Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

08. Thiền sư Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn - Tổ thứ hai tông Qui Ngưỡng

03/09/201113:53(Xem: 10095)
08. Thiền sư Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn - Tổ thứ hai tông Qui Ngưỡng

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨNĂM SAU LỤC TỔ

B.Phái Hoài Nhượng

8.NGƯỠNG SƠN HUỆ TỊCH
Tổthứ hai Tông Qui Ngưỡng - (804-899)

Thiềnsư Huệ Tịch quê ở Hoài Hóa, Thiều Châu, con nhà họ Diệp.Năm mười lăm tuổi, Sư muốn xuất gia, cha mẹ không cho. Đếnnăm mười bảy tuổi, Sư chặt hai ngón tay, đến trước chamẹ quì thệ cầu chánh pháp để báo ân sanh thành dưỡngdục. Cha mẹ mới cho xuất gia.

Sưđến chùa Nam Hoa xin xuất gia với Thiền sư Thông. Chưa đượcthọ giới cụ túc, Sư đã đi du phương.

*

Sưđến yết kiến Đam Nguyên, nhân đây được huyền chỉ.

ĐamNguyên bảo:

- Quốcsư lúc đương thời được sáu đời Tổ sư truyền cho chínmươi bảy viên tướng (tướng tròn), Ngài trao cho Lão tăngdặn rằng: Sau khi ta tịch diệt ba mươi năm, có ông Sa-ditừ phương nam đến, sẽ làm hưng thạnh giáo này, ngươi nênthứ lớp truyền trao chớ để đoạn dứt. Nay ta trao cho con,con phải vâng giữ.

Nóixong, Đam Nguyên trao bản ấy qua cho Sư. Sư nhận được, xemqua một lượt, bèn đem đốt.

Hômkhác, Đam Nguyên hỏi Sư:

- Nhữngtướng ta trao cho hôm trước cần phải quí trọng giữ kín.

Sưthưa:- Hôm ấy xem xong, con đốt quách rồi.

ĐamNguyên bảo:

- Phápmôn này của ta không người hội được, chỉ có thầy tavà các bậc Tổ sư Đại thánh mới hiểu hết, sao con lạiđốt đi?

Sưthưa:

- Conmột phen xem qua đã biết ý chỉ trong đó, ứng dụng đượcchẳng cần cầm bản.

ĐamNguyên bảo:

- Tuynhư thế, nơi con thì được, người sau làm sao tin đến được?

Sưthưa:

- Hòathượng nếu cần, con chép lại chẳng khó.

Sưliền chép hết lại thành một tập chẳng sót một điều,trình lên. Đam Nguyên khen là đúng.

Sưgiặt y, Đam Nguyên hỏi: Chính bây giờ làm gì? Sư đáp: Chínhbây giờ nhằm chỗ nào thấy?

Sưcòn Sa-di đến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu.

QuiSơn hỏi:- Ngươi là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ?

Sưthưa:- Có chủ.

- Chủở chỗ nào?

Sưtừ bên đông sang bên tây đứng. Qui Sơn biết con người kỳlạ nên cố tâm chỉ dạy.

Sưhỏi:- Thế nào là chỗ ở của chân Phật?

QuiSơn đáp:

- Dùngcái diệu tư (nghĩ nhớ) mà không tư (nghĩ nhớ) xoay cái tưtinh anh sáng suốt vô cùng, tư hết trở về nguồn, tánh tướngthường trụ, sự lý không hai, chân Phật như như.

Ngaycâu nói ấy, Sư đốn ngộ, dừng lại đây hầu hạ Qui Sơn.

*

Sưsang Giang Lăng thọ giới ở lại một hạ để học luật.Sau đó, Sư đến tham vấn Nham Đầu. Nham Đầu thấy Sư liềngiở phất tử lên. Sư trải tọa cụ. Nham Đầu đưa phấttử lại sau lưng. Sư vác tọa cụ lên vai đi ra. Nham Đầubảo: ?Ta chẳng nhận ông buông, chỉ nhận ông thâu.?

*

Sưđến tham vấn Thạch Thất, hỏi:

- Phậtvới đạo cách nhau bao nhiêu?

ThạchThất đáp:- Đạo như xè tay, Phật như nắm tay.

Sưtừ Thạch Thất, Thạch Thất tiễn ra tới cổng bảo rằng:

- Ngươichớ một bề đi, về sau ở lại bên ta.

*

ViTrụ đến Qui Sơn xin một bài kệ. Qui Sơn bảo:

- Thấymặt trình nhau vẫn là kẻ độn, huống là bày trên giấymực.

ViTrụ đến xin Sư. Sư vẽ trên giấy một tướng tròn, chúrằng: Nghĩ mà biết là rơi vào đầu thứ hai, chẳng nghĩmà biết là rơi vào đầu thứ ba.

*

Mộthôm, Thượng Tọa ở Qui Sơn đưa phất tử lên bảo:

- Nếungười nào làm được đạo lý liền cho phất tử.

Sưthưa:- Tôi làm được đạo lý, lại được chăng?

ThượngTọa bảo:- Chỉ làm được đạo lý liền được.

Sưbèn chụp tay giựt cây phất tử đi.

*

QuiSơn cùng Sư du hành, bỗng chim tha quả hồng chín đánh rơitrước mặt. Qui Sơn vội lượm quả hồng đưa Sư. Sư nhậnquả hồng đi lại nước rửa, rửa xong, Sư dâng Qui Sơn. QuiSơn bảo: "Ở chỗ nào con được quả này?" Sư thưa: "Đâylà đạo đức của Hòa thượng cảm nên." Qui Sơn nói: "conđâu phải không có", liền bẻ nửa quả hồng cho Sư.

*

Sưđến phiên chăn trâu dưới sườn núi, thấy một vị Tănglên núi không bao lâu lại xuống. Sư bèn hỏi: "Thượng tọasao không lưu lại trong núi?" Tăng nói: "Chỉ vì nhân duyênchẳng hợp." Sư hỏi: "Có nhân duyên gì thử nói xem." Tăngnói: "Hòa thượng hỏi tôi tên gì, tôi đáp Qui Chân. Hòa thượnghỏi Qui Chân ở đâu, tôi đáp không được." Sư bảo: "Thượngtọa trở lên thưa với Hòa thượng con nói được, Hòa thượnghỏi nói thế nào, chỉ đáp "trong mắt, trong tai, trong mũi".Vị Tăng trở lại nói đúng như Sư dạy. Qui Sơn quở: "Kẻnói suông vô ích, đây là lời thiện tri thức của năm trămngười."

*

Sưnằm mộng thấy vào nội viện của đức Di-lặc, trong nhàTăng các tòa đều có người ngồi, chỉ có tòa thứ hai trống,Sư liền lên tòa ngồi. Có vị Tôn giả bạch chùy (khai kiểng)rằng: "Hôm nay tòa thứ hai nói pháp." Sư đứng dậy bạchchùy rằng: "Pháp Đại thừa ly tứ cú, tuyệt bách phi, lắngnghe! lắng nghe! chúng giải tán đi."

Sưthức giấc đem việc ấy thuật lại Qui Sơn. Qui Sơn bảo: "Con đã vào vị thánh". Sư lễ tạ.

*

Sưvẫn theo Qui Sơn ngót mười lăm năm. Đươc Qui Sơn mật ấn,Sư lãnh chúng ở núi Vương Mãng. Hóa duyên ở đây không hợp,Sư dời đến Ngưỡng Sơn, học chúng đua nhau đến đấy rấtđông.

Sưthượng đường dạy chúng:

- Hếtthảy các ngươi! mỗi người tự hồi quang phản quán, chớghi ngôn ngữ của ta. Các ngươi từ kiếp vô thủy đến giờtrái sáng hợp tối, gốc vọng tưởng quá sâu khó nhổ mauđược. Do đó, giả lập phương tiện dẹp thức thô củacác ngươi, như đem lá vàng dỗ con nít khóc, có cái gì làphải. Như người đem các thứ hàng hóa cùng vàng lập phốbán, bán hàng hóa chỉ nghĩ thích hợp với người mua. Vìthế, nói "Thạch Đầu là phố chân kim, chỗ ta là phố tạphóa". Có người đến tìm phẩn chuột ta cũng bết cho, kẻkhác đến cầu chân kim ta cũng trao cho.

Tănghỏi:- Chẳng cần phẩn chuột, xin Hòa thượng cho chân kim?

Sưbảo:- Răng nhọn nghỉ mở miệng, năm lừa cũng chẳng hội.

Tăngkhông đáp được.

Sưtiếp:

- Tìmhỏi thì có trao đổi, chẳng tìm hỏi thì không ta. Nếu nóibên thân Thiền tông cần một người làm bạn cũng không,huống là có năm bảy trăm chúng? Nếu ta nói đông nói tây,ắt giành nhau lượm lặt, như đem nắm tay không để gạtcon nít, trọn không có thật. Nay ta nói rõ với các ngươiviệc bên cạnh thánh, chớ đem tâm nghĩ tính, chỉ nhằm vàobiển tánh của chính mình mà tu hành như thật. Chẳng cầntam minh lục thông. Vì sao? Vì đây là việc bên chót của thánh.Hiện nay cần thức tâm đạt bản, cốt được cái gốc chẳnglo cái ngọn. Sau này, khi khác sẽ tự đầy đủ. Nếu chưađược gốc, dầu cho đem tâm học y cũng chẳng được. Cácngươi đâu chẳng nghe Hòa thượng Qui Sơn nói: "tình phàm thánhhết, bày hiện chân thường, sự lý chẳng hai, tức như nhưPhật".

*

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư?

Sưlấy tay vẽ vòng tròn trong hư không, giữa vòng tròn viếtchữ Phật.

Tăngkhông đáp được. Sư gọi đệ nhất tọa bảo:

- Chẳngnghĩ thiện chẳng nghĩ ác, chính khi ấy là làm gì?

Đệnhất tọa đáp:- Chính khi ấy là chỗ buông thân mạng củacon.

Sưbảo:- Sao không hỏi Lão tăng?

Đệnhất tọa đáp:- Chính khi ấy chẳng thấy có Hòa thượng.

Sưbảo:- Đỡ tông giáo của ta chẳng đứng.

*

Sưvề Qui Sơn thăm, Linh Hựu hỏi:

- Conđã xưng là thiện tri thức, có biện được những ngườicác nơi đến; biết có chẳng biết có, đã kế thừa thầyhay không kế thừa thầy, là nghĩa học là huyền học, conthử nói xem.

Sưthưa:

- Concó chỗ kinh nghiệm, khi thấy Tăng các nơi đến liền dựngphất tử dậy, hỏi y: các nơi lại nói cái này hay chẳngnói. Lại bảo, ý lão túc các nơi thế nào.

LinhHựu khen:- Đây là nanh vuốt trong Tông môn từ trước!

LinhHựu lại hỏi:

- Chúngsanh trên quả đất nghiệp thức mênh mang không gốc có thểtựa, con làm sao biết họ có cùng chẳng có?

Sưthưa:

- Concó chỗ kinh nghiệm, lúc ấy có vị Tăng đi qua trước mặt,Sư gọi: "Xà lê!" Vị Tăng xoay đầu lại. Sư thưa: Bạch Hòathượng cái này là nghiệp thức mênh mang không gốc có thểtựa.

LinhHựu bảo:- Đây là một giọt sữa sư tử, làm tan sáu đấusữa lừa.

*

Cóvị Tăng người Ấn từ hư không đến, Sư hỏi: ?Vừa rồiở đâu đến?? Tăng thưa: "Ở Tây thiên." Sư hỏi: "Rời Tâythiên lúc nào?" Tăng thưa: "Sớm mai." Sư bảo: "Sao mà chậmlắm vậy?" Tăng thưa: "Vì còn dạo núi xem nước." Sư bảo: "Thần thông du hí thì chẳng không, Phật pháp của Xà-lê cầntrao lại cho Lão tăng mới được?" Tăng thưa: "định sang Đôngđộ lễ Văn-thù, lại gặp Tiểu Thích-ca", bèn đem sách chữPhạn bằng lá bối trao cho Sư, làm lễ rồi nương hư khôngmà đi.

Từđây Sư có hiệu là Tiểu Thích-ca.

*

QuiSơn niêm một mặt gương gởi cho Sư. Sư thượng đường đưalên bảo: "Chúng hãy nói, là gương Qui Sơn hay gương NgưỡngSơn" Có người nói được thì không đập nát. Toàn chúngđều không nói được. Sư liền đập nát.

*

Sưhỏi Song Phong: "Gần đây chỗ thấy của Sư đệ thế nào?"Song Phong đáp: "Cứ chỗ thấy của tôi, thật không một phápcó thể xứng tình." Sư bảo: "Ngươi hiểu vẫn còn tại cảnh."Song Phong hỏi: "Tôi chỉ hiểu như thế, Sư huynh thế nào?"Sư đáp: "Ngươi đâu chẳng biết, không một pháp có thểxứng tình."

QuiSơn nghe khen:

- Mộtcâu của Huệ Tịch nghi chết người trong thiên hạ.

*

Sưcùng một vị Tăng nói đạo, bên cạnh có vị Tăng thưa: "Nóiđó là Văn-thù, nín đó là Duy-ma." Sư bảo: "Chẳng nói chẳngnín đó, đâu chẳng phải là ngươi?" Tăng lặng thinh. Sư bảo: "Sao chẳng hiện thần thông?" Tăng thưa: "Chẳng từ hiện thầnthông, chỉ ngại Hòa thượng bắt vào dạy." Sư bảo: "Xétrõ chỗ đến của ngươi chưa có con mắt giáo ngoại biệttruyền."

*

Tănghỏi:- Ý vào cửa Thiền tông đốn ngộ thế nào?

Sưbảo:

- Ýnày khó tột. Nếu người thượng căn thượng trí trong tôngmôn của Tổ phải một nghe ngàn ngộ được đại tổng trì.Căn cơ bậc này thật khó có. Còn hàng căn trí kém nhỏ, nhưCổ đức nói "nếu chẳng an thiền tịnh lự đến trong đótrọn không biết gì cả".

Tăngthưa:

- Trừngoài bậc đặc cách này, lại riêng có phương tiện khiếnkẻ học được vào chăng?

Sưbảo:

- Riêngcó riêng không khiến tâm ngươi chẳng an. Ngươi là ngườixứ nào?

Tăngthưa:- Người U Châu.

Sưbảo:- Ngươi có nhớ xứ ấy chăng?

- Thườngnhớ.

- Xứấy lầu đài vườn rừng người ngựa rộn ràng, ngươi thửnhớ lại xem cái nhớ có nhiều thứ chăng?

- Conđến chỗ ấy tất cả đều chẳng thấy có.

- Ngươihiểu còn ở cảnh, tín vị thì phải, nhân vị thì chẳngphải.

Căncứ chỗ hiểu của ngươi chỉ được một huyền, đượcngồi mặc y, về sau tự xem.

VịTăng ấy lễ tạ lui ra.

*

Sưtrước ở Ngưỡng Sơn, sau dời về Quan Âm chỉ dạy Tăngchúng làm tiêu chuẩn cho Thiền tông. Còn vài năm tịch, Sưcó làm bài kệ:

Niên mãn thất thập thất

Lão khứ thị kim nhật

Nhậm tánh tự phù trầm

Lưỡng thủ phan quật tất.

(Năm đầy bảy mươi bảy

Chính là ngày tôi đi

Mặc tánh tự chìm nổi

Hai tay ngồi bó gối.)

*

KhiSư sắp tịch ở tại núi Đông Bình, có vài vị Tăng đứnghầu, Sư nói kệ:

Nhất nhị nhị tam tử

Bình mục phục ngưỡng thị

Lưỡng khẩu nhất vô thiệt

Thư thị ngô tông chỉ.

(Một hai hai ba con

Mắt thường lại ngước xem

Hai miệng một không lưỡi

Đây là tông chỉ ta.)

Nóixong, Sư ngồi hai tay bó gối tịch, thọ bảy mươi bảy tuổi.Vua ban thụy Trí Thông Thiền sư, tháp hiệu Diệu Quang.

8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com