HTThích Thanh Từ
TẬP 2
Tổthứ hai Tông Tào Động - (840-901)
Sưhọ Huỳnh hiệu Bổn Tịch, quê ở Bồ Điền Tuyền Châu (naylà tỉnh Phước Kiến huyện Bồ Điền). Lúc nhỏ, Sư chuyênhọc Nho. Năm mười chín tuổi, Sư lên núi Linh Thạch ở huyệnPhước Đường xuất gia, đến hai mươi lăm tuổi thọ giớicụ túc. Khoảng niên hiệu Hàm Thông (860-874), Sư đi tham vấnThiền tông. Trước, Sư đến Động Sơn (nay là tỉnh GiangTây huyện Cao An) tham vấn Thiền sư Lương Giới.
*
ĐộngSơn hỏi: "Xà-lê tên gì?" Sư thưa: "Bổn Tịch." Động Sơnbảo: "Lại nói lên trên" Sư thưa: -Chẳng nói. Động Sơnhỏi:-Vì sao chẳng nói? Sư thưa:-Chẳng tên Bổn Tịch. ĐộngSơn gật đầu. Từ đây, Sư vào nhập chúng.
*
Sưtheo hầu Động Sơn mấy năm. Một hôm, Sư đến từ tạ đinơi khác. Động Sơn mật truyền Tông chỉ, lại hỏi: -Ngươiđi đến chỗ nào? Sư thưa: -Đến chỗ không biến dị. ĐộngSơn bảo: -Chỗ không biến dị lại có đến sao? Sư thưa:-Đến cũng chẳng biến dị.
*
Sưđi đến Tào Khê lễ tháp Tổ, trở về Cát Thủy. Chúng nghedanh Sư tìm đến thỉnh khai pháp. Vì ngưỡng mộ Lục Tổ,Sư đặt tên núi là Tào Sơn. Thời gian sau bị giặc loạn,Sư dời về huyện Nghi Huỳnh. Có người cư sĩ cúng sở nhàHà Vương cho Sư trụ trì. Sư đổi tên Hà Vương ra Hà Ngọc.Nơi đây giáo hóa hưng thạnh, học giả các nơi đua nhau kéođến, Tông chỉ Động Sơn được rực rỡ.
*
Sưdạy chúng:
- Tìnhphàm kiến Thánh là khóa kín đường huyền, hẳn phải hồihỗ.
Ngườilấy chánh mạng thật phải đủ ba thứ đọa: Một là phimao đới giác. Hai là bất đoạn thanh sắc. Ba là bất thọthực.
Khiấy, Trù Bố Nạp hỏi:- Phi mao đới gác là cái gì đọa?
Sưđáp:- Là loại đọa (bản xưa chép Sa-môn đọa).
- Bấtđoạn thanh sắc là cái gì đọa?
- Làtùy đọa (tùy loại đọa).
- Bấtthọ thực là cái gì đọa?
- Làtôn quí đọa.
*
NhânTăng hỏi Ngũ vị quân thần chỉ quyết, Sư giải thích:
- Chánhvị là không giới xưa nay không vật. Thiên vị là sắc giớicó hình vạn tượng. Chánh trung thiên là trái lý theo sự.Thiên trung chánh là bỏ sự vào lý. Kiêm đới là thầm ứngchánh duyên chẳng rơi vào các hữu, chẳng nhiễm chẳng tịnh,chẳng chánh chẳng thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyềnkhông mắc chân tông, Tiên đức từ trước suy xét một vịnày rất diệu rất huyền, phải xét kỹ biện rõ.
Quânlà chánh vị, Thần là thiên vị. Thần hướng quân là Thiêntrung chánh. Quân thị thần là Chánh trung thiên. Quân thầnđạo hiệp là Kiêm đới.
Tănghỏi:- Thế nào là quân?
Sưđáp:
- Đứcdiệu trên hoàn vũ, cao sáng khắp bầu trời (diệu đức tônhoàn vũ, cao minh lãng thái hư).
- Thếnào là thần?
- Máylinh hoằng đạo thánh, trí chân lợi quần sanh (linh cơ hoằngthánh đạo, chân trí lợi quần sanh).
- Thếnào là thần hướng quân?
- Khôngrơi những đường khác, lắng tình nhìn mặt vua (bất đọachư dị thú, ngưng tình vọng thánh dung).
- Thếnào là quân thị thần?
- Dángđiệu tuy chẳng động, đuốc sáng vẫn không thiên (diệudung tuy bất động, quang chúc bản vô thiên).
- Thếnào là quân thần đạo hiệp?
- Hồnnhiên không trong ngoài, dung hòa trên dưới yên (hồn nhiênvô nội ngoại, hòa dung thượng hạ bình).
Sưlại bảo:
- Lấyquân thần thiên chánh mà nói, chẳng cho phạm ở giữa. Chonên thần khen vua, không dám có lời chê bai ấy vậy. Đâylà Tông yếu pháp của ta. Kệ rằng:
Học giả tiên tu thức tự tông
Mạc tương chân tế tạp ngoan không
Diệu minh thể tận tri thương xúc
Lực tại phùng duyên bất tá trung.
Xuất ngữ trực giao thiêu bất trước
Tiềm hành tu dữ cổ nhân đồng
Vô thân hữu sự siêu kì lộ
Vô sự vô thân lạc thủy chung.
Dịch:
Học giả trước cần hiểu tự tông
Chớ đem chân tế lẫn ngoan không.
Tột thể diệu minh biết xúc chạm
Sức tại phùng duyên chẳng mượn trung.
Thốt lời cần phải thiêu chẳng đến
Thầm đi nên với cổ nhân đồng.
Không thân có việc siêu đường tẻ
Không việc không thân lạc thủy chung.
VânMôn hỏi:- Thế nào là hạnh Sa-môn?
Sưđáp:- Ăn lúa mạ của thường trụ ấy vậy.
- Liềnkhi ấy đi thì sao?
- Ngươilại chứa được chăng?
- Chứađược.
- Ngươilàm sao chứa?
- Mặcy ăn cơm có cái gì khó.
- Saochẳng nói mang lông đội sừng?
VânMôn lễ bái.
*
Sưbảo chúng:
- Cácông trọn giữ cách thức, sao chẳng cùng y nói một chuyểnngữ, khiến y chẳng nghi đi?
VânMôn ở trong chúng bước ra hỏi:
- Chỗmật mật (thầm kín) vì sao chẳng biết có?
Sưđáp:- Chỉ vì mật mật nên chẳng biết có.
- Ngườinày làm sao thân cận?
- Chớnhằm chỗ mật mật thân cận.
- Khichẳng nhằm chỗ mật mật thì sao?
- Mớigiỏi thân cận.
VânMôn: dạ! dạ!
*
TăngNhuệ thưa:- Con nghèo cùng xin Thầy cứu giúp.
Sưbảo:- Xà-lê Nhuệ lại gần đây!
ThanhNhuệ lại gần.
Sưbảo:
- Kẻnhà nghèo ở Tuyền Châu uống xong ba chén rượu, vẫn nóichưa dính môi.
*
ChỉY đạo giả đến tham vấn, Sư hỏi:
- Đâuchẳng phải Chỉ Y đạo giả ư?
Đạogiả thưa:- Chả dám.
- Thếnào là việc của Chỉ Y?
- Chiếcáo cừu vừa khoác vào thân, muôn pháp thảy đều như.
- Thếnào là dụng của Chỉ Y?
Đạogiả lại gần: dạ! liền đứng tịch.
Sưbảo:- Ngươi chỉ giỏi đi thế ấy, sao chẳng giỏi đếnthế ấy?
Đạogiả chợt mở mắt hỏi:
- Mộtchân tánh linh khi chẳng nương bào thai thì thế nào?
Sưbảo:- Chưa phải diệu.
- Thếnào là diệu?
- Chẳngmượn! mượn!
Đạogiả trân trọng liền tịch.
Sưdạy bài tụng:
Giác tánh viên minh vô tướng thân
Mạc tương tri kiến vọng sơ thân.
Niệm dị tiện ư huyền thể muội
Tâm sai bất dữ đạo vi lân.
Tình phân vạn pháp trầm tiền cảnh
Thức giám đa đoan tán bản chân.
Như thị cú trung toàn hiểu hội
Liễu nhiên vô sự tích thời nhân.
Dịch:
Tánh giác viên minh không tướng thân
Chớ đem thấy biết dối xa gần.
Niệm khác bèn lầm huyền thể ấy
Tâm sai sao được đạo chung thân.
Tình phân muôn pháp chìm cảnh trước
Thức biện lăng xăng mất bản chân.
Trong câu như thế toàn lãnh hội
Rõ ràng vô sự tích thời nhân.
*
Tănghỏi:- Sa-môn đâu không phải là người đủ lòng đại từbi?
Sưđáp:- Phải.
- Chợtgặp lục tặc đến phải làm thế nào?
- Cũngphải đủ đại từ bi.
- Thếnào là đủ đại từ bi?
- Dùngmột cây kiếm dẹp sạch.
- Saukhi dẹp sạch thế nào?
- Mớiđược hòa đồng.
*
Tănghỏi:- Mày với mắt cùng biết nhau chăng?
Sưđáp:- Chẳng biết nhau.
- Vìsao chẳng biết nhau?
- Vìđồng tại một chỗ.
- Thếấy là chẳng phân?
- Màychẳng phải là mắt, mắt chẳng phải là mày.
- Thếnào là mắt?
- Quảnhiên rồi.
- Thếnào là mày?
- TàoSơn lại nghi.
- Tạisao Hòa thượng lại nghi?
- Nếuchẳng nghi tức quả nhiên rồi.
*
Tănghỏi:- Thế nào là kiếm không mũi?
Sưđáp:- Chẳng do rèn luyện mà thành.
- Dụngnó thế nào?
- Ngườigặp đều chết.
- Ngườichẳng gặp thì sao?
- Cũngphải rơi đầu.
- Ngườigặp đều chết là cố nhiên, người chẳng gặp vì sao lạirơi đầu?
- Ôngchẳng thấy nói ?hay sạch tất cả? sao?
- Saukhi sạch hết thế nào?
- Mớibiết có cây kiếm này.
*
Tănghỏi:- Huyễn vốn nào chân?
Sưđáp:- Huyễn vốn nguyên chân.
- Chínhkhi huyễn làm sao hiển bày?
- Tứchuyễn liền hiển.
- Thếấy thì trước sau chẳng lìa nơi huyễn?
- Tìmhuyễn tướng không thể được.
*
Sưhỏi vị Tăng: -Làm gì? Tăng thưa:-Quét đất. Sư hỏi:-TrướcPhật quét hay sau Phật quét? Tăng thưa: -Trước sau đồng thờiquét. Sư bảo: -Đem đôi giày qua cho Tào Sơn.
*
Tănghỏi Hương Nghiêm: -Thế nào là đạo? Hương Nghiêm đáp: -Khômộc lý long ngâm.(trong cây khô có rồng ngâm) Tăng hỏi: -Thếnào người trong đạo? Hương Nghiêm đáp: -Độc lâu lý nhãntình (trong đầu lâu có tròng con mắt) Tăng không lãnh hội,đến hỏi Thạch Sương: "Thế nào là khô mộc lý long ngâm?"Thạch Sương đáp: -Vẫn còn đeo cái hỉ. Tăng hỏi:-Thếnào độc lâu lý nhãn tình? Thạch Sương đáp: -Vẫn còn đeothức.Tăng không lãnh hội đến trình với Sư. Sư bảo:
- ThạchSương ông già Thanh văn khởi cái kiến giải.
Sưlàm bài tụng:
Khô mộc long ngâm chân kiến đạo
Độc lâu vô thức nhãn sơ minh.
Hỉ thức tận thời tiêu tức tận
Đương nhân na biện trọc trung thanh.
Dịch:
Cây khô rồng ngâm thật thấy đạo
Đầu lâu không thức mắt rạng ngời.
Hỉ thức hết thời tin tức lặng
Người này đâu biện đục trong trong.
Tănglại hỏi Sư:- Thế nào khô mộc lý long ngâm?
Sưđáp:- Huyết mạch chẳng đoạn.
- Thếnào độc lâu lý nhãn tình?
- Khôchẳng hết.
- Lạicó người được nghe chăng?
- Trọnngười trên đại địa chưa có một người chẳng nghe.
- Khômộc lý long ngâm là chương cú gì?
- Chẳngbiết chương cú gì, nguời nghe đều mất.
*
Sưdạy chúng:
- ChưTăng ở đây cốt dưới y áo hội thông được việc hướngthượng, chớ có rảnh rang qua ngày. Nếu chỗ thừa đươngđã rõ ràng, liền chuyển được chư thánh về sau lưng mình,mới là tự do. Nếu chuyển chẳng đặng, hẳn phải học đượcthập thành, lại cần đến sau lưng các ngài khoanh tay nóiđại thoại gì? Nếu chuyển được chính mình thì tất cảcảnh thô trọng đến đều làm chủ được. Ví như đi trongchỗ lầy trợt té cũng làm chủ được. Như có vị Tăng hỏingài Dược Sơn: "Trong giáo lý tam thừa lại có Tổ ý chăng?"Dược Sơn đáp: "Có." Tăng thưa: "Đã có, Tổ Đạt-ma lạiđến làm gì?" Dược Sơn bảo: "Chỉ vì có cho nên đến."Thế là đâu không phải làm chủ được chuyển được vềnơi mình sao?
Kinhnói: "Phật Đại Thông Trí Thắng, mười kiếp ngồi đạotràng, Phật pháp chẳng hiện trước, chẳng đặng thành Phậtđạo." Nói kiếp là đới (kẹt) vậy, gọi đó là thập thành,cũng gọi là đoạn sấm lậu (rỉ chảy). Chỉ là đầu mườiđường đã bặt, chẳng quên đại quả, nên nói thủ trụđam trước, gọi là thủ thứ thừa đương không phân quítiện.
Tathường thấy trong tùng lâm thích bàn một thứ hai thứ, lạihay thành lập được sự chăng? Những cái ấy chỉ nhằm việcđã qua hiển bày. Các ông chẳng thấy ngài Nam Tuyền nói: "Cho ông thập thành, so với Vương lão sư vẫn còn một đườngtuyến." Rất khó! việc đến đây cần phải chín chắn mớiđược minh bạch tự tại. Bất luận thiên đường địa ngụcngạ quỉ súc sanh, chỉ là tất cả chỗ chẳng dời đổi,nguyên là người thuở xưa, cốt yếu chẳng đi con đườngxưa. Nếu có tâm vui mừng thành đới trước nếu thoát đượcgiản trạch là sao? Cổ đức nói: "Chỉ e chẳng được luânhồi."
Cácông nói phải làm sao? Như người hiện nay nói có chỗ tịnhkhiết, thích hướng về việc ấy. Đây là bệnh thật khótrị. Nếu việc thô trọng ở thế gian lại là nhẹ, bệnhtịnh khiết thật là nặng. Như pháp vị Phật, pháp vị Tổtrọn là đới trước. Tiên sư nói: "Tâm nghĩ là phạm giới,nếu được Pháp vị là phá trai." Hãy bảo thế nào là đượcvị? Chỉ là pháp vị Phật, pháp vị Tổ, vừa có tâm vuimừng là phạm giới. Như hiện nay nói phá trai phá giới làkhi làm phép ba phen yết-ma, ấy sớm đã phá rồi. Nếu làbệnh tham sân si thô trọng, tuy khó dứt mà lại nhẹ, cònbệnh vô vi vô sự tịnh khiết lại nặng không có gì thêmđược. Tổ sư ra đời cũng chỉ vì cái ấy, chẳng riêngvì các ông. Hiện nay làm kẻ rảnh rang qua ngày, làm con chồn,con trâu tu hành lại thích, chẳng phải có thiền có đạo.Như các ông mỗi thứ tìm kiếm, tìm Phật tìm Tổ, cho đếnBồ-đề Niết-bàn, đến bao giờ thôi dứt xong xuôi ư? Đềulà tâm sanh diệt. Do đó chẳng giống như con chồn, con trâungơ ngơ không biết, chẳng biết Phật, chẳng biết Tổ, chođến Bồ-đề Niết-bàn và nhân quả thiện ác. Chỉ đóiđến là ăn cỏ, khát đến thì uống nước. Nếu được thếấy, chẳng lo chẳng xong xuôi. Đâu chẳng nghe nói: "Tính toánchẳng thành ấy là biết có (Tâm), mới hay mang lông độisừng kéo cày mang bừa." Được cái tiện nghi này, mới làđạm bạc. Đâu chẳng thấy đức Di-lặc, A-súc và nhữngthế giới Diệu Hỉ v.v? vẫn bị thượng nhân kia (Duy-ma-cật)gọi là Bồ-tát giải đãi không hổ thẹn. Cũng nói là biếndịch sanh tử, vẫn e còn phần nhỏ giải đãi.
Nơiviệc bổn phận phải nên làm sao? Cần phải chín chắn mớiđược. Mỗi người đều có một chỗ để ngồi, dù Phậtra đời xâm phạm chỗ ấy cũng không được. Thể hội cáiấy tu hành chẳng là thích thú lắm ư! Muốn biết việc này,chính nó khiến ta thành Phật thành Tổ, cũng chính nó khiếnta rơi trong tam đồ lục đạo. Tuy nhiên như thế, vẫn khôngcó chỗ dụng, mà lìa y cũng chẳng được, cốt cùng y làmchủ tể mới được. Nếu làm chủ tể được tức là khôngcòn biến dịch. Nếu làm chủ tể không được tức là biếndịch. Ngài Vĩnh Gia nói: "Phóng đãng lăng xăng chuốc họaương."
Tănghỏi:- Thế nào là phóng đãng lăng xăng chuốc họa ương?
Sưđáp:- Chỉ là cái ấy.
- Làmsao khỏi được?
- Biếtcó (Tâm) liền được, dùng khỏi làm gì? chỉ là Bồ-đềNiết-bàn phiền não vô minh v.v? thảy đều chẳng cần khỏi,cho đến việc thô trọng ở thế gian cũng thế. Miễnbiết có (Tâm) là được chẳng cần khỏi, khỏi tức đồngbiến dịch rồi. Cho đến thành Phật thành Tổ, Bồ-đề Niết-bàn,những cái ấy đều họa ương chẳng nhỏ. Tại sao như vậy?Bởi vì biến dịch. Nếu không biến dịch, cần phải chạmviệc tự do mới được.
NamChâu Soái Nam bình Chung Vương nghe danh Sư cho sứ đi thỉnh.Sư chẳng đến, chỉ biên bài tụng của Đại Mai để đáp:
Tồi tàn khô mộc ỷ hàn lâm
Kỷ độ phùng xuân bất biến tâm
Tiều khách ngộ chi du bất cố
Dĩnh nhân na đắc khổ truy tầm.
Dịch:
Cây khô gãy mục tựa rừng xanh
Mấy độ xuân về tâm chẳng sanh
Lão tiều trông thấy nào đoái nghĩ
Dĩnh khách thôi thì chớ hỏi phanh.
*
Sưdạy chúng kệ rằng:
Tùng duyên tiến đắc tương ưng tật
Tựu thể tiêu đình đắc lực trì
Miết khởi bản lai vô xứ sở
Ngô sư tạm thuyết bất tư nghì.
Dịch:
Từ duyên tiến được tương ưng nhanh
Đến thể lặng dừng đắc lực chậm
Chợt khởi từ xưa không chỗ nơi
Thầy ta tạm nói không nghĩ nghị.
*
Sưthượng đường, có vị Tăng bước ra hỏi:
"Thếnào là người đại xiển-đề?" Sư đáp: "Chẳng sợ nghiệp."Tăng hỏi: "Thế nào là người vô minh?" Sư đáp: "Trước sauchẳng giác ngộ." Tăng hỏi: "Hai người này ai ở trước?"Sư đáp: "Người vô minh." Tăng hỏi: "Người xiển-đề vìsao ở sau?" Sư đáp: "Người hướng đi." Tăng thưa: "Thế ấythì người vô minh chẳng từ ngày nay đi." Sư đáp: "Phải."Tăng thưa: "Đã chẳng từ ngày nay đi, vô minh từ chỗ nàođến?" Sư đáp: "Chỗ sáng chẳng dám vào." Tăng thưa: "Đâuchẳng phải chẳng minh chẳng ám." Sư bảo: "Phải." Tăng thưa: "Chính khi ấy thế nào" Sư bảo: "Chẳng cho chạm." Sư lạibảo:
- Xiển-đềcó nhiều thứ: 1- Giết cha giết mẹ, làm thân Phật ra máu,phá hòa hợp Tăng, hủy hoại già-lam, đây quyết định thậtbáo chịu các thứ khổ. 2- Cũng làm như trước, nhưng mà giếtcha vô minh mẹ tham ái, chẳng tin có Phật Pháp Tăng có thểphá, có già-lam có thể hoại, cho là nghiệp từ tâm mà thành,nên đọa cũng chịu các thứ quả hư vọng. Hai loại này lênxuống chẳng đồng. 3- Biết chính mình có việc bản lai, gọilà cha mẹ, chẳng nhân bên ngoài mà được, không tu khôngchứng, phi nhân phi quả, chẳng do thấy được, chẳng từchứng mà thành. Chỗ được, chẳng khởi chấp cha, gọi làgiết, chẳng khởi chấp mẹ, gọi là hại, tức là tất cảviệc bổn phận chẳng giữ chẳng còn, nên gọi là giết hại.Vừa có mảy may kính trọng, được ý vị thì chẳng thành,chỉ biết có việc chính mình, nên gọi là đại xiển-đề.Do đây dấy lên diệu lực tức là thể hội tông thừa từtrước, thừa kế việc nhà, cần cắt đường huyền, phácác cong vạy, như Lão nhân Tân Phong khéo chỉ.
*
ĐờiĐường niên hiệu Thiên Phục (901) mùa hạ năm Tân Sửu banđêm, Sư hỏi Tri sự:
- Hômnay là ngày mấy tháng mấy?
Trisự thưa:- Ngày rằm tháng sáu.
Sưbảo:
- TàoSơn bình sanh đi hành khước đến nơi chỉ biết chín mươingày là một hạ, sáng mai giờ thìn ta đi hành khước.
Hômsau, đúng giờ thìn thắp hương, Sư ngồi yên lặng mà hóa,thọ sáu mươi hai tuổi, ba mươi bảy tuổi hạ. Vua ban thụylà Nguyên Chứng Thiền sư, tháp hiệu Phước Viên.