THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ
TẬP 2
ĐỜI THỨNĂM SAU LỤC TỔA. PháiHành Tư
3.THIỀN SƯ KHÁNH CHƯ
ThạchSương - (806-888)
Sưhọ Trần quê ở Tân Cam, Lô Lăng. Năm mười ba tuổi, Sư theoThiền sư Thiệu Loan xuất gia, hai mươi ba tuổi đến Tung Nhạcthọ giới Cụ túc, sang Đông Lạc học luật. Tuy học luật,Sư vẫn biết là Tông tiệm. Sư lại sang Đại Qui, vào pháphội làm mễ đầu (tri khố).
*
Mộthôm, Sư ở trong liêu sàng gạo, Qui Sơn (Linh Hựu) đến bảo:
- Vậtcủa thí chủ chớ ném bỏ.
Sưthưa:- Chẳng dám ném bỏ.
QuiSơn lượm trên đất một hạt gạo, bảo:
- Ngươinói chẳng ném bỏ, cái này từ đâu đến?
Sưlặng câm. Qui Sơn lại bảo:
- Chớkhi một hạt này, trăm ngàn hạt từ một hạt này sanh.
Sưthưa:
- Trămngàn hạt từ một hạt này sanh, chưa biết một hạt này từchỗ nào sanh?
QuiSơn cười hả hả trở về phương trượng.
Đếnchiều, Qui Sơn thượng đường bảo chúng:
- Đạichúng! Trong gạo có sâu.
*
Sưđến tham Đạo Ngô, hỏi:- Thế nào chạm mắt là Bồ-đề?
ĐạoNgô gọi:- Sa-di!
Sa-diứng thanh:- Dạ!
ĐạoNgô bảo:- Thêm nước trong tịnh bình.
ĐạoNgô lại hỏi Sư:- Ông vừa nói cái gì?
Sưthuật lại câu hỏi trước. Đạo Ngô đứng dậy đi. Sư nhânđây tỉnh giác.
*
ĐạoNgô bảo chúng: Ta đau gần muốn chết, bởi trong tâm có mộtvật để lâu thành bệnh, người nào hay vì ta dẹp nó?
Sưthưa:- Tâm vật đều phi, dẹp đó thêm bệnh.
ĐạoNgô khen:- Hiền thay! Hiền thay!
LàmTăng mới được hai tuổi hạ, Sư bèn ẩn trong dân gian, vàoxóm thợ gốm vùng Lưu Dương, Trường Sa, sáng sớm dạo đi,đến chiều trở về, mọi người không biết được Sư.
Nhânmột vị Tăng từ Động Sơn đến. Sư hỏi:
- Hòathượng có lời gì dạy chúng?
Tăngđáp:
- Hômgiải hạ, Hòa thượng thượng đường dạy: "Đầu thu cuốihạ, huynh đệ hoặc đi đông đi tây, đi nên đi thẳng đếnchỗ muôn dặm không có một tấc cỏ, đi làm gì"
Sưhỏi:- Có người đáp được chăng?
Tăngnói:- Không.
Sưbảo:- Sao chẳng nói "ra khỏi cửa liền là cỏ".
Tăngtrở về thuật lại cho Động Sơn nghe. Động Sơn bảo:
- ỞLưu Dương có cổ Phật.
*
Chúngthỉnh Sư trụ trì tại núi Thạch Sương, Sư cũng cho đâylà nơi hợp với chí mình.
ĐạoNgô sắp viên tịch giải tán chúng, tìm đến Thạch Sương,lấy Sư làm Trưởng tử. Sư hằng ngày chuyên cần hầu hạ,giữ đúng tư cách thờ thầy. Sau khi Đạo Ngô qui tịch, họcchúng qui tụ thường trên năm trăm.
*
Cóvị Tăng hỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Sưđáp:- Trong không, một phiến đá.
Tănglễ bái. Sư hỏi:- Hội chăng?
Tăngthưa:- Chẳng hội.
Sưbảo:- May! Ngươi chẳng hội, nếu hội ngươi đã bị vỡđầu.
*
Sưở trong phương trượng, có vị Tăng ở ngoài song hỏi:
- Cáchnhau mấy tấc, vì sao chẳng thấy mặt Thầy?
Sưđáp:- Ta nói khắp hết chẳng từng giấu.
VịTăng ấy đến hỏi Tuyết Phong:
- Khắphết chẳng từng giấu, ý chỉ thế nào?
TuyếtPhong đáp:- Chỗ nào chẳng phải Thạch Sương.
VịTăng trở lại thuật lời Tuyết Phong cho Sư nghe. Sư bảo:
- Cáilão này sao mà chết gấp.
TuyếtPhong nghe lời này, tự nói:- Lão tăng tội lỗi.
*
VânCái đến hỏi:
- Muôncửa đều đóng chẳng hỏi, khi muôn cửa đều mở thì thếnào?
Sưđáp:- Trong nhà làm việc gì?
Cáiđáp:- Không người tiếp được y.
Sưbảo:- Nói đến tột chỗ nói, chỉ nói được tám chín phần.
Cáihỏi:- Chẳng biết Hòa thượng nói thế nào?
Sưđáp:- Không người biết (tiếp) được y.
*
Tútài Trương Chuyết đến tham vấn, Sư hỏi:- Tú tài tên họgì?
Tútài thưa:- Tôi họ Trương tên Chuyết.
Sưbảo:
- Tìmcái xảo (khéo) còn không thể được, cái Chuyết (vụng) từđâu lại?
Chuyếtchợt tỉnh ngộ, trình kệ:
Quang minh tịch chiếu biến hà sa
Phàm thánh hàm linh cộng ngã gia.
Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện
Lục căn tài động bị vân già.
Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh
Thú hướng chân như diệc thị tà.
Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại
Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.
DỊCH
Quang minh lặng chiếu khắp hà sa
Phàm thánh hàm linh vốn chung nhà.
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện
Sáu căn vừa động bị che lòa.
Phá trừ phiền não càng thêm bệnh
Tìm đến chân như âu cũng tà.
Tùy thuận các duyên không chướng ngại.
Niết-bàn sanh tử thảy không hoa.
*
Bùitướng công đến. Sư nắm giở cái hốt của Bùi Công hỏi:
- Cáinày ở trong tay Thiên tử gọi là Khuê, ở trong tay quan nhângọi là Hốt, ở trong tay lão tăng gọi nó là gì?
BùiCông lặng câm. Sư giữ cái hốt lại.
*
Sưdạy chúng:
- Kẻsơ học chưa gặp được việc lớn, trước phải nhận rađầu thì đuôi tự đến. Sơ Sơn hỏi:
- Thếnào là đầu?
Sưđáp:- Phải thẳng biết có.
- Thếnào là đuôi?
- Dẹphết hiện giờ.
- Khicó đầu không đuôi thì sao?
- Mửađượcvàng ròng kham làm việc gì?
- Khicó đuôi không đầu thì sao?
- Vẫncòn nương tựa.
- Khiđầu đuôi được cân xứng thì sao?
- Ychẳng khỏi giải hội, cũng chưa cho y ở.
*
Sưở Thạch Sương hai mươi năm, Học chúng thường ngồi chẳngnằm, ngồi thă?g như gốc cây. Thời nhân gọi là "chúng câykhô".
VuaĐường Hiến Tông nghe đạo hạnh của Sư, sai sứ đem tửy ban cho. Sư cố từ chối không nhận.
*
Niênhiệu Quang Khải năm thứ tư (889), ngày hai mươi tháng hai nămMậu Thân, Sư có chút ít bệnh, báo tin chúng hay sắp tịch,thọ tám mươi hai tuổi, năm mươi chín tuổi hạ.
Vuasắc phong là Phổ Hội Đại sư, tháp hiệu Kiến Tướng.
8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.
Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.
Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.
Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.
*
Mộthôm Sư dạy chúng:
- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)
Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.
Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.
Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:
Tâm địa tùy thời thuyết
Bồ-đề diệc chỉ ninh
Sự lý câu vô ngại
Ðương sanh tức bất sanh.
Dịch:
Ðất tâm tùy thời nói
Bồ-đề cũng thế thôi
Sự lý đều không ngại
Chính sanh là chẳng sanh.
*
Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?
Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.
- Connít nín rồi thì thế nào?
- Phitâm phi Phật.
- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?
- Nóivới y là "phi vật".
- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?
- Hãydạy y thể hội đại đạo.
*
Cóvị Tăng hỏi:
- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?
Sưđáp:
- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.
TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?
Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.
TríTạng hỏi:
- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.
Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.
Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.
*
Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:
- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?
Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?
Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!
Sưliền nhìn thẳng xuống.
Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.
Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.
*
Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.
Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?
TríTạng thưa:- Nên cúng dường.
HoàiHải thưa:- Nên tu hành.
PhổNguyện phủi áo ra đi.
Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.
*
HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?
Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.
Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?
HoàiHải dựng đứng cây phất tử.
Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?
HoàiHải ném cây phất tử xuống.
*
Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?
Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.
Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?
Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.
*
ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?
ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.
- ÐườngThạch Ðầu trơn.
- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.
ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:
- Ấylà tông chỉ gì?
ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!
ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:
- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"
ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.
ThạchÐầu bèn: Hư! hư!
ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:
- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".
*
Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?
Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?
- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.
- Ðâukhông phải là sư tử con?
- Khôngdám.
Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!
Giảngsư nói:- Ðây là pháp.
- Làpháp gì?
- Phápsư tử ra khỏi hang.
Sưbèn im lặng.
Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.
- Làpháp gì?
- Phápsư tử ở trong hang.
- Khôngra không vào là pháp gì?
Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:
- Chủtọa!
Giảngsư xoay đầu lại.
Sưhỏi:- Là pháp gì?
Giảngsư cũng không đáp được.
Sưbảo:- Ông thầy độn căn.
*
Mộthôm Sư dạy chúng:
- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.
Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.
Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.
Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.
Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.
Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:
- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.
Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.
Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.