong đạo, mà gầngũi kính thờ như thầy trò. Tuyết Phong thấy Sư khổ hạnhnên gọi là Đầu-đà.

Mộthôm, Tuyết Phong hỏi: Cái gì là Đầu-đà Bị? Sư đáp: Trọnchẳng dám dối người. Hôm khác, Tuyết Phong gọi: Đầu-đàBị! tại sao chẳng đi tham vấn các nơi? Sư thưa: Đạt-machẳng đến Đông độ, Nhị Tổ chẳng sang Tây thiên. TuyếtPhong gật đầu.

*

TuyếtPhong lên núi Tượng Cốt hoằng hóa, Sư cùng góp sức đắclực. Học lữ các nơi tụ họp thật đông.

Sưnhập thất quên mất sớm chiều, lại xem kinh Lăng Nghiêm phátminh tâm địa. Do đó, Sư ứng đối lẹ làng cùng kinh điểnphù hợp. Những vị huyền học ở các nơi chưa giải quyếtnghi ngờ đều đến cầu Sư chỉ dạy. Đến như Tuyết Phonggạn hỏi đối đáp cũng tương đương chẳng nhượng. TuyếtPhong bảo: "Đầu-đà Bị là người tái sanh."

*

TuyếtPhong thượng đường nói:

- Cầnhỏi được việc này, ví như gương xưa hiện ở trên đài,Hồ đến thì hiện Hồ, Hán đến thì hiện Hán.

Sưthưa:- Chợt gặp gương sáng đến thì thế nào?

TuyếtPhong bảo:- Hồ Hán đều ẩn.

Sưthưa:- Lão Hòa thượng gót chân chưa dính đất.

*

Trưởnglão Nam Tế đến Tuyết Phong, Tuyết Phong dạy đến hỏi Sư:

Sưhỏi:

- Cổnhân nói: "việc này chỉ ta hay biết", ý kiến Trưởng lãothế nào?

NamTế thưa:- Nên biết có người chẳng cầu biết.

Sưbảo:- Hòa thượng ở trên chót núi chịu bao nhiêu thứ khổsở để làm gì?

*

TuyếtPhong nói:

- Thếgiới rộng một thước gương xưa rộng một thước; thếgiới rộng một trượng gương xưa rộng một trượng.

Sưchỉ lò lửa hỏi:- Lò lửa rộng bao nhiêu?

- Nhưgương xưa rộng.

- LãoHòa thượng gót chân chưa dính đất.

*

Sưtừ biệt Tuyết Phong rằng:

- ThưaHòa thượng! mỗi người có tự do tự tại, hôm nay tôixin xuống núi.

TuyếtPhong hỏi:- Lời ai nói thế ấy?

- LờiHòa thượng nói thế ấy.

- Cònông thì sao?

- Chẳngtự do tự tại.

- Biết.

Lúcđầu, Sư được thỉnh trụ viện Phổ Ứng tại trường MaiKhê. Kế đó, Sư dời trụ tại núi Huyền Sa. Từ đây chúngtăng khắp nơi đua nhau đến tham vấn. Học chúng hằng ngàytrên số tám trăm vị. Mân soái Vương Công thỉnh Sưdiễn Vô thượng thừa và kính Sư làm thầy.

*

Sưthượng đường im lặng giây lâu, bảo chúng:

- Tôiđã vì các ông triệt khốn (thống thiết), lại hội chăng?

Cóvị Tăng thưa:- Khi lặng lẽ không nói là sao?

- Nóimớ làm gì? [Mớ là tiếng nói trong giấc mộng.]

- ThỉnhThầy nói việc bổn phận?

- Ngủmê làm gì?

- Họcnhân tức ngủ mê, còn Thầy thì sao?

- Đâuđược thế ấy, chẳng biết ngứa ngáy.

Sưlại nói:

Đángtiếc! Sư tăng đông như thế, đi hành khước ngàn dặm muôndặm đến đây, mà chẳng tiêu cái ngủ mê nói mớ, bèn thốilui.

*

ViGiám Quân đến yết kiến Sư, thưa: Hòa thượng Tào Sơn rấtkỳ quái. Sư hỏi: Vũ Châu cách Tào Sơn mấy dặm? Vi Giámchỉ vị Tăng bên cạnh hỏi: Thượng tọa từng đến TàoSơn chăng? Vị Tăng ấy nói: Đã từng đến. Vi Giám hỏi:Vũ Châu cách Tào Sơn mấy dặm? Tăng nói: Một trăm hai mươi(120) dặm. Vi Giám bảo: Thế ấy là Thượng tọa chưa đếnTào Sơn. Vi Giám đứng dậy đảnh lễ Sư, Sư bảo: Giám Quânnên lễ vị Tăng này, vị Tăng này đầy đủ hổ thẹn.

*

Sưdạy chúng:

- Chưthiền đức! các ông du phương hành khước đến đây, nóirằng ta tham thiền học đạo, là có chỗ kỳ đặc, hay chỉhỏi đông hỏi tây? Nếu có chỗ kỳ đặc hãy thông qua, tôisẽ vì các ông chứng minh là phải hay chẳng phải. Tôi trọnbiết hết, lại có kỳ đặc chăng? Nếu không có kỳ đặc,chỉ là người đuổi theo tiếng. Các ông đã đến trong đây,giờ đây tôi xin hỏi: các ông là người có mắt chăng? Nếucó thì hiện đây liền nhận biết được, mà các ông cóbiết được chăng? Nếu các ông chẳng biết, bị tôi gọikẻ mù từ nhỏ, kẻ điếc từ nhỏ, có phải chăng? chấpnhận lời nói như thế chăng?

Chưthiền đức! cũng chớ tự khi mà lui sụt, cái chân thật củacác ông đâu từng là người mù điếc. Chư Phật mười phươngnắm các ông để trên đầu, chẳng dám lầm lẫn một phầntử, chỉ nói "việc này duy ta hay biết", hội chăng? Như hiệnnay thừa kế, trọn nói là thừa kế Thích-ca. Tôi nói: "Thích-cacùng tôi đồng tham cứu." Các ông nói tham cứu cái gì? hộichăng? Thật không phải dễ dàng biết, phải là người đạingộ mới có thể biết được. Nếu cái sở ngộ chừng bựccũng không thể gặp. Các ông lại biết đại ngộ chăng? Khôngphải là nhận cái chiếu soi trên đầu các ông, không phảicái các ông nói không, nói rỗng, nói bên nây bên kia, nóicó pháp thế gian, nói có một cái chẳng phải pháp thế gian.

Hòathượng con! hư không vẫn từ mê vọng huyễn sanh. Hiện naynếu đại ngộ thì còn có chỗ nào để nói năng? Còn khôngcó hư không thì chỗ nào có tam giới? nghiệp dẫn, cha mẹlàm duyên sanh ra ta thành lập trước sau? Hiện nay nói khôngvẫn là lừa dối, huống là nói có. Biết chăng? Các ông đihành khước đã lâu, tự nói có việc giác ngộ. Nay tôi hỏiông: ví như chót núi bờ vực chỗ không có dấu vết người,lại có Phật pháp chăng? biện được rành rẽ chăng? Nếubiện chẳng được thật là chưa có.

Tôithường nói: trước mặt vị Tăng chết tức là chạm mắtBồ-đề, thần quang muôn dặm là tướng sau đảnh. Nếu ngườigặp được, chẳng ngại ra ngoài ấm giới, thoát khỏi ýtưởng trên đầu ông, xưa nay chỉ là thể người chân thậtcủa ông. Chỗ nào còn có một pháp khác che đậy? Các ôngbiết chăng? tin chăng? hiểu thừa đương được chăng? Rấtcần nỗ lực!

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Nhânnghe Hòa thượng nói "tột mười phương thế giới là mộthòn minh châu", con làm sao được hội?

Sưđáp:

- Tộtmười phương thế giới là một hòn minh châu, dùng hội đểlàm gì?

VịTăng ấy bèn thôi.

Sưhỏi lại:

-Tộtmười phương thế giới là một hòn minh châu, ngươi làm saohội?

Tăngthưa:

- Tộtmười phương thế giới là một hòn minh châu, dùng hội làmgì?

Sưbảo:- Biết ngươi nhằm trong hang quỉ tìm kế sống.

*

Sưdạy chúng:

- Naytôi hỏi các ông đã thừa đương được việc gì? tại thếgiới nào an thân lập mạng? biện biệt được chăng? Nếubiện chẳng được in tuồng ấn mắt thấy hoa đốm, thấyviệc đã sai, biết chăng? Hiện nay thấy núi sông đồng nộisắc không tối sáng bao nhiêu sự vật đều là tướng hoađốm cuồng nhọc sanh ra, gọi là tri kiến điên đảo. Phàmngười xuất gia phải Thức tâm đạt bản, nên hiệu là Sa-môn.Nay các ông đã cạo tóc đắp y làm tướng Sa-môn, thì phảicó phần tự lợi lợi tha. Mà nay xem thấy đầu đen kịt tốităm như dầu hắc, tự cứu còn chẳng được, làm sao giảicứu cho người.

Nhângiả! nhân duyên Phật pháp là việc lớn, chớ nên thong thảdụm đầu nói bậy nói loạn theo tiếng qua ngày, thì giờkhó được, đáng tiếc, kẻ đại trượng phu sao chẳng tựtỉnh xét, xem là vật gì? Về tông phong từ trước là dòngchư Phật đảnh, các ông đã thừa đương chẳng được. Dođó, tôi phương tiện khuyên các ông nên từ cửa Ca-diếptiếp tục chóng vượt qua đi. Một cửa này vượt khỏi nhânquả phàm thánh, vượt cả biển thế giới diệu trang nghiêmcủa Tỳ-lô, vượt luôn cửa phương tiện của đức Thích-ca,thẳng đây vĩnh kiếp chẳng dạy có mộ? vật để ông trôngthấy. Sao ông chẳng mau mau tham cứu lấy? Không nên nói "tahãy đợi hai đời, ba đời, gom chứa tịnh nghiệp lâu xa mớiđược".

Nhângiả! tông thừa của các ông là việc gì? Không thể do thâmtâm ông dụng công trang nghiêm mà được, không thể do thatâm túc mạng mà được, hội chăng? Như đức Thích-ca ra đờilàm rất nhiều việc, nói mười hai phần giáo, tạo thànhmột trường Phật sự cho ông. Nhưng, trong cửa này dùng mộtđiểm chẳng được, dùng một đầu sợi lông lượng xétchẳng được. Biết chăng? Như việc trong mộng, cũng như ngủmớ. Sa-môn chẳng chịu hiện ra là chẳng đồng việc mộng,bởi vì biết được, hiểu chăng? Biết được tức là đạigiải thoát, người thấu triệt. Do đó, mà siêu phàm vượtthánh, dứt sanh lìa tử, rời nhân xa quả, siêu Tỳ-lô, vượtThích-ca, chẳng bị nhân quả phàm thánh lừa, tất cả chỗkhông người biết được ông, biết chăng? Chớ hằng mắctrong lưới ái sanh tử, bị nghiệp thiện ác trói buộc lôiđi, không có phần tự do. Dù ông luyện được thân tâm đồnghư không, dù ông được đến chỗ tinh minh lặng lẽ chẳngđộng, vẫn không ra khỏi thức ấm. Cổ nhân gọi nó "nhưthác nước". Vì nó chảy nhanh nên chẳng biết vọng, cho làlặng lẽ. Tu hành thế ấy trọn chẳng ra khỏi mé luân hồi,vẫn như trước bị luân chuyển. Cho nên nói "các hạnh vôthường, hẳn là công quả của tam thừa". Như thế, thậtđáng sợ. Nếu không có đạo nhãn cũng chẳng được cứukính. Sao bằng hiện nay là phàm phu chay chẳng dùng một mảycông phu liền được chóng siêu xuất. Hiểu sức tĩnh tâmchăng? Lại mong thích chăng? Khuyên các ông, như tôi hiện giờđứng thẳng đợi các ông nhìn thấy, chẳng dạy các ôngdụng công luyện hạnh. Hiện nay chẳng thế ấy, lại đợikhi nào? lại chấp nhận chăng?

*

Sưdạy chúng:

- Nàycác ông! giống như người ngồi trong biển cả nước ngậplút đầu, mà đưa tay hỏi người xin nước uống. Hội chăng?Phàm người học Bát-nhã Bồ-tát phải đại căn khí có đạitrí tuệ mới được. Nếu người có trí tuệ thì hiện nayđược siêu thoát. Nếu người căn cơ trì độn cần phảisiêngnăng khổ nhọc nhẫn nại, ngày đêm bỏ ăn quên mệt, giốnghệt người đưa đám ma mẹ vậy. Cấp thiết thế ấy đếntrọn một đời, lại được người dìu dắt cần phải ghixương thật cứu, chẳng ngại gì cũng sẽ được gặp. Huốnglà, hiện nay ai là người kham chịu thọ học?

Nhângiả! chớ có nhớ câu ghi lời, giống hệt người niệm thầnchú, cất bước đi đến trong miệng đọc đa đa hòa hòa,bị người nắm đứng hỏi, liền quên mất hết, liền nổisân nói: Hòa thượng chẳng vì con đáp thoại. Việc học thếấy là đại khổ, biết chăng?

Cómột bọn Hòa thượng ngồi trên giường thiền xưng là thiệntri thức, bị người hỏi liền động thân, động tay, chỉmắt, le lưỡi, trợn mắt. Lại có một bọn bèn nói: sángrỡ linh thông trí tánh linh đài hay thấy hay nghe, nhằm trongthửa ruộng thân năm uẩn làm chủ tể. Thiện tri thức! Thếấy là quá dối người. Biết chăng? Nay tôi hỏi các ông:nếu nhận cái sáng rỡ linh thông ấy là ông chân thật, tạisao khi ngủ mê lại không có sáng rỡ linh thông? Nếu khi ngủmê chẳng phải, thì tại sao có khi sáng rỡ? Các ông hộichăng? Cái ấy gọi là nhận giặc làm con, là cội gốc sanhtử, duyên khí vọng tưởng. Các ông muốn biết căn do nàychăng? tôi nói với ông: cái sáng rỡ linh thông của ông chỉnhân pháp sắc thanh hương vị? của tiền trần mà có phânbiệt, bèn nói đây là sáng rỡ linh thông. Nếu không có tiềntrần thì cái sáng rỡ linh thông của ông đồng với lôngrùa sừng thỏ.

Nhângiả! Chân thật ở chỗ nào? Nay ông muốn ra khỏi cái chủtể của thửa ruộng thân năm uẩn, chỉ biết nhận lấy thểkim cang bí mật. Cổ nhân đã nói với các ông "viên thànhchánh kiến khắp giáp sa giới". Nay tôi lấy ít phần nói thídụ, các ông có trí do đó có thể biết: Các ông thấy mặttrời nơi thế giới này chăng? Người thế gian tạo tác sanhhoạt, bao nhiêu việc tâm hành tạo nghiệp đều nhờ ánh sángmặt trời mà có. Song mặt trời có nhiều thứ đến tâm hànhchăng? lại có chỗ chẳng khắp giáp chăng? Muốn biết thểkim cang này cũng như thế. Hiện nay núi sông đất bằng, mườiphương cõi nước sắc không sáng tối và thân tâm ông,đều nhờ cái oai quang viên thành của ông mà hiện. Cả thảytrời người các loài quần sanh tạo nghiệp thọ quả báocó tánh không tánh, đều nhờ cái oai quang của ông. Cho đến,chư Phật thành đạo thành quả tiếp vật lợi sanh, đềutrọn nhờ cái oai quang của ông. Nhưng thể kim cang lại cóphàm phu chư Phật chăng? có tâm hành của ông chăng? Khôngthể nói không là đúng được. Biết chăng? Ông đã có cáikỳ đặc như thế, bày hiện chỗ xuất thân, sao chẳng phátminh lấy? Lại theo người nhằm trong thửa ruộng thân nămấm, trong cõi quỉ mà tìm kế sống. Hẳn là tự dối mấtvậy. Chợt gặp quỉ vô thường đến, mắt trợn miệng méothân kiến mạng kiến khi thế ấy thật khó chống chọi được.Giống như lột vỏ con rùa sống, thật khổ!

*

Nhângiả! chớ bám lấy kiến giải ngủ mê, cần phải dẹp đi.Chưa giải che đậy bao nhiêu đầu sợi lông? Ông lại biếtchăng? Tam giới không yên ví như nhà lửa, vả lại ông vẫnlà người chưa được an ổn, chỉ kết thành đoàn can phạmviệc thế nhân, bên này bên kia bay chạy in tuồng con nai rừngchỉ biết tìm ăn tìm mặc. Nếu thế ấy, đâu thể hành vươngđạo. Biết chăng? Quốc vương đại thần chẳng bắt buộcông, cha mẹ cho ông đi xuất gia, mười phương thí chủ cúngdường ông áo mặc cơm ăn, thổ địa long thần ủng hộ ông,cần phải đầy đủ hổ thẹn biết ân mới được. Chớcô phụ lòng tốt của người. Khi bệnh nằm liệt trên giường,lăn lộn dưới đất, nói là an lạc thì chẳng có, đều lànhờ cơm cháo nuôi dưỡng. Ông đến khi thân hư hoại nhưtrái dưa gang chẳng khác, rồi đem chôn vùi dưới đất, nghiệpthức mờ mờ không chỗ để nương. Sa-môn vì sao lại đếnthế ấy? Chỉ vì như côn trùng trên đất, tôi gọi là tạonghiệp ở trong địa ngục.

Hiệnnay nếu chẳng liễu ngộ, sáng sớm hôm nào sẽ thấy vàotrong thai lừa bụng ngựa, mang ách kéo cày hàm sắt dây yên,cối đá xay nghiền nước lửa thiêu nấu, thật chẳng dễdàng, chịu những điều rất kinh sợ. Hoàn toàn tại ông tựtạo khổ lụy, biết chăng?

Nếulà liễu ngộ, liền đó muôn kiếp chẳng từng dạy ông cónhững dấu hiệu ấy. Nếu chẳng liễu ngộ thì nhân duyênphiền não ác nghiệp này, chưa phải là một kiếp hai kiếpđược hết. Hẳn là cùng với cái kim cang của ông đồngtuổi thọ, hiểu chăng?

*

Sưdạy chúng:

- Chântông cổ Phật thường tùy vật hiện ứng dụng rành rànhnơi nơi sáng rỡ, ẩn hiện thản nhiên, thấp cao đều chiếu.Thế nên, Sa-môn Thượng sĩ duy đạo nhãn là trước, hợpbản minh tâm mới là cứu kính. Vạn tượng sum la một thểđồng nguồn, rỗng suốt không ngằn, ai luận có kẹt, việctrong trần kiếp hiện ở trước mắt. Người đời cách xalâu đời, nên trái với thể thường, quên tâm nhận vật,mà ngược với chân tông, chấp có kẹt không, chẳng gặpthầy lành bạn tốt, chỉ tự nhận hiểu riêng mình. Dù họcó bàn luận, lẫn lộn trong ý so tính. Cho đến, tìm đếnchỗ lý tột vẫn không phân biệ? chánh tà. Huống là bìnhsanh chưa từng mò bắt.

Nếulà bậc cổ đức tiên hiền, khi được biết liền khắc kỷthật hành công phu, ở am tranh hoặc thất đá trên chót núi.Cổ đức nói: "tình phàm lượng thánh vẫn rơi trong pháp trần,kiến giải của mình chưa quên bèn thành rỉ chảy". Khôngthể nói: trì trai giữ giới, ngồi mãi chẳng nằm, dừng ýquán không, kềm tâm vào định, là đã đúng. Thế ấy, vẫnkhông có gì giao thiệp. Vì ngoại đạo ở Ấn Độ nhập địnhđược tám muôn kiếp, lắng thần lặng lẽ, nhắm mắt chetròng, thân bặt trí dứt, sau khi số kiếp mãn vẫn không khỏiluân hồi. Bởi vì đạo nhãn chẳng sáng, nguồn gốc sanh tửkhông phá vậy.

Phàmlà kẻ xuất gia thì chẳng thế, không nên đồng với ngoạiđạo. Nếu là người chân thật minh đạt, đủ đại tri kiến,hay cùng chư Phật cùng tột, tịch chiếu quên biết, rỗngtrùm vạn tượng. Như hiện nay, chỗ nào chẳng phải là ông?chỗ nào chẳng rõ ràng? chỗ nào chẳng bày hiện? sao chẳngcùng nó hội đi? Nếu khi không có thửa ruộng này thì đâukhỏi các thứ rỉ chảy, thảy thành hư vọng, cái gì là chỗđắc lực lúc bình sanh?

Nếuông thật chưa phát minh, cần phải đặt trong thời gian cấpthiết, quên ăn bỏ ngủ, dường như cứu lửa cháy đầu,như thân mạng sắp chết, tâm thầm tự cứu, bỏ hết cácduyên rảnh rỗi, đuổi sạch tâm thức, mới có ít phần gầngũi. Nếu không như thế, một hôm nào đó trọn bị thứctình lôi đi, có được phần nào tự do?

*

Sưlo đại pháp khó dạy, ít gặp bậc thượng căn, học giảy lời sanh hiểu, theo chiếu mất tông, bèn dạy ba câu cươngtông:

Câuthứ nhất. "Hãy tự đảm nhận, hiện hành đầy đủ, tộtmười phương thế giới không có gì khác, chỉ là các ngươi,lại dạy cái gì thấy, cái gì nghe" Toàn là tâm vương củaông làm ra, trọn thành trí bất động. Chỉ thiết đảm nhận,nên mới khai cửa phương tiện, khiến các ngươi tin có mộtphần chân thường lưu trú. Cùng xưa tột nay chưa có chẳngthị (phải), chưa có chẳng phi (sai). Song câu này thành phápbình đẳng. Tại sao? Chỉ vì dùng lời để dẹp lời, lấylý để đuổi lý, bình thường tánh tướng, tiếp vật lợisanh mà thôi. Chính nơi tông chỉ vẫn còn sáng phía trướctối phía sau, gọi là một vị bình thật, là cái lượng chứngtừng phần pháp thân, chưa có câu xuất cách, chết tại câusau, chưa có phần tự do. Nếu biết cái lượng xuất cách,chẳng bị tâm ma sai khiến, vào trong tay liền chuyển đổilăn trùng trục dưới đất, nói là thông đại đạo, chẳngrơi vào kiến giải bình thường trong lòng.

Câuthứ hai.- Xoay nhân về quả, chẳng mắc nơi lý bình thườngnhất như. Phương tiện gọi là vị chuyển, hợp cơ sanh sát,tự tại buông thâu, tùy nghi vào sanh ra tử, rộng làm lợiích tất cả, ra khỏi sắc dục và cảnh ái kiến. Phươngtiện gọi là Phật tánh đốn siêu tam giới. Đây gọi làhai lý cùng sáng, hai nghĩa đồng chiếu, không bị hai bên làmđộng, diệu dụng hiện tiền.

Câuthứ ba.- Biết có cái gốc tánh tướng đại trí, kiến giảivượt bực, tối sáng rỗng suốt, thênh thang khắp sa giới,một thể tánh chân thật, đại dụng hiện trước, ứng hóakhôn ngằn, toàn dùng toàn chẳng dùng, toàn sanh toàn chẳngsanh. Phương tiện gọi là cái cửa từ định.

*

Sưcó kệ:

Vạn lý thần quang đảnh hậu tướng

Một đảnh chi thời hà xứ vọng

Sự dĩ thành ý diệc hưu

Thử cá lai tung xúc xứ chu

Trí giả liêu trước tiện đề thủ

Mạc đãi tu du thất khước đầu.

Dịch:

Thần quang muôn dặm tướng sau đảnh

Khi chìm mất đảnh chỗ nào trông

Việc đã thành, ý cũng thôi

Cái ấy lâu nay chạm đến khắp

Người trí nắm được liền đưa lên

Chớ đợi phút giây quên mất đầu.

*

Huyền Sa du cảnh biệt

Thời nhân thiệt tu trì

Tam đông dương khí thạnh

Lục ngoạt giáng sương thì.

Hữu ngữ phi quan thiệt

Vô ngôn thiết yếu từ

Hội ngã tối hậu cú

Xuất thế thiểu nhân tri.

Dịch:

Huyền Sa đường tắt riêng

Người đời cần nên biết

Ba đông khí dương thạnh

Tháng sáu sương xuống nhiều.

Có lời không hệ lưỡi

Không nói rất cần câu

Hiểu ta câu rốt sau

Ra đời ít người biết.

*

Sưứng cơ tiếp vật ngót ba mươi năm, chúng thường có mặttrong hội nghe không dưới tám trăm vị.

Đếnđời Lương niên hiệu Khai Bình năm thứ hai (908), ngày haimươi bảy tháng mười một năm Mậu Thìn, Sư có chút bệnhrồi tịch. Sư thọ bảy mươi bốn tuổi, được bốnmươi tuổi hạ.



8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com