Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đời Thứ Năm Sau Lục Tổ

03/09/201113:53(Xem: 10292)
Đời Thứ Năm Sau Lục Tổ

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 2
ĐỜI THỨNĂM SAU LỤC TỔ

A. PháiHành Tư.
1.Thiền sư Lương Giới ở Động Sơn khai Tổ tông Tào Động.
2.Thiền sư Tăng Mật.
3.Thiền sư Khánh Chư ở Thạch Sương.
4.Thiền sư Đại Đồng ở núi Đầu Tử.
5.Thiền sư Thiện Hội ở Giáp Sơn.
B.PháiHoài Nhượng.
6.Thiền sư Nghĩa Huyền ở Lâm Tế khai Tổ tông Lâm Tế.
7.Thiền sư Trần Tôn Túc hiệu Đạo Minh.
8.Thiền sư Huệ Tịch ở Ngưỡng Sơn -Tổ thứ hai tông Qui Ngưỡng.
9.Thiền sư Trí Nhàn ở Hương Nghiêm.
10.Thiền sư Thường Thông ở núi Tuyết Đậu.
11.Ni Liễu Nhiên ở Mạt Sơn.
12.Thiền sư Tuyên Giám ở Đức Sơn.

1.THIỀN SƯ LƯƠNG GIỚI
ĐộngSơn - Khai Tổ Tông Tào Động - (807-869)

Sưhọ Du quê ở Hội Kê. Thuở nhỏ theo thầy tụng kinh Bát-nhãđến câu "vô nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý", Sư chợt lấy tayrờ mặt hỏi thầy:

- Concó mắt, tai, mũi, lưỡi cớ sao trong kinh nói không? Ông thầykinh lạ, bảo:

- Tachẳng phải thầy của ngươi.

Ônggiới thiệu Sư đến núi Ngũ Tiết làm lễ Thiền sư Linh Mặcxin xuất gia. Năm 21 tuổi, Sư đến Tung Sơn thọ giới cụtúc.

*

Sưdu phương, trước yết kiến Nam Tuyền Phổ Nguyện. Gặp ngàykỵ trai Mã Tổ, Nam Tuyền hỏi chúng:

- Cúngtrai Mã Tổ, vậy Mã Tổ có đến hay chăng?

Cảchúng đều không đáp được. Sư bước ra thưa:- Đợi cóbạn liền đến.

NamTuyền bảo:- Chú nhỏ này tuy là hậu sanh rất dễ giũa gọt.

Sưthưa:- Hòa thượng chớ ếm kẻ lành thành đứa giặc.

*

Kếđến tham vấn Qui Sơn Linh Hựu, Sư thưa:

- Đượcnghe Quốc sư Huệ Trung nói "vô tình thuyết pháp", con chưahiểu thấu chỗ vi diệu ấy?

QuiSơn bảo: - Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được ngườikia.

Sưthưa:- Con chưa hiểu, xin Thầy chỉ bày.

QuiSơn dựng đứng phất tử, hỏi:- Hội chăng?

Sưthưa:- Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói.

QuiSơn bảo: - Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì ngươinói.

Sưthưa:- Lại có người cùng Thầy đồng thời mộ đạo chăng?

QuiSơn bảo:

- ỞLễ Lăng tại huyện Du, trong các thất đá nối nhau, có Đạonhân Vân Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió, ắt vị ấy là ngườingươi kính trọng.

Sưbèn từ Qui Sơn thẳng đến Văn Nham.

*

ĐếnVân Nham, Sư hỏi:- Vô tình thuyết pháp, người nào đượcnghe?

VânNham bảo:- Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.

Sưhỏi:- Hòa thượng nghe chăng?

VânNham bảo:- Ta nếu nghe, ngươi đâu thể được nghe ta thuyếtpháp.

Sưthưa:- Con vì sao chẳng nghe?

VânNham dựng phất tử, hỏi:- Lại nghe chăng?

Sưthưa:- Chẳng nghe.

VânNham bảo:

-Tathuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyếtpháp?

Sưhỏi:-Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?

VânNham bảo:

- Đâukhông thấy kinh Di-đà nói: nước, chim, cây rừng thảy đềuniệm Phật niệm Pháp?

Ngaycâu này Sư liền tỉnh ngộ, thuật bài kệ:

Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!

Vô tình thuyết pháp bất tư nghì

Nhược tương nhĩ thính chung nan hội

Nhãn xứ văn thinh phương đắc tri.

DỊCH:Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!

Vô tình nói pháp chẳng nghĩ nghì

Nếu lấy tai nghe trọn khó hội

Phải đem mắt thấy mới liễu tri.

Sưthưa:- Con còn dư tập (thói quen) chưa hết.

VânNham hỏi:- Ngươi từng làm gì?

Sưthưa:- Thánh đế cũng chẳng làm.

VânNham hỏi:- Được hoan hỉ chưa?

Sưthưa:- Hoan hỉ thì chẳng không, như trong đống rác lượm đượchòn ngọc sáng.

*

Sưtừ Vân Nham đi nơi khác. Vân Nham hỏi:- Đi nơi nào?

Sưthưa:- Tuy lìa Hòa thượng mà chưa định chỗ ở?

VănNham hỏi:- Phải đi Hồ Nam chăng?

Sưthưa:- Không.

VânNham hỏi:- Phải đi về quê chăng?

Sưthưa:- Không.

VânNham hỏi:- Bao lâu trở lại?

Sưthưa:- Đợi Hòa thượng có chỗ ở thì trở lại.

VânNham bảo:- Từ đây một phen đi khó được thấy nhau.

Sưthưa:- Khó được chẳng thấy nhau.

Sắpđi, Sư lại thưa:

- Saukhi Hòa thượng trăm tuổi, chợt có người hỏi tả đượchình dáng của Thầy chăng, con phải đáp làm sao?

VânNham lă?g thinh hồi lâu, bảo: - Chỉ cái ấy.

Sưtrầm ngâm giây lâu. Vân Nham bảo:

- Xà-lêLương Giới thừa đương việc lớn phải xét kỹ.

Sưvẫn còn hồ nghi.

*

Sau,Sư nhân qua suối nhìn thấy bóng, đại ngộ ý chỉ trước,liền làm một bài kệ:

Thiết kỵ tùng tha mít

Điều điều dữ ngã sơ

Ngã kim độc tự vãng

Xứ xứ đắc phùng cừ.

Cừ kim chánh thị ngã

Ngã kim bất thị cừ

Ưng tu nhậm ma hội

Phương đắc khế như như.

DỊCH:Rất kỵ tìm nơi khác

Xa xôi bỏ lảng ta,

Ta nay riêng tự đến

Chỗ chỗ đều gặp va.

Và nay chính là ta

Ta nay chẳng phải va

Phải nên như thế hội

Mới mong hợp như như.

Sưđến Phần Đàm yết kiến Thủ tọa Sơ. Thủ tọa dạy chúngcó câu:

Dã đại kỳ! Dã đại kỳ!

Phật giới, đạo giới bất tư nghì.

DỊCH

Cũng rất kỳ! Cũng rất kỳ!

Phật giới, đạo giới chẳng nghĩ nghì.

Sưhỏi:

- Phậtgiới, đạo giới chẳng hỏi, người nói Phật giới đạogiới là gì? Chỉ xin nói một câu?

Thủtọa làm thinh không đáp. Sư giục:- Sao chẳng nói mau?

Thủtọa bảo:- Nói chẳng được.

Sưthưa:- Nói cũng chưa từng nói, cái gì mà nói chẳng được??

Thủtọa cũng không đáp. Sư thưa:- Phật với đạo chỉ là danhtự, sao chẳng dẫn kinh.

Thủtọa hỏi:- Kinh nói thế nào?

Sưthưa:- Được ý quên lời (đắc ý vong ngôn).

Thủtọa bảo:- Vẫn còn đem ý kinh đến đầu tâm làm thành bệnh.

Sưthưa:-Nói Phật giới, đạo giới bệnh lớn nhỏ?

Thủtọa không đáp được, sáng hôm sau tịch. Thời nhân gọiSư là hỏi chết Thủ tọa.

*

Đếncuối niên hiệu Đại Trung đời Đường (khoảng 840), Sư trụnúi Tân Phong tiếp dẫn học chúng, về sau giáo hóa thạnhhành ở Động Sơn thuộc Dự Chương Cao An.

Mộthôm, nhân ngày thiết trai cúng kỵ Vân Nham, có vị Tăng hỏi:

- Hòathượng ở chỗ Tiên sư được chỉ dạy gì?

Sưđáp:- Tuy ở trong ấy mà chẳng nhờ Tiên sư chỉ dạy.

Tănghỏi:- Đã chẳng nhờ chỉ dạy, lại thiết trai cúng dườnglàm gì?

Sưbảo:- Tuy nhiên như thế, đâu dám trái lại Tiên sư.

Tănghỏi:

- Hòathượng trước yết kiến Nam Tuyền tìm được manh mối, vìsao lại thiết trai cúng dường Vân Nham?

Sưbảo:

- Tachẳng trọng Tiên sư đạo đức, cũng chẳng vì Phật pháp,chỉ trọng chẳng vì ta nói pháp.

Sau,Sư quyền khai Ngũ vị để giáo hóa học đồ. Ngũ vị là:1) Chánh trung thiên. 2) Thiên trung chánh. 3) Chánh trung lai. 4)Thiên trung chí. 5) Kiêm trung đáo. Có bài tụng ngũ vị:

Chánh trung thiên

Tam canh sơ dạ nguyệt minh tiền

Mạc quái tương phùng bất tương thức

Ẩn ẩn du hoài cựu nhựt hiềm.

Thiên trung chánh

Thất hiểu lão bà phùng cổ cảnh

Phân minh địch diện biệt vô chân

Hưu cánh mê đầu du nhận ảnh.

Chánh trung lai

Vô trung hữu lộ cách trần ai

Đản năng bất xúc đương kim húy

Dã thắng tiền triều đoạn thiệt tài.

Thiên trung chí

Lưỡng nhẫn giao phong bất tu tị

Hảo thủ du như hỏa lý liên

Uyển nhiên tự hữu xung thiên chí

Kiêm trung đáo

Bất lạc hữu vô thùy cảm hòa

Nhân nhân tận dục xuất thường lưu

Chiết hiệp hoàn qui khôi lý tọa.

DỊCH

Chánh trung thiên

Đêm tối canh ba trăng rọi hiên

Lạ chi cùng gặp chẳng cùng biết

Ẩn ẩn vẫn còn ôm hận phiền.

Thiên trung chánh

Mất sáng lão bà tìm cổ kính

Rõ ràng đối diện đâu riêng chân

Thôi chớ quên đầu theo nhận bóng.

Chánh trung lai

Đường cái trong không cách trần ai

(bụi bặm)

Chỉ hay chẳng chạm ngày nay kỵ

Đã thẳg tiền triều cắt lưỡi tài.

Thiên trung chí

Hai kiếm đua nhau cần gì tránh

Tay khéo vẫn như lò lửa sen

Nguyên vẹn nơi mình xung thiên chí

Kiêm trung đáo

Chẳng rơi không, có ai dám hòa

Người người trọn muốn vượt dòng thường

Tan hiệp trở về ngồi trong tro.

[Đạiý Ngũ vị: Chánh là chỉ cho Thể, Không, Lý. Thiên là chỉcho Dụng, Sắc, Sự.

Chánhtrung thiên: Chánh vị thể có đủ thiên vị dụng sự tướng.Cái hay đủ là thể, cái bị đủ là dụng. Cho nên lấy cáithể hay đủ định làm quân vị (vị vua). Trong ngũ vị quânthần nó thuộc về vị quân. Người tu mới nhận được dụngđủ nơi thể, sự trong lý, là vị tu hành hữu vi. Về ngũvị công huân nó thuộc vị thứ nhất. Phối hợp vị thứcủa Đại thừa thì cùng vị Tam hiền trước thập địa tươngđương.

Thiêntrung chánh: Thiên vị dụng có đủ chánh vị thể. Nhân cáidụng hay đủ, định là Thần vị (vị tôi). Trong ngũ vịquân thần nó thuộc về thần vị. Trên phương diện tu hànhmà luận, người tu nhận được lý đủ nơi sự, thể sẵntrong dụng, là vị liễu đạt được lý các pháp đều không,chỉ một chân như bình đẳng. Đứng về mặt Đại thừalà kiến đạo.

Chánhtrung lai: Các pháp hữu vi như lý tùy duyên, như tánh duyênkhởi. Là vị quân thị thần (vua xem tôi) vậy. Người tu nơiđây như lý tu sự, như tánh khởi hành, cùng với pháp thânBồ-tát từ sơ địa đến thất địa tu hành còn dụng công,tương đương.

Thiêntrung chí: Sự dụng toàn hợp nơi thể, trở về vô vi. Tứclà vị thần hướng quân (tôi nhằm vào vua). Người tu đếnđây trọn ngày tu mà lìa niệm tu, trọn đêm dụng mà chẳngthấy dụng công. Là tương đương với hàng Bồ-tát từ bátđịa đến thập địa, trong vị tu đạo vô công dụng.

KiêmTrung đáo: - Thể dụng đồng đến, sự lý cùng hành. Tứclà vị quân thần hiệp (vua tôi hiệp) vậy. Là Phật quảtột cùng tối thượng.

TheoTào Sơn giải: Chánh vị tức là không giới xưa nay không vật.Thiên vị là sắc giới có muôn hình tượng. Chánh Trung thiên,bỏ lý theo sự. Thiên Trung chánh, bỏ sự về lý. Kiêm đới,thần ứng hợp các duyên, không rơi vào các cõi, chẳng phảinhiễm, tịnh, chánh, thiên. Cho nên nói: Đại đạo hư huyền,chân tông vô trước. (Tào Sơn ngũ vị Quân Thần chỉ quyết)]

Sưthượng đường dạy chúng:

- KhiHướng làm sao? Khi Phụng làm sao? Khi Công làm sao? Khi CộngCông làm sao? Khi Công Công làm sao?

Cóvị Tăng đứng ra hỏi:- Thế nào là Hướng?

Sưđáp:- Khi ăn cơm thì sao?

- Thếnào là Phụng?

- Khitrái thì sao?

- Thếnào là Công?

- Khibuông cuốc thì sao?

- Thếnào là Cộng Công?

- Chẳngđược sắc.

- Thếnào là Công Công?

- Chẳngchung.

Sưnói tụng:

Hướng

Thánh chúa do lai pháp đế Nghiêu

Ngự nhân dĩ lễ khúc long yêu

Hữu thời náo thị đầu biên quá

Đáo xứ văn minh hạ thánh triều.

Phụng

Tịnh tẩy nùng trang vi a thùy

Tử qui thanh lý khuyến nhân qui

Bách hoa lạc tận đề vô tận

Cánh hướng loạn phong thâm xứ đề.

Công

Khô mộc hoa khai kiếp ngoại xuân

Đảo ky ngọc tượng sấn kỳ lân

Nhi kim cao ẩn thiên phong ngoại

Nguyệt kiểu phong thanh hảo nhật thần.

Cộngcông

Chúng sanh chư Phật bất tương xâm,

Sơn tự cao hề thủy tự thâm

Vạn biệt thiên sai minh để sự

Chá cô đề xứ bách hoa tân.

CôngCông

Đầu giác tài sanh dĩ bất kham

Nghĩ tâm cầu Phật hão tu tàm

Điều điều không kiếp vô nhân hức

Khẳng hướng nam tuần ngũ thập tam.

DỊCH

Hướng

Thánh chúa từng dùng pháp đế Nghiêu

Kẻ hầu theo lễ khúc long yêu

Chợ ồn có lúc đi qua thẳng

Đến chỗ văn minh mừng thánh triều.

Phụng

Tắm sạch máu me đấy là ai?

Ngươi trong âm hưởng khuyến người về

Trăm hoa rụng hết, ca không bặt

Lại đến núi sâu hót mải mê.

Công

Hoa nở cây khô, xuân kiếp ngoại

Ngả lưng tượng ngọc, đuổi kỳ lân

Ngoài ngàn chót núi hôm nay ẩn

Trăng sáng gió lành buổi sáng tươi.

CộngCông

Chúng sanh chư Phật nào lẫn xen

Núi tự cao chừ nước tự sâu

Ngàn sai muôn biệt sự quá rõ

Chá cô vừa hót trăm hoa cười.

CôngCông

Đầu mới mọc sừng việc chẳng nên

Đem tâm cầu Phật thật hư hèn

Xa xôi không kiếp nào ai biết

Chịu hướng về nam năm mươi ba

*

TuyếtPhong (Nghĩa Tồn) bửa củi, bèn bó một bó củi ném trướcmặt Sư. Sư hỏi:- Nặng nhiều ít?

TuyếtPhong thưa:- Người khắp trên mặt đất chung giở không nổi.

Sưhỏi:- Sao đem đến đây được?

TuyếtPhong đáp không được.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Luônluôn siêng lau chùi, vì sao không được y bát? Chẳng biếtngười nào nên được?

Sưbảo:- Người không vào cửa được.

Tăngthưa:- Vả như người không vào cửa lại được hay không?

Sưbảo:

- Tuynhiên như thế, chẳng được, chẳng cùng kia từ chối. Nóithẳng rằng "xưa nay không một vật", vẫn chưa nên đượcy bát kia. Ngươi hỏi người nào nên được, nơi đây nêncó một chuyển ngữ, hãy nói có chuyển ngữ gì?

Tăngnói đến chín mươi sáu chuyển ngữ mà chưa khế hợp, mộtchuyển ngữ sau rốt mới khế hợp ý Sư. Sư bảo:

- Xà-lêsao không nói chuyển ngữ ấy trước?

Cóvị Tăng hỏi:

- Bìnhthường Thầy dạy chúng con đi đường chim (điểu đạo),chưa biết thế nào là đường chim?

Sưbảo:- Chẳng gặp một người.

Tăngthưa:- Thế nào là đi?

Sưbảo:- Phải ngay dưới chân không việc khác.

Tăngthưa:- Như đi đường chim, phải là "bản lai diện mục" chăng?

Sưbảo:- Xà-lê nhân đâu mà điên đảo?

Tăngthưa:- Chỗ nào là con điên đảo?

Sưbảo:- Nếu không điên đảo vì sao lại nhận giặc làm con?

Tăngthưa:-Thế nào là bản lai diện mục?

Sưbảo:- Chẳng đi đường chim.

*

Banđêm tham vấn mà không thắp đèn. Có vị Tăng ra thưa hỏixong thối lui. Sư bảo thị giả thắp đèn và gọi vị Tăngvừa thưa hỏi đến. Vị Tăng ấy ra đến gần Sư, Sư bảo:

- Lấyhai ba lượng phấn đến cho Thượng tọa này.

VịTăng ấy phủi áo trở lui. Từ đây tỉnh giác bèn đem tấtcả y và dụng cụ cho hết, thiết trai cúng dường.

Đếnba năm sau vị Tăng ấy đến từ giã Sư, Sư bảo:

- Đivui vẻ!

Lúcđó, Tuyết Phong đứng hầu, hỏi Sư:

- VịTăng này từ giã bao lâu sẽ trở lại?

Sưbảo:

- Ychỉ biết một lần đi, mà không biết trở lại.

VịTăng ấy về nhà tăng đến chỗ để y bát, ngồi tịch. TuyếtPhong đến báo tin cho Sư. Sư bảo:

- Tuynhiên như thế, so với lão tăng vẫn còn ba đời.

*

Sưthượng đường dạy chúng:

- Lạicó người không đền đáp bốn ân ba cõi chăng?

Chúngđều không đáp, Sư lại bảo:

- Nếuchẳng thể nhận ý này, làm sao vượt khỏi hoạn trước sau.Hẳn phải tâm tâm chẳng chạm vật, bước bước không chỗnơi, thường không gián đoạn mới được tương ưng. Cầnphải nỗ lực, chớ nhàn rỗi qua ngày!

*

TàoSơn Bổn Tịch đến từ Sư, Sư bèn phó chúc:

- Taở chỗ Tiên sư Vân Nham thân được ấn chứng "Bảocảnh tam-muội" là yếu chỉ cùng tột, nay phó chúc cho ngươi.Lời rằng:

Như thị chi pháp Phật Tổ mật phó

Nhữ kim đắc chí Nghi thiện bảo hộ.

Ngân uyển thạnh tuyết Minh nguyệt tàng lộ

Loại chi phất tề Hỗn tắc tri xứ.

Ý bất tại ngôn Lai cơ diệc phó

Động thành sào cựu Sai lạc cố trữ.

Bối xúc câu phi Như đại hỏa tụ

Đản hình văn thể Tức thuộc nhiễm ô.

Dạ bán chánh minh Thiên hiểu bất lộ

Vị vật tác tắc Dụng bạt chư khổ.

Tuy phi hữu vi Bất thị vô ngữ

Như lâm Bảo cảnh Hình ảnh tương đổ.

Nhữ bất thị cừ Cừ chánh thị nhữ

Như thế anh nhi Ngũ tướng hoàn cụ.

Bất khứ bất lai Bất khởi bất trụ

Bà bà hòa hòa Hữu cú vô cú.

Chung bất đắc vật Ngữ vị chánh cố

Trùng ly lục hào Thiên chánh hồi hỗ.

Điệp nhi vi tam Biến tận thành ngũ

Như trị thảo vị Như kim cang Sử.

Chánh trung diệu hiệp Saoxướng song cử.

Thông tông thông đổ Hiệp đới hiệp lộ

Thố nhiên tắc cát Bất khả phạm ngỗ.

Thiên chân nhi diệu Bất thuộc mê ngộ

Nhân duyên thời tiết Tịch nhiên chiêu trước.

Tế nhập vô gian Đại tuyệt phương sở

Hào hốt chi sai Bất ưng luật lữ.

Kim hữu đốn tiệm Duyên lập tông thú

Tông thú phân hỷ Tức thị qui củ.

Thông thông thú cực Chân thường lưu chú

Ngoại tịch trung diêu Hệ câu phục thử.

Tiên Thánh bi chi Vị pháp đàn độ

Tùy kỳ điên đảo Dĩ tri vi tố.

Điên đảo tưởng diệt Khẳng tâm tự hứa

Yếu hiệp cổ triệt Thỉnh quân tiền cổ.

Phật đạo thùy thành Thập kiếp quán thọ

Như hổ chi khuyết Như mã chi chú.

Dĩ hữu hạ liệt Bảo kỷ trân ngự

Dĩ hữu kinh dị Ly nô bạch cổ.

Nghệ dĩ xảo lực Xạ trúng bách bộ

Tiên phong tương trị Xảo lực hà dư.

Mộc nhân phương ca Thạch nữ khởi vũ

Phi tình thức đáo Ninh dung tư lự.

Thần phụng ư quân Tử thuận ư phụ

Bất thuận phi hiếu Bất phụng phi phụ.

Tiềm hành mật dụng Như ngu như lỗ

Đản năng tương tục Danh chủ trung chủ.

DỊCH

Pháp như thế ấy Phật Tổ thầm trao

Nay ngươi được đó Nên khéo giữ gìn.

Chén bạc đựng tuyết Trăng sáng che cò

Loại đó chẳng đồng Lẫn thì biết chỗ.

Ý chẳng ở lời Cơ đến cũng đến

Động thành hang ổ Sai rơi đoái giữ.

Tránh chạm đều lỗi Như đống lửa lớn

Chỉ bày màu vẻ Liền thuộc nhiễm ô.

Nửa đêm sáng tỏ Trời sáng chẳng bày

Vì vật làm phép Dùng nhổ các khổ.

Tuy chẳng hữu vi Chẳng phải không nói

Như đến gương báu Hình bóng thấy nhau.

Ngươi chẳng phải y Y chính là ngươi

Như trẻ trong nôi Năm tướng đầy đủ.

Chẳng đi chẳng lại Chẳng dậy chẳng đứng

Tu oa! Tu oa! Có câu không câu

Trọn chẳng được vật Vì lời chưa rõ.

Lại lìa sáu hào Thiên chánh hồi hỗ

Chồng chất làm ba Biến khắp thành năm

Như vị cô trị Như sử Kim Cang.

Chánh trung khéo gộp Nhịpxướng đồng cử

Thông tông thông đồ Gộp hẹp gộp rộng

Yên lặng thì tốt Chẳng nên phạm nghịch.

Thiên chân mà diệu Chẳng thuộc mê ngộ

Thời tiết nhân duyên Lặng lẽ rành rõ.

Nhỏ vào chẳng hở Lớn tột chỗ nơi

Sai trong mảy may Chẳng hợp luật lữ.

Nay có đốn tiệm Duyên lập tông thú

Tông thú phân vậy Tức là qui củ

Tông không thú tột Chân thường trôi chảy.

Ngoài yên trong loạn Cột ngựa dẹp chuột

Thánh trước thương đó Vì làmpháp thí.

Tùy kia điên đảo Lấy nâu làm trắng

Tưởng điên đảo diệt Là tâm tự nhận.

Cốt hiệp vết xưa Xin xem xưa trước

Phật đạo sắp thành Mười kiếp quán cây.

Như hang của cọp Như trạm của ngựa

Do có thấp kém Bàn báu xe quí.

Do có sợ hãi Mèo nhà bò trắng

Nghề do sức kéo Trăm bước bắn trúng.

Tên nhọn sắp chạm Sức khéo làm gì?

Người gỗ vừa ca Gái đá đứng múa

Tình thứ chẳng đến Đâu cho suy nghĩ.

Thần phụng nơi vua Con thuận nơi cha

Không thuận chẳng hiếu Không phụngchẳng phụ.

Làm thầm dụng kín Như ngu như ngốc

Chỉ hay tiếp nối Gọi chủ trong chủ.

*

Sưlại bảo: Thời đại mạt pháp người nhiều càn tuệ, nếucần nghiệm rõ chân ngụy có ba thứ sấm lậu (rỉ chảy).Một là kiến sấm lậu, căn cơ không rời địa vị, rơi trongbiển độc. Hai là tình sấm lậu, dính mắc tại xoay về vàbỏ đi, chỗ thấy chênh lệch khô khan. Ba là ngữ sấm lậu,giỏi nghiên cứu mất chân tông, căn cơ mờ mịt trước sau,trí ô trọc trôi chảy. Đối ba thứ này, ngươi phải khéobiết.

Sưlại làm ba bài kệ cương yếu:

1.- Sao xướng câu hành

Kim châm song tỏa bị

Hiệp lộ ẩn toàn cai

Bảo ấn đương phong diệu

Trùng trùng cẩm phùng khai.

2.- Kim tỏa huyền lộ

Giáo hỗ minh trung ám

Công tề chuyển giác nan

Lực cùng vong tiến thối

Kim tỏa võng man man.

3.- Bất đọa phàm thánh

Sư lý câu bất thiệp

Hồi chiếu tuyệt u vi

Bối phong vô xảo chuyết

Điện hỏa thước nan trung.

DỊCH

1.- Nhịp xướng đồng hành

Chìa vàng hai khóa đủ

Ẩn bày thảy bao trùm

Ấn báu tài chống gió

Lụa gấm đứt đường khâu

2.- Lưới vàng bủa đường huyền

Lẫn nhau sáng trong tối

Chuyển giác khó, công bằng

Sức tột quên lui tới

Lưới vàng bủa khắp nơi

3.- Chẳng rơi phàm thánh

Sự lý đều chẳng mắc

Soi lại bặt u vi

Trái gió không khéo vụng

Điện chớp khó theo tầm.

Sưlại làm kệ rằng:

Đạo vô tâm hiệp nhân

Nhân vô tâm hiệp đạo

Dục thức cá trung ý

Nhất lão nhất bất lão.

DỊCH

Đạo không tâm hợp người

Người không tâm hợp đạo

Muốn biết ý trong đó

Một già một chă?g già.

Sưbệnh, sai Sa-di báo tin Vân Cư hay. Sư dặn Sa-di:

- VânCư hoặc hỏi Hòa thượng an vui chăng, ngươi chỉ nói "conđường Vân Nham sắp dứt". Ngươi nói xong phải đứng xa,e y đánh ngươi.

Sa-dilãnh mệnh đi báo tin, nói chưa dứt lời đã bị Vân Cư đánhmột gậy.

*

Sắpviên tịch, Sư bảo chúng:

- Tacó tiếng tăm ở đời, người nào vì ta trừ được?

Cảchúng đều không đáp được, lúc đó ông Sa-di ra thưa:

- Xinpháp hiệu Hòa thượng.

Sưbảo:- Tiếng tăm của ta đã hết.

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng bệnh lại có cái chẳng bệnhchăng?

Sưđáp:- Có.

Tăngthưa:- Cái chẳng bệnh lại thấy Hòa thượng chăng?

Sưbảo:- Lão tăng xem y có phần.

Tăngthưa:- Chưa biết Hòa thượng làm sao xem y?

Sưbảo:- Khi Lão tăng xem chẳng thấy có bệnh.

Sưlại hỏi Tăng:

- Lìacái thân hình hài rỉ chảy này, ngươi đến chỗ nào cùngta thấy nhau?

Tăngkhông đáp được

Sưbèn làm bài kệ:

Học giả hằng sa vô nhất ngộ

Quá tại tầm tha thiệt đầu lộ

Dục đắc vong hình dẫn tung tích

Nỗ lực ân cần không lý bộ.

DỊCH

Kẻ học hằng sa ngộ mấy người

Lỗi tại tầm y trên đầu lưỡi

Muốn được quên thân bặt dấu vết

Nỗ lực trong không bước ấy ngươi.

Sưsai cạo tóc tắm gội xong, đắp y bảo chúng đánh chuông,giã từ chúng ngồi yên mà tịch. Đại chúng khóc lóc mãikhông dứt. Sư chợt mở mắt bảo:

- Ngườixuất gia tâm chẳng dính mắc nơi vật, là tu hành chân chánh.Sống nhọc thích chết, thương xót có lợi ích gì?

Sưbảo chủ sự sắm trai ngu si để cúng dường. Chúng vẫn luyếnmến quá, kéo dài đến ngày thứ bảy. Khi thọ trai, Sư cũngtùng chúng thọ. Thọ trai xong, Sư bảo chúng: - Tăng-già khôngviệc, sắp đến giờ ra đi, chớ làm ồn náo.

Sưvào trượng thất ngồi yên mà tịch.

Bấygiờ là tháng ba năm thứ mười niên hiệu Hàm Thông nhà Đường(869). Sư thọ sáu mươi ba tuổi, được bốn mươi hai tuổihạ. Vua sắc phong là Ngộ Bổn Thiền sư.

8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com