Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

13. Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn - Tổ thứ hai Tào Động

03/09/201113:53(Xem: 10515)
13. Thiền sư Bổn Tịch ở Tào Sơn - Tổ thứ hai Tào Động

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨSÁU SAU LỤC TỔ


13.TÀO SƠN BỔN TỊCH THIỀN SƯ
Tổthứ hai Tông Tào Động - (840-901)

Sưhọ Huỳnh hiệu Bổn Tịch, quê ở Bồ Điền Tuyền Châu (naylà tỉnh Phước Kiến huyện Bồ Điền). Lúc nhỏ, Sư chuyênhọc Nho. Năm mười chín tuổi, Sư lên núi Linh Thạch ở huyệnPhước Đường xuất gia, đến hai mươi lăm tuổi thọ giớicụ túc. Khoảng niên hiệu Hàm Thông (860-874), Sư đi tham vấnThiền tông. Trước, Sư đến Động Sơn (nay là tỉnh GiangTây huyện Cao An) tham vấn Thiền sư Lương Giới.

*

ĐộngSơn hỏi: "Xà-lê tên gì?" Sư thưa: "Bổn Tịch." Động Sơnbảo: "Lại nói lên trên" Sư thưa: -Chẳng nói. Động Sơnhỏi:-Vì sao chẳng nói? Sư thưa:-Chẳng tên Bổn Tịch. ĐộngSơn gật đầu. Từ đây, Sư vào nhập chúng.

*

Sưtheo hầu Động Sơn mấy năm. Một hôm, Sư đến từ tạ đinơi khác. Động Sơn mật truyền Tông chỉ, lại hỏi: -Ngươiđi đến chỗ nào? Sư thưa: -Đến chỗ không biến dị. ĐộngSơn bảo: -Chỗ không biến dị lại có đến sao? Sư thưa:-Đến cũng chẳng biến dị.

*

Sưđi đến Tào Khê lễ tháp Tổ, trở về Cát Thủy. Chúng nghedanh Sư tìm đến thỉnh khai pháp. Vì ngưỡng mộ Lục Tổ,Sư đặt tên núi là Tào Sơn. Thời gian sau bị giặc loạn,Sư dời về huyện Nghi Huỳnh. Có người cư sĩ cúng sở nhàHà Vương cho Sư trụ trì. Sư đổi tên Hà Vương ra Hà Ngọc.Nơi đây giáo hóa hưng thạnh, học giả các nơi đua nhau kéođến, Tông chỉ Động Sơn được rực rỡ.

*

Sưdạy chúng:

- Tìnhphàm kiến Thánh là khóa kín đường huyền, hẳn phải hồihỗ.

Ngườilấy chánh mạng thật phải đủ ba thứ đọa: Một là phimao đới giác. Hai là bất đoạn thanh sắc. Ba là bất thọthực.

Khiấy, Trù Bố Nạp hỏi:- Phi mao đới gác là cái gì đọa?

Sưđáp:- Là loại đọa (bản xưa chép Sa-môn đọa).

- Bấtđoạn thanh sắc là cái gì đọa?

- Làtùy đọa (tùy loại đọa).

- Bấtthọ thực là cái gì đọa?

- Làtôn quí đọa.

*

NhânTăng hỏi Ngũ vị quân thần chỉ quyết, Sư giải thích:

- Chánhvị là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giớicó hình vạn tượng. Chánh trung thiên là trái lý theo sự.Thiên trung chánh là bỏ sự vào lý. Kiêm đới là thầm ứngchánh duyên chẳng rơi vào các hữu, chẳng nhiễm chẳng tịnh,chẳng chánh chẳng thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyềnkhông mắc chân tông, Tiên đức từ trước suy xét một vịnày rất diệu rất huyền, phải xét kỹ biện rõ.

Quânlà chánh vị, Thần là thiên vị. Thần hướng quân là Thiêntrung chánh. Quân thị thần là Chánh trung thiên. Quân thầnđạo hiệp là Kiêm đới.

Tănghỏi:- Thế nào là quân?

Sưđáp:

- Đứcdiệu trên hoàn vũ, cao sáng khắp bầu trời (diệu đức tônhoàn vũ, cao minh lãng thái hư).

- Thếnào là thần?

- Máylinh hoằng đạo thánh, trí chân lợi quần sanh (linh cơ hoằngthánh đạo, chân trí lợi quần sanh).

- Thếnào là thần hướng quân?

- Khôngrơi những đường khác, lắng tình nhìn mặt vua (bất đọachư dị thú, ngưng tình vọng thánh dung).

- Thếnào là quân thị thần?

- Dángđiệu tuy chẳng động, đuốc sáng vẫn không thiên (diệudung tuy bất động, quang chúc bản vô thiên).

- Thếnào là quân thần đạo hiệp?

- Hồnnhiên không trong ngoài, dung hòa trên dưới yên (hồn nhiênvô nội ngoại, hòa dung thượng hạ bình).

Sưlại bảo:

- Lấyquân thần thiên chánh mà nói, chẳng cho phạm ở giữa. Chonên thần khen vua, không dám có lời chê bai ấy vậy. Đâylà Tông yếu pháp của ta. Kệ rằng:

Học giả tiên tu thức tự tông

Mạc tương chân tế tạp ngoan không

Diệu minh thể tận tri thương xúc

Lực tại phùng duyên bất tá trung.

Xuất ngữ trực giao thiêu bất trước

Tiềm hành tu dữ cổ nhân đồng

Vô thân hữu sự siêu kì lộ

Vô sự vô thân lạc thủy chung.

Dịch:

Học giả trước cần hiểu tự tông

Chớ đem chân tế lẫn ngoan không.

Tột thể diệu minh biết xúc chạm

Sức tại phùng duyên chẳng mượn trung.

Thốt lời cần phải thiêu chẳng đến

Thầm đi nên với cổ nhân đồng.

Không thân có việc siêu đường tẻ

Không việc không thân lạc thủy chung.

VânMôn hỏi:- Thế nào là hạnh Sa-môn?

Sưđáp:- Ăn lúa mạ của thường trụ ấy vậy.

- Liềnkhi ấy đi thì sao?

- Ngươilại chứa được chăng?

- Chứađược.

- Ngươilàm sao chứa?

- Mặcy ăn cơm có cái gì khó.

- Saochẳng nói mang lông đội sừng?

VânMôn lễ bái.

*

Sưbảo chúng:

- Cácông trọn giữ cách thức, sao chẳng cùng y nói một chuyểnngữ, khiến y chẳng nghi đi?

VânMôn ở trong chúng bước ra hỏi:

- Chỗmật mật (thầm kín) vì sao chẳng biết có?

Sưđáp:- Chỉ vì mật mật nên chẳng biết có.

- Ngườinày làm sao thân cận?

- Chớnhằm chỗ mật mật thân cận.

- Khichẳng nhằm chỗ mật mật thì sao?

- Mớigiỏi thân cận.

VânMôn: dạ! dạ!

*

TăngNhuệ thưa:- Con nghèo cùng xin Thầy cứu giúp.

Sưbảo:- Xà-lê Nhuệ lại gần đây!

ThanhNhuệ lại gần.

Sưbảo:

- Kẻnhà nghèo ở Tuyền Châu uống xong ba chén rượu, vẫn nóichưa dính môi.

*

ChỉY đạo giả đến tham vấn, Sư hỏi:

- Đâuchẳng phải Chỉ Y đạo giả ư?

Đạogiả thưa:- Chả dám.

- Thếnào là việc của Chỉ Y?

- Chiếcáo cừu vừa khoác vào thân, muôn pháp thảy đều như.

- Thếnào là dụng của Chỉ Y?

Đạogiả lại gần: dạ! liền đứng tịch.

Sưbảo:- Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng giỏi đếnthế ấy?

Đạogiả chợt mở mắt hỏi:

- Mộtchân tánh linh khi chẳng nương bào thai thì thế nào?

Sưbảo:- Chưa phải diệu.

- Thếnào là diệu?

- Chẳngmượn! mượn!

Đạogiả trân trọng liền tịch.

Sưdạy bài tụng:

Giác tánh viên minh vô tướng thân

Mạc tương tri kiến vọng sơ thân.

Niệm dị tiện ư huyền thể muội

Tâm sai bất dữ đạo vi lân.

Tình phân vạn pháp trầm tiền cảnh

Thức giám đa đoan tán bản chân.

Như thị cú trung toàn hiểu hội

Liễu nhiên vô sự tích thời nhân.

Dịch:

Tánh giác viên minh không tướng thân

Chớ đem thấy biết dối xa gần.

Niệm khác bèn lầm huyền thể ấy

Tâm sai sao được đạo chung thân.

Tình phân muôn pháp chìm cảnh trước

Thức biện lăng xăng mất bản chân.

Trong câu như thế toàn lãnh hội

Rõ ràng vô sự tích thời nhân.

*

Tănghỏi:- Sa-môn đâu không phải là người đủ lòng đại từbi?

Sưđáp:- Phải.

- Chợtgặp lục tặc đến phải làm thế nào?

- Cũngphải đủ đại từ bi.

- Thếnào là đủ đại từ bi?

- Dùngmột cây kiếm dẹp sạch.

- Saukhi dẹp sạch thế nào?

- Mớiđược hòa đồng.

*

Tănghỏi:- Mày với mắt cùng biết nhau chăng?

Sưđáp:- Chẳng biết nhau.

- Vìsao chẳng biết nhau?

- Vìđồng tại một chỗ.

- Thếấy là chẳng phân?

- Màychẳng phải là mắt, mắt chẳng phải là mày.

- Thếnào là mắt?

- Quảnhiên rồi.

- Thếnào là mày?

- TàoSơn lại nghi.

- Tạisao Hòa thượng lại nghi?

- Nếuchẳng nghi tức quả nhiên rồi.

*

Tănghỏi:- Thế nào là kiếm không mũi?

Sưđáp:- Chẳng do rèn luyện mà thành.

- Dụngnó thế nào?

- Ngườigặp đều chết.

- Ngườichẳng gặp thì sao?

- Cũngphải rơi đầu.

- Ngườigặp đều chết là cố nhiên, người chẳng gặp vì sao lạirơi đầu?

- Ôngchẳng thấy nói ?hay sạch tất cả? sao?

- Saukhi sạch hết thế nào?

- Mớibiết có cây kiếm này.

*

Tănghỏi:- Huyễn vốn nào chân?

Sưđáp:- Huyễn vốn nguyên chân.

- Chínhkhi huyễn làm sao hiển bày?

- Tứchuyễn liền hiển.

- Thếấy thì trước sau chẳng lìa nơi huyễn?

- Tìmhuyễn tướng không thể được.

*

Sưhỏi vị Tăng: -Làm gì? Tăng thưa:-Quét đất. Sư hỏi:-TrướcPhật quét hay sau Phật quét? Tăng thưa: -Trước sau đồng thờiquét. Sư bảo: -Đem đôi giày qua cho Tào Sơn.

*

Tănghỏi Hương Nghiêm: -Thế nào là đạo? Hương Nghiêm đáp: -Khômộc lý long ngâm.(trong cây khô có rồng ngâm) Tăng hỏi: -Thếnào người trong đạo? Hương Nghiêm đáp: -Độc lâu lý nhãntình (trong đầu lâu có tròng con mắt) Tăng không lãnh hội,đến hỏi Thạch Sương: "Thế nào là khô mộc lý long ngâm?"Thạch Sương đáp: -Vẫn còn đeo cái hỉ. Tăng hỏi:-Thếnào độc lâu lý nhãn tình? Thạch Sương đáp: -Vẫn còn đeothức.Tăng không lãnh hội đến trình với Sư. Sư bảo:

- ThạchSương ông già Thanh văn khởi cái kiến giải.

Sưlàm bài tụng:

Khô mộc long ngâm chân kiến đạo

Độc lâu vô thức nhãn sơ minh.

Hỉ thức tận thời tiêu tức tận

Đương nhân na biện trọc trung thanh.

Dịch:

Cây khô rồng ngâm thật thấy đạo

Đầu lâu không thức mắt rạng ngời.

Hỉ thức hết thời tin tức lặng

Người này đâu biện đục trong trong.

Tănglại hỏi Sư:- Thế nào khô mộc lý long ngâm?

Sưđáp:- Huyết mạch chẳng đoạn.

- Thếnào độc lâu lý nhãn tình?

- Khôchẳng hết.

- Lạicó người được nghe chăng?

- Trọnngười trên đại địa chưa có một người chẳng nghe.

- Khômộc lý long ngâm là chương cú gì?

- Chẳngbiết chương cú gì, nguời nghe đều mất.

*

Sưdạy chúng:

- ChưTăng ở đây cốt dưới y áo hội thông được việc hướngthượng, chớ có rảnh rang qua ngày. Nếu chỗ thừa đươngđã rõ ràng, liền chuyển được chư thánh về sau lưng mình,mới là tự do. Nếu chuyển chẳng đặng, hẳn phải học đượcthập thành, lại cần đến sau lưng các ngài khoanh tay nóiđại thoại gì? Nếu chuyển được chính mình thì tất cảcảnh thô trọng đến đều làm chủ được. Ví như đi trongchỗ lầy trợt té cũng làm chủ được. Như có vị Tăng hỏingài Dược Sơn: "Trong giáo lý tam thừa lại có Tổ ý chăng?"Dược Sơn đáp: "Có." Tăng thưa: "Đã có, Tổ Đạt-ma lạiđến làm gì?" Dược Sơn bảo: "Chỉ vì có cho nên đến."Thế là đâu không phải làm chủ được chuyển được vềnơi mình sao?

Kinhnói: "Phật Đại Thông Trí Thắng, mười kiếp ngồi đạotràng, Phật pháp chẳng hiện trước, chẳng đặng thành Phậtđạo." Nói kiếp là đới (kẹt) vậy, gọi đó là thập thành,cũng gọi là đoạn sấm lậu (rỉ chảy). Chỉ là đầu mườiđường đã bặt, chẳng quên đại quả, nên nói thủ trụđam trước, gọi là thủ thứ thừa đương không phân quítiện.

Tathường thấy trong tùng lâm thích bàn một thứ hai thứ, lạihay thành lập được sự chăng? Những cái ấy chỉ nhằm việcđã qua hiển bày. Các ông chẳng thấy ngài Nam Tuyền nói: "Cho ông thập thành, so với Vương lão sư vẫn còn một đườngtuyến." Rất khó! việc đến đây cần phải chín chắn mớiđược minh bạch tự tại. Bất luận thiên đường địa ngụcngạ quỉ súc sanh, chỉ là tất cả chỗ chẳng dời đổi,nguyên là người thuở xưa, cốt yếu chẳng đi con đườngxưa. Nếu có tâm vui mừng thành đới trước nếu thoát đượcgiản trạch là sao? Cổ đức nói: "Chỉ e chẳng được luânhồi."

Cácông nói phải làm sao? Như người hiện nay nói có chỗ tịnhkhiết, thích hướng về việc ấy. Đây là bệnh thật khótrị. Nếu việc thô trọng ở thế gian lại là nhẹ, bệnhtịnh khiết thật là nặng. Như pháp vị Phật, pháp vị Tổtrọn là đới trước. Tiên sư nói: "Tâm nghĩ là phạm giới,nếu được Pháp vị là phá trai." Hãy bảo thế nào là đượcvị? Chỉ là pháp vị Phật, pháp vị Tổ, vừa có tâm vuimừng là phạm giới. Như hiện nay nói phá trai phá giới làkhi làm phép ba phen yết-ma, ấy sớm đã phá rồi. Nếu làbệnh tham sân si thô trọng, tuy khó dứt mà lại nhẹ, cònbệnh vô vi vô sự tịnh khiết lại nặng không có gì thêmđược. Tổ sư ra đời cũng chỉ vì cái ấy, chẳng riêngvì các ông. Hiện nay làm kẻ rảnh rang qua ngày, làm con chồn,con trâu tu hành lại thích, chẳng phải có thiền có đạo.Như các ông mỗi thứ tìm kiếm, tìm Phật tìm Tổ, cho đếnBồ-đề Niết-bàn, đến bao giờ thôi dứt xong xuôi ư? Đềulà tâm sanh diệt. Do đó chẳng giống như con chồn, con trâungơ ngơ không biết, chẳng biết Phật, chẳng biết Tổ, chođến Bồ-đề Niết-bàn và nhân quả thiện ác. Chỉ đóiđến là ăn cỏ, khát đến thì uống nước. Nếu được thếấy, chẳng lo chẳng xong xuôi. Đâu chẳng nghe nói: "Tính toánchẳng thành ấy là biết có (Tâm), mới hay mang lông độisừng kéo cày mang bừa." Được cái tiện nghi này, mới làđạm bạc. Đâu chẳng thấy đức Di-lặc, A-súc và nhữngthế giới Diệu Hỉ v.v? vẫn bị thượng nhân kia (Duy-ma-cật)gọi là Bồ-tát giải đãi không hổ thẹn. Cũng nói là biếndịch sanh tử, vẫn e còn phần nhỏ giải đãi.

Nơiviệc bổn phận phải nên làm sao? Cần phải chín chắn mớiđược. Mỗi người đều có một chỗ để ngồi, dù Phậtra đời xâm phạm chỗ ấy cũng không được. Thể hội cáiấy tu hành chẳng là thích thú lắm ư! Muốn biết việc này,chính nó khiến ta thành Phật thành Tổ, cũng chính nó khiếnta rơi trong tam đồ lục đạo. Tuy nhiên như thế, vẫn khôngcó chỗ dụng, mà lìa y cũng chẳng được, cốt cùng y làmchủ tể mới được. Nếu làm chủ tể được tức là khôngcòn biến dịch. Nếu làm chủ tể không được tức là biếndịch. Ngài Vĩnh Gia nói: "Phóng đãng lăng xăng chuốc họaương."

Tănghỏi:- Thế nào là phóng đãng lăng xăng chuốc họa ương?

Sưđáp:- Chỉ là cái ấy.

- Làmsao khỏi được?

- Biếtcó (Tâm) liền được, dùng khỏi làm gì? chỉ là Bồ-đềNiết-bàn phiền não vô minh v.v? thảy đều chẳng cần khỏi,cho đến việc thô trọng ở thế gian cũng thế. Miễnbiết có (Tâm) là được chẳng cần khỏi, khỏi tức đồngbiến dịch rồi. Cho đến thành Phật thành Tổ, Bồ-đề Niết-bàn,những cái ấy đều họa ương chẳng nhỏ. Tại sao như vậy?Bởi vì biến dịch. Nếu không biến dịch, cần phải chạmviệc tự do mới được.

NamChâu Soái Nam bình Chung Vương nghe danh Sư cho sứ đi thỉnh.Sư chẳng đến, chỉ biên bài tụng của Đại Mai để đáp:

Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm

Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm

Tiều khách ngộ chi du bất cố

Dĩnh nhân na đắc khổ truy tầm.

Dịch:

Cây khô gãy mục tựa rừng xanh

Mấy độ xuân về tâm chẳng sanh

Lão tiều trông thấy nào đoái nghĩ

Dĩnh khách thôi thì chớ hỏi phanh.

*

Sưdạy chúng kệ rằng:

Tùng duyên tiến đắc tương ưng tật

Tựu thể tiêu đình đắc lực trì

Miết khởi bản lai vô xứ sở

Ngô sư tạm thuyết bất tư nghì.

Dịch:

Từ duyên tiến được tương ưng nhanh

Đến thể lặng dừng đắc lực chậm

Chợt khởi từ xưa không chỗ nơi

Thầy ta tạm nói không nghĩ nghị.

*

Sưthượng đường, có vị Tăng bước ra hỏi:

"Thếnào là người đại xiển-đề?" Sư đáp: "Chẳng sợ nghiệp."Tăng hỏi: "Thế nào là người vô minh?" Sư đáp: "Trước sauchẳng giác ngộ." Tăng hỏi: "Hai người này ai ở trước?"Sư đáp: "Người vô minh." Tăng hỏi: "Người xiển-đề vìsao ở sau?" Sư đáp: "Người hướng đi." Tăng thưa: "Thế ấythì người vô minh chẳng từ ngày nay đi." Sư đáp: "Phải."Tăng thưa: "Đã chẳng từ ngày nay đi, vô minh từ chỗ nàođến?" Sư đáp: "Chỗ sáng chẳng dám vào." Tăng thưa: "Đâuchẳng phải chẳng minh chẳng ám." Sư bảo: "Phải." Tăng thưa: "Chính khi ấy thế nào" Sư bảo: "Chẳng cho chạm." Sư lạibảo:

- Xiển-đềcó nhiều thứ: 1- Giết cha giết mẹ, làm thân Phật ra máu,phá hòa hợp Tăng, hủy hoại già-lam, đây quyết định thậtbáo chịu các thứ khổ. 2- Cũng làm như trước, nhưng mà giếtcha vô minh mẹ tham ái, chẳng tin có Phật Pháp Tăng có thểphá, có già-lam có thể hoại, cho là nghiệp từ tâm mà thành,nên đọa cũng chịu các thứ quả hư vọng. Hai loại này lênxuống chẳng đồng. 3- Biết chính mình có việc bản lai, gọilà cha mẹ, chẳng nhân bên ngoài mà được, không tu khôngchứng, phi nhân phi quả, chẳng do thấy được, chẳng từchứng mà thành. Chỗ được, chẳng khởi chấp cha, gọi làgiết, chẳng khởi chấp mẹ, gọi là hại, tức là tất cảviệc bổn phận chẳng giữ chẳng còn, nên gọi là giết hại.Vừa có mảy may kính trọng, được ý vị thì chẳng thành,chỉ biết có việc chính mình, nên gọi là đại xiển-đề.Do đây dấy lên diệu lực tức là thể hội tông thừa từtrước, thừa kế việc nhà, cần cắt đường huyền, phácác cong vạy, như Lão nhân Tân Phong khéo chỉ.

*

ĐờiĐường niên hiệu Thiên Phục (901) mùa hạ năm Tân Sửu banđêm, Sư hỏi Tri sự:

- Hômnay là ngày mấy tháng mấy?

Trisự thưa:- Ngày rằm tháng sáu.

Sưbảo:

- TàoSơn bình sanh đi hành khước đến nơi chỉ biết chín mươingày là một hạ, sáng mai giờ thìn ta đi hành khước.

Hômsau, đúng giờ thìn thắp hương, Sư ngồi yên lặng mà hóa,thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bảy tuổi hạ. Vua ban thụylà Nguyên Chứng Thiền sư, tháp hiệu Phước Viên.

8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com