Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Thiền sư Huệ Hải (Ðại Châu)

03/09/201109:39(Xem: 3183)
15. Thiền sư Huệ Hải (Ðại Châu)

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 1

ĐỜI THỨ BA SAU LỤC TỔ

B.Phái Hoài Nhượng

15.THIỀN SƯ HUỆ HẢI
(ÐạiChâu)

Sưhọ Châu, quê ở Kiến Châu, theo Hòa thượng Ðạo Trí chùỪạo Vân ở Việt Châu xuất gia học đạo.

Sưđến tham vấn Mã Tổ.

MãTổ hỏi:- Từ đâu đến?

Sưthưa:- Ở Việt Châu chùa Ðại Vân đến.

- Ðếnđây tính cầu việc gì?

- Ðếncầu Phật pháp.

- Khobáu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì?

Sưlễ bái, thưa:- Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?

- Chínhnay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cảkhông thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bênngoài.

Ngaycâu này, Sư tự nhận bản tâm không do hiểu biết, vui mừnglễ tạ. Sư ở hầu Mã Tổ sáu năm.

*

Vìbổn sư tuổi già, Sư phải về phụng dưỡng. Từ đây, Sưtàng ẩn chỗ thâm ngộ của mình, chỉ hiện bề ngoài nhưkẻ tầm thường. Sư có soạn quyển "Ðốn Ngộ Nhập ÐạoYếu Môn Luận", bị Huyền Ấn là cháu trong pháp môn lén lấyđến trình Mã Tổ.

MãTổ xem xong, bảo chúng:

- ViệtChâu có Ðại Châu (hạt châu lớn) tròn sáng thấu suốt tựtại không ngại.

Khiấy, ở trong chúng có người biết Sư họ Châu bèn rủ nhaulần lượt tìm đến Sư, thưa hỏi và nương tựa. Từ đóngười ta gọi Sư là Ðại Châu Hòa thượng.

*

Sưbảo những vị đến tham vấn:

- Thiềnkhách! Tôi chẳng hội thiền, trọn không có một pháp có thểchỉ dạy người, không phiền các vị đứng lâu, hãy tựđi nghỉ.

Tuyvậy, mà học chúng dần dần thêm đông, ngày đêm thưa hỏi.Sư bất đắc dĩ vì hỏi giải đáp, biện tài không ngại.

*

Cóvài vị Pháp sư đến hỏi:

- Ðịnhhỏi một câu, Thầy có vui lòng đáp lại chăng?

Sưbảo:- Bóng trăng dưới đầm sâu, mặc ý mò bắt.

- Thếnào là Phật?

- Hồnước trong đối diện, chẳng phải Phật là gì?

Cácvị ấy còn ngơ ngác, không biết gì cả. Giây lâu có vịlại hỏi:

- Thầynói pháp gì độ người?

- Bầnđạo chưa từng có một pháp gì độ người.

- Thiềnsư nhà tối như thế.

- Ðạiđức nói pháp gì độ người?

- Giảngkinh Kim Cang Bát-nhã.

- Giảngđược bao nhiêu lần?

- Hơnhai mươi lần.

- Kinhnày ai nói?

Phápsư tằng hắng lên giọng gắt:

- Thiềnsư khéo nói đùa, há không biết Phật nói sao?

- "Nếunói Như Lai có nói pháp là chê bai Phật, người ấy khônghiểu nghĩa ta nói." (kinh Kim Cang) Nếu nói kinh này không phảiPhật nói tức là phỉ báng kinh. Thỉnh Ðại đức nói xem?

Phápsư im lặng không đáp được.

Sưlại hỏi:

- Kinhnói: "Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, ngườiấy hành đạo tà, không thể thấy Như Lai." Ðại đức hãynói cái gì là Như Lai?

- Ðếnchỗ này tôi mê hẳn?

- Từtrước đến giờ chưa từng ngộ, nói cái gì là mê?

- ThỉnhThiền sư vì tôi nói!

- Ðạiđức giảng kinh hơn hai mươi lượt, lại chưa biết Như Lai?

Phápsư lại lễ bái, cầu xin chỉ dạy.

Sưbảo:

- NhưLai là nghĩa như của các pháp, đâu thể quên được.

- Phải.Là nghĩa như của các pháp.

- Ðạiđức nói phải, cũng chưa phải.

- Vănkinh rõ ràng đâu thể chưa phải?

- Ðạiđức "Như" chăng?

- Như.

- Câycỏ như chăng?

- Như.

- Ðạiđức như, đồng cây cỏ như chăng?

- Khônghai.

- Ðạiđức cùng cây cỏ đâu khác?

Phápsư không đáp được, im lặng giây lâu lại hỏi:

- Thếnào được Ðại Niết-bàn?

- Chẳngtạo nghiệp sanh tử.

- Thếnào là nghiệp sanh tử?

- Cầờại Niết-bàn là nghiệp sanh tử, bỏ nhơ lấy sạch là nghiệpsanh tử, có đắc có chứng là nghiệp sanh tử, không vượtkhỏi môn đối trị là nghiệp sanh tử.

- Thếnào chóng được giải thoát?

- Vốntự không phược (trói buộc) chẳng cần cầu giải thoát,dùng thẳng hành thẳng là không thứ bực.

Phápsư khen:- Thiền sư như Hòa thượng thật là ít có.

Khenxong, Pháp sư lễ tạ lui ra.

*

Cóvị cư sĩ đến hỏi:- Tức tâm tức Phật, cái gì là Phật?

Sưbảo:- Ông nghi cái gì không phải Phật chỉ ra xem!

Cưsĩ lặng thinh.

Sưnói tiếp:- Ðạt thì khắp cảnh là Phật, chẳng ngộ hằngtrái xa.

*

CóLuật sư hiệu Pháp Minh đến nói:

- CácThiền sư phần nhiều rơi vào không.

Sưbảo:- Trái lại, các Tọa chủ phần nhiều rơi vào không.

PhápMinh hoảng sợ hỏi:- Tại sao rơi vào không?

- Kinhluận là giấy mực văn tự, giấy mực văn tự đều là không,dù trên tiếng dựng lập danh, cú, văn, thân, đâu chẳng phảilà không, Tọa chủ bám chặt vào giáo thể đâu chẳng rơivào không?

- Thiềnsư rơi vào không chăng?

- Văntự v.v... đều từ trí tuệ mà sanh, đại dụng hiện tiềnđâu thể rơi vào không.

- Chobiết một pháp không đạt, chẳng gọi là tất-đạt.

- Luậtsư chẳng những rơi vào không, lại còn dùng lầm danh ngôn.

PhápMinh đổi sắc mặt, hỏi:- Lầm chỗ nào?

- Luậtsư chưa rành âm Trung Hoa và Phạn, làm sao giảng thuyết?

- ThỉnhThiền sư chỉ ra chỗ lầm của Pháp Minh?

- Ðâuchẳng biết "tất-đạt" là tiếng Phạn sao?

PhápMinh tuy nhận thấy lỗi, mà tâm vẫn còn giận, lại hỏi:

- PhàmKinh, Luật, Luận là lời Phật, đọc tụng y giáo phụng hành,sao chẳng thấy tánh?

- Nhưchó điên đuổi bóng, sư tử ăn thịt người. Kinh, Luật,Luận là tự tánh dụng, người đọc tụng là tánh pháp.

- PhậtA-di-đà có cha mẹ và họ chăng?

- PhậtA-di-đà họ Kiều-thi-ca, cha tên Nguyệt Thượng, mẹ tên ThùThắng Diệu Nhan.

- Xuấtphát từ kinh điển nào?

- Xuấtphát từ tập Ðà-la-ni.

PhápMinh lễ tạ khen ngợi lui ra.

*

Cóvị Pháp sư thông Tam tạng đến hỏi:- Chân như có biến đổichăng?

Sưđáp:- Có biến đổi.

- Thiềnsư lầm.

- Ðạiđức có chân như chăng?

- Có.

- Nếukhông biến đổi quyết định Ðại đức là phàm Tăng. Ðâuchẳng nghe: "Thiện tri thức hay chuyển ba độc thành ba móntịnh giới, chuyển sáu thức thành sáu thần thông, chuyểnphiền não thành Bồ-đề, chuyển vô minh thành đại trí chânnhư." Nếu không biến đổi , Ðại đức thật là ngoại đạochủ trương tự nhiên vậy.

- Nếuvậy chân như tức có biến đổi.

- Nếuchấp chân như có biến đổi cũng là ngoại đạo.

- Thiềnsư vừa nói chân như có biến đổi, giờ lại nói không biếnđổi, vậy thế nào thật đúng?

- Nếungười thấy tánh rõ ràng, như hạt châu ma-ni hiện sắc, nóibiến đổi cũng được, nói không biến đổi cũng được.Nếu người không thấy tánh, nghe nói chân như biến đổibèn hiểu biến đổi, nghe nói không biến đổi bèn hiểu khôngbiến đổi.

Phápsư khen:

- Nênbiết, Nam tông (Thiền đốn ngộ miền Nam) không thể lường.

*

Luậtsư Nguyên đến hỏi:- Hòa thượng tu có dụng công chăng?

Sưđáp:- Dụng công.

- Dụngcông thế nào?

- Khiđói thì ăn, khi mệt thì ngủ.

- Tấtcả người đều như vậy, đồng chỗ dụng công của Thầychăng?

- Chẳngđồng.

- Tạisao chẳng đồng?

- Họkhi ăn chẳng chịu ăn, đòi trăm thứ cần dùng, khi ngủ chẳngchịu ngủ, tính toán ngàn chuyện, do đó chẳng đồng.

Nguyênim lặng.

*

Ðạiđức Uẩn Quang đến hỏi:- Thiền sư tự biết chỗ sanh chăng?

Sưđáp:

- Chưatừng tử đâu cần luận sanh. Biết sanh tức là pháp khôngsanh, chẳng lìa pháp sanh nói có không sanh. Tổ sư nói: "Chínhcái sanh tức không sanh."

- Ngườikhông thấy tánh cũng được như vậy chăng?

- Tựchẳng thấy tánh chẳng phải không tánh. Vì sao? Thấy tứclà tánh, không tánh thì không thể thấy. Thức tức là tánh,nên gọi thức tánh. Liễu tức là tánh, nên gọi liễu tánh.Hay sanh muôn pháp gọi là pháp tánh, cũng gọi là pháp thân.Tổ sư Mã Minh nói: "Nói là pháp tức là tâm chúng sanh, nếutâm sanh nên tất cả pháp sanh, nếu tâm không sanh, pháp khôngnương đâu sanh, cũng không danh tự." Người mê không biếtpháp thân không hình tượng hay ứng vật hiện hình, bèn nói:"Trúc biếc xanh xanh đồng là pháp thân, hoa vàng mịt mịtthảy đều Bát-nhã."(Thanh thanh thúy trúc tổng thị pháp thân,uất uất hoàng hoa vô phi Bát-nhã.) Hoa vàng nếu là Bát-nhã,Bát-nhã tức đồng vô tình, trúc biếc nếu là pháp thân,pháp thân tức đồng cây cỏ. Như người ăn măng tức làăn pháp thân.

Nhữnglối nói như thế đâu thể kể chép hết. Ðối diện mê Phậtnhiều kiếp mong cầu, trong pháp thể mà mê lầm, chạy tìmkiếm bên ngoài. Thế nên, người hiểu đạo đi đứng ngồinằm đều là đạo, người ngộ pháp tung hoành tự tại đềulà pháp.

- Hưkhông hay sanh linh tri chăng? Chân tâm duyên thiện ác chăng?Người tham dục là đạo chăng? Người chấp phải quấy vềsau tâm thông chăng? Người xúc cảnh sanh tâm có định chăng?Người trụ chỗ yên lặng có tuệ chăng? Người ôm lòng khinhngười có ngã chăng? Người chấp không chấp hữu có tríchăng? Người tầm văn thủ chứng, người khổ hạnh cầuPhật, người lìa tâm cầu Phật, người chấp tâm là Phật,trí này hợp đạo chăng? Thỉnh Thiền sư mỗi mỗi vì đáp:

Hưkhông chẳng sanh linh tri, chân tâm chẳng duyên thiện ác, ngườichìm sâu trong tham dục căn cơ cạn, người phải quấy lăngxăng chưa thông, người xúc cảnh sanh tâm ít định, ngườiyên lặng quên hết là tuệ chìm, người khinh người cao mạnlà ngã mạn, người chấp không chấp có đều ngu, ngườitầm văn thủ chứng thêm kẹt, người khổ hạnh cầu Phậtlà mê, lìa tâm cầu Phật là ngoại đạo, chấp tâm là Phậtlà ma.

- Nếunhư thế thì rốt ráo không thể có?

- Rốtráo là Ðại đức, chẳng phải rốt ráo không thể có.

UẩnQuang vui mừng lễ tạ.

*

Tọachủ giảng kinh Duy-ma-cật hỏi:

- Kinhnói: "Lục sư v.v... ngoại đạo kia là thầy của ngươi, nhânkia xuất gia, thầy kia bị đọa ngươi cũng theo đó mà đọa.Người thí cho ngươi chẳng gọi phước điền, cúng dườngcho ngươi đọa trong ba đường ác. Chê Phật, hủy Pháp, chẳngvào chúng số, trọn chẳng được diệt độ. Ngươi nếu nhưthế mới nên nhận thức ăn." (kinh Duy-ma) Thỉnh Thiền sưvì giải thích.

Sưđáp:

- Ngườimê chạy theo sáu căn gọi là lục sư, ngoài tâm cầu Phậtgọi là ngoại đạo, thấy có vật để thí chẳng gọi phướcđiền, sanh tâm nhận cúng dường đọa ba đường ác. Ngườinếu hay chê bai Phật là chẳng dám cầu Phật, hủy báng pháplà chẳng dám cầu Pháp, chẳng vào chúng số là chẳng dámcầu Tăng, trọn chẳng được diệt độ là trí dụng hiệntiền. Nếu có người hay hiểu như thế liền được thứcăn thiền duyệt pháp hỉ.

*

Tọachủ hỏi:

- KinhBát-nhã nói: "độ chín loài chúng sanh đều vào vô dư Niết-bàn",lại nói: "thật không chúng sanh được diệt độ". Hai đoạnvăn kinh này làm sao hội thông? Người xưa nay đều nói "thậtđộ chúng sanh mà chẳng nhận tướng chúng sanh". Tôi còn nghichưa giải quyết, thỉnh Thiền sư vì giải thích.

- Chínloài chúng sanh trong một thân đầy đủ, tùy tạo tùy hành:vô minh là noãn sanh (sanh bằng trứng), ôm ấp phiền não ởtrong là thai sanh (sanh bằng bào thai), nước ái thấm ướtlà thấp sanh (sanh chỗ ẩm ướt), nóng nảy khởi phiền nãolà hóa sanh (từ loài này hóa sanh loài khác). Ngộ tức làPhật, mê gọi là chúng sanh. Bồ-tát chỉ lấy tâm sanh niệmniệm làm chúng sanh, nếu rõ tâm ở trên bản tế (nguồn tâm)của mình mà độ lúc chưa hiện bày, chưa hiện bày đềukhông, tức biết thật không có chúng sanh được diệt độ.

*

Sưthượng đường dạy:

- Cácngươi may mắn tự khéo giữ cái vô sự. Kẻ nhọc nhằn tạotác là mang cùm sa ngục chớ gì? Mỗi ngày từ sáng đến tốibôn ba nói: "ta tham thiền học đạo, hiểu thấu Phật pháp".Như thế càng không dính dáng gì, chỉ chạy theo thanh sắc,biết khi nào dứt. Bần đạo đến tham vấn Hòa thượng ởGiang Tây (Mã Tổ), Hòa thượng dạy: "Kho báu nhà của ngươiđầy đủ tất cả, sử dụng tự tại chẳng nhờ cầu bênngoài." Bần đạo từ đây thảy thôi, của báu của mình tùythân thọ dụng, có thể nói sống thích thú, không một phápcó thể thủ, không một pháp có thể xả, chẳng thấy mộtpháp tướng sanh diệt, chẳng thấy một vật tướng qua lại,khắp mười phương thế giới không có bằng hạt bụi màchẳng phải của báu nhà mình. Chỉ tự quan sát kỹ càng,tâm mình một thể Tam Bảo, thường tự hiện trước, khôngthể nghi ngờ. Chớ suy xét, chớ tìm kiếm, tâm tánh xưa naythanh tịnh. Kinh Hoa Nghiêm nói: "Tất cả pháp chẳng sanh, tấtcả pháp chẳng diệt, nếu hay hiểu như thế, chư Phật thườnghiện tiền." Kinh Tịnh Danh nói: "Quán thân thật tướng, quánPhật cũng vậy." Nếu chẳng theo thanh sắc mà động niệm,chẳng theo tướng mạo mà sanh hiểu, tự nhiên vô sự. Ði!Chớ đứng lâu. Trân trọng!

Hômnay đại chúng nhóm họp mãi không giải tán.

Sưhỏi:

- Cácngươi vì cớ sao ở đây mãi không đi? Bần đạo đã đốidiện trình nhau, lại chịu thôi chăng? Có việc gì khả nghi?Chớ lầm dụng tâm uổng phí khí lực. Nếu có nghi ngờ, cácngươi tùy ý thưa hỏi.

Cóvị Tăng hỏi:

- Thếnào là Phật? Thế nào là Pháp? Thế nào là Tăng? Thế nàolà một thể Tam Bảo?

Sưđáp:

- Tâmlà Phật, chẳng cần đem Phật cầu Phật, tâm là Pháp, chẳngcần đem pháp cầu pháp, Phật Pháp hòa hợp không hai là Tăng,tức là một thể Tam Bảo. Kinh nói: "Tâm, Phật, Chúng sanhcả ba không khác." Thân khẩu ý thanh tịnh gọi là Phật rađời, ba nghiệp thanh tịnh gọi là Phật diệt độ. Dụ nhưkhi giận thì không vui, khi vui thì không giận. Chỉ là mộttâm, thật không hai thể. Bản trí sẵn vậy, vô lậu hiệntiền, như rắn hóa thành rồng không đổi vảy, chúng sanhhồi tâm thành Phật chẳng đổi mặt. Tánh vốn thanh tịnhchẳng đợi tu hành, có chứng có tu tức đồng người tăngthượng mạn. Chân không chẳng kẹt, ứng dụng không cùng,không thủy không chung. Người lợi căn đốn ngộ dụng khôngthứ bực, tức là A-nậu-bồ-đề (Vô thượng chánh giác).Tâm không hình tướng tức là Sắc thân vi diệu. Không tướnglà thật tướng pháp thân. Thể tánh tướng đều không tứclà thân hư không vô biên. Muôn hạnh trang nghiêm tức là côngđức Pháp thân. Pháp thân này là gốc của muôn hóa, tùy chỗđặt tên: trí dụng không hết gọi là Vô tận tạng (kho khônghết), hay sanh muôn pháp gọi là Bản pháp tạng (kho gốc cácpháp), đủ tất cả trí gọi là Trí tuệ tạng (kho trí tuệ),muôn pháp về như gọi là Như lai tạng (kho như lai). Kinh nói:"như lai đó, tức nghĩa như của các pháp", lại nói: "Tấtcả pháp sanh diệt thế gian, không có một pháp chẳng vềnhư."

*

Sưthọ bao nhiêu tuổi, tịch lúc nào và nơi nào, chẳng thấyở đâu ghi.

8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com