HTThích Thanh Từ
TẬP 2
Sưhọ Vương người ở Ngọc Điền U Châu. Thuở bé, Sư đãxuất gia theo thầy học đạo. Năm hai mươi lăm tuổi, Sư thọgiới cụ túc tại chùa Diên Thọ ở Phạm Dương. Bổn sưbắt Sư học kinh luật Thanh văn (Tiểu thừa). Sư than: "Kẻđại trượng phu đâu thể chịu luật nghi còng trói ư?" Sưbèn đến núi Thúy Vi hỏi đạo và ở lại đây ba năm.
*
Mộthôm, có du Tăng từ Dự Chương đến khen ngợi pháp hội ởĐộng Sơn, Sư liền từ tạ, đến Động Sơn.
ĐộngSơn hỏi:- Từ đâu đến?
Sưthưa:- Từ Thúy Vi đến.
- ThúyVi có lời gì dạy đồ chúng?
- ThúyVi cúng dường La-hán, con hỏi: "cúng dường La-hán, La-háncó đến chăng", Thúy Vi hỏi con: "mỗi ngày ông ăn cái gì".
- Thậtcó lời này chăng?
- Có.
- Chẳnguổng tham kiến bậc tác gia (đạt đạo).
- Xà-lêtên gì?
- TênĐạo Ưng.
- Lạinói lên trên?
- Nóilên trên tức chẳng tên Đạo Ưng.
- Ngươiđáp tương tợ với ta lúc đến Vân Nham.
*
Sưhỏi:- Thế nào là ý Tổ sư?
ĐộngSơn đáp:
- Saunày Xà-lê có nơi chốn ở yên, chợt có người đến hỏinhư thế, phải đáp làm sao?
- ĐạoƯng tội lỗi.
*
ĐộngSơn hỏi:
- Tanghe Hòa thượng Tư Đại sanh làm vua nước Nhật là thậtgiả?
Sưthưa:
- Nếulà Tư Đại, Phật còn chẳng làm, huống là làm vua.
ĐộngSơn gật đầu.
Mộthôm, Động Sơn hỏi:- Từ đâu đến?
Sưthưa:- Đạp núi đến.
- Quảnúi nào nên ở?
- Cóquả núi nào chẳng nên ở.
- Thếấy là cả nước đều bị Xà-lê chiếm hết.
- Chẳngphải.
- Thếấy là ngươi đã được đường vào?
- Khôngđường.
- Nếukhông đường làm sao được cùng Lão tăng gặp nhau?
- Nếucó đường thì cùng Hòa thượng cách núi vậy.
- Kẻnày về sau ngàn muôn người nắm chẳng đứng.
*
Sưtheo Động Sơn lội qua suối. Động Sơn hỏi: "Nước cạnsâu?" Sư thưa: "Chẳng ướt." Động Sơn bảo: "Kẻ thô." Sưthưa: "Thỉnh Thầy nói." Động Sơn nói: "Chẳng khô."
*
Sưlàm tương, Động Sơn hỏi: "Làm gì?" Sư thưa: "Làm tương."Động Sơn hỏi: "Dùng muối nhiều ít?" Sư thưa: "Xoay vào."Động Sơn hỏi: "Làm thành vị gì?" Sư thưa: "Đắc."
*
ĐộngSơn hỏi Sư:
- Ngườiđại xiển-đề giết cha hại mẹ, làm thân Phật chảy máu,phá hòa hợp Tăng, các việc như thế hiếu dưỡng đâu còn?
Sưthưa:- Mới được hiếu dưỡng.
Từđây Động Sơn giao Sư làm lãnh tụ trong chúng.
*
Sưcất thảo am nơi Tam Phong, trải qua tuần nhật không xuốngtrai đường. Động Sơn thấy lạ hỏi:
- Mấyngày nay sao ngươi không đến thọ trai?
Sưthưa:- Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.
ĐộngSơn bảo:
- Tabảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh chiềulại.
Chiều,Sư đến. Động Sơn gọi:- Ưng am chủ!
Sưứng thanh: Dạ!
ĐộngSơn bảo:- Chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác là cái gì?
Sưtrở về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy,trải ba ngày như thế mới thôi cúng dường.
*
Sưđến trụ ở núi Vân Cư, tứ chúng đua nhau tìm đến, pháphội nơi đây rất thạnh hành.
Sưdạy chúng:
- Phậtpháp đâu có nhiều việc, hành được là phải. Chỉ biếttâm là Phật, chớ cho Phật chẳng biết nói. Muốn đượcviệc như thế phải là người như thế. Nếu là người nhưthế thì còn lo cái gì? Nếu nói việc như thế là khó, thìcác bậc tiên đức từ xưa thuần phác chân thật, vốn khôngkhôn khéo. Giả sử có người đến hỏi "thế nào là đạo",hoặc khi các ngài đáp "ngói gạch gốc cây làm gì" đều chútrọng việc căn bản ở dưới gót chân lâu nay đã sẵn có.Nếu thật hữu lực, là người bất tư nghì, nắm đất biếnthành vàng. Nếu không có việc như thế, dù ông nói đượcnhư hoa như gấm, nói ta phóng quang động địa thế gian khôngai hơn, nói tột hết, mà mọi người vẫn không tin nhận.Bởi lâu nay việc dưới chân nhà mình vẫn rỗng không, chẳngcó một chút khí lực.
Cácông! Ví như con chó săn chỉ biết đuổi theo dấu chân thôi.Nếu khi gặp con linh dương mọc sừng thì chẳng những khôngthấy dấu chân, mà hơi hám cũng không biết.
Tănghỏi:- Con linh dương khi mọc sừng thì sao?
Sưđáp:- Sáu lần sáu là ba mươi sáu. Hội chăng?
Tăngthưa:- Chẳng hội.
Sưbảo:- Chẳng thấy nói "không dấu chân" sao?
*
Cómột vị Tăng ở trong phòng tụng kinh. Sư ở ngoài cửa hỏi:Xà-lê tụng đó là kinh gì? Tăng thưa: Kinh Duy-ma. Sư bảo:Chẳng hỏi kinh Duy-ma người tụng là kinh gì? Vị Tăng nàynhân đó được ngộ.
*
Cóvị quan liêu đến cúng dường, hỏi: Thế Tôn có mật ngữ,Ca-diếp chẳng phú tàng, thế nào là Thế Tôn mật ngữ? Sưgọi: Thượng thơ! Vị quan ấy: dạ! Sư hỏi: Hội chăng? Vịquan thưa: Chẳng hội. Sư bảo: Ông nếu chẳng hội thì ThếTôn có mật ngữ. Nếu ông hội thì Ca-diếp chẳng phú tàng.
*
Sưdạy chúng:
- Cácông dù học được việc bên Phật, vẫn là dụng tâm sai lầmrồi. Các ông đâu không thấy cổ nhân giảng được chư thiênrải hoa cúng dường, đá gật đầu, còn chẳng can hệ việcchính mình, ngoài ra còn có nghĩa gì? Như hiện nay toan đemthân tâm hữu hạn nhằm trong vô hạn mà dùng thì có giao thiệpgì? Như đem khúc cây vuông tra vào lỗ tròn thì sự sai ngoanhiều ít? Nếu không hợp việc ấy, dù ông nói tươi nhưhoa đẹp như gấm vẫn là vô dụng, vì chưa rời tình thứcvậy. Nếu tất cả việc đều hướng trong ấy đến sạchhết mới được không lỗi, mới được xuất thân. Nếu mộtsợi lông một mảy tóc đẹp chẳng hết liền bị trần lụy,huống là quá nhiều, sai chừng hào ly phạm lỗi bằng quảnúi. Cổ nhân nói: Chỗ học chẳng sạch hết, ấy là kẻthế gian; việc trong khuê các bỏ chẳng đặng, đều là rỉchảy. Phải nhắm trong ấy nhận lấy, trong mọi hành độngđều dẹp sạch tất cả việc, mới được không lỗi. Nhưngười sự sự đều liễu, vật vật đều thông, chỉ gọilà người liễu sự, chẳng gọi là tôn quí. Nên biết tônquí tự có đường riêng, là vật thế gian rất trọng rấtquý. Chẳng được sau này hướng bên tôn quí. Nên biết khôngthể nghĩ bàn, chẳng xứng tâm mong muốn. Do đó cổ nhân nói: "Ví như hai gương sáng, ánh sáng đối nhau, ánh sáng soi nhau,không thiếu không dư." Đâu chẳng phải là một loại, vậymà vẫn còn gọi việc bên ảnh tượng. Như khi mặt trờimọc lên, ánh sáng soi khắp thế gian là một nửa, một nửanày gọi là gì? Như hiện nay người chưa nhận được việcthô thiển bóng sáng ở ngoài cửa, mà muốn làm việc trongnhà thì làm sao làm được?
*
Sưdạy:
- Ngườiđược chẳng nhẹ nhỏ, người sáng chẳng dùng hèn, ngườibiết không than thở, người hiểu không chán xấu. Từ trờirơi xuống là bần cùng, từ đất vọt lên là phú quí, trongcửa ra thân là dễ, trong thân ra cửa là khó. Động thì chônthân ngàn thước, chẳng động thì liền đó mọc mầm. Mộtcâu nói siêu thoát cứu được người đương thời. Nói bànchă?g cần nhiều, nói nhiều ắt là vô dụng.
Tănghỏi:- Thế nào từ trời rơi xuống là bần cùng?
Sưđáp:- Chẳng quí mà được.
- Thếnào từ đất vọt lên là phú quí?
- Trongkhông mà được có.
*
Sưdạy:
- Liễukhông thật có, được thì không chỗ mong, nói không lẽ phải,hành không chỗ nương, tâm không chỗ gá, đến tột mới đượckhông lỗi. Ở chỗ đông như không người, ở chỗ không ngườinhư đông, nơi thân như không thân, ở thế như không thế,đâu chẳng phải đức vô nhiễu, vượt hơn muôn loài, thoátkhỏi tất cả trói buộc. Ngàn người muôn người được,còn nói chẳng bằng mình. Như hiện nay được cọng khởimột loại bạn đầu, cổ nhân nói: "thể hội được việcbên nây, lại sang giẵm đạp bên kia". Bên nây có việc gì?Bên kia lại giẫm đạp gì? Sở dĩ nói có cũng chớ đem đến,nói không cũng chớ đem đi, hiện tại đây là việc nhà ai?
*
Sưdạy:
- Muốnthể hội việc này phải như người thở ra không hít vào,mới cùng người này tương ưng. Nếu thể hội được ý ngườiấy mới cho ít phần nói bàn, mới có ít phần hành lý. Tạmthời chẳng hiện như đồng người chết, huống là như naybàn năm luận tháng? Như người thường hiện thì lo gì việcnhà chẳng xong, muốn biết việc lâu xa chỉ như việc hiệnnay, hiện nay nếu được lâu xa cũng được. Như người ởviễn phương về nhà, đi đến là phải, phải thì tất cảđều phải, chẳng phải thì tất cả đều chẳng phải. Cầnđược lửa sáng trên đầu phát, cũng chẳng phải hay làmtất cả, tất cả chẳng làm. Nên nói: trọn ngày tham việctrước mặt, quên mất việc sau lưng. Nếu thấy việc sau lưng,quên mất việc trước mặt. Như người chẳng trước sau thìcó việc gì?
*
Sưdạy:
- Nhưxem vật trong lòng bàn tay, quyết định quyết định, mớicó thể tùy duyên. Nếu một như thế thì ngàn muôn cũng vậy,trong ngàn muôn khó làm một hai, một hai không thể được.Đâu chẳng nghe nói: Người hiển chiếu là dễ được, ngườihiển chiếu rồi thì khó được, chẳng nói hoàn toàn không,mới là hi hữu. Nếu không được như thế chẳng cho gắnglàm, gắng làm tức sanh não, sanh não tức lui sụt đạo, luisụt đạo thì tột đến trên thân, là thấy chẳng được,nói gì là đại thoại.
Cácông xuất gia như kẻ tội ra khỏi khám đường, nên ít muốnbiết đủ, chớ tham danh lợi ở đời, nhịn đói nhịn khátchí cầu vô vi, được ở trong Phật pháp mười phần sốngchín phần chết, chớ trái với Phật pháp nhổ đinh cắt sắt,chớ mang nhiều việc Như Lai, nên phải ít. Mỗi người tựliễu lấy, có việc thì lại gần đây, không việc hãy luiđi.
*
Sưtrụ trì ba mươi năm tại Vân Cư đạo truyền khắp thiênhạ. Chúng hiện có mặt đến một ngàn năm trăm vị. Nam Xươngvương tôn Sư làm thầy, nguyện kính làm thầy đời đời.
ĐờiĐường niên hiệu Thiên Phục năm đầu (902) mùa Thu, Sư cóchút ít bệnh, đến ngày hai mươi tám tháng chạp, vì chúngnói pháp lần chót. Sau đó, Sư từ biệt chúng, chúng đềuthương mến. Lưu lại đến ngày mùng ba tháng giêng năm sau,Sư hỏi thị giả: Hôm nay ngày mấy? Thị giả thưa: mùngba. Sư bảo: ba mươi năm sau, chỉ nói là cái ấy. Sư ngồingay thẳng từ chúng tịch.