Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

142. Kinh Phân Biệt Cúng Dường

19/05/202011:36(Xem: 11469)
142. Kinh Phân Biệt Cúng Dường

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


142. Kinh  PHÂN BIỆT CÚNG DƯỜNG

( Dakkhinàvibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Giữa dòng họ Sắc-Dá (Thích-Ca),  (1)

              Ca-Tỳ-La-Vệ (1) trú qua

       Tại Tinh Xá Ni-Gô-Tha (2) một miền

         (Ni-Câu-Luật Thọ Viên) hoằng đạo.

 

          Vị Di-mẫu là Gô-Ta-Mi    (3)

             (Hay gọi là Kiều-Đàm-Di)

       Ma-Ha-Pa-Chá-Pa-Ti nghiêm hiền

          Để gieo duyên cúng dường Đức Phật

          Tự tay dệt, nhuộm, cắt, may y.

              Xong đến, lễ đấng Toàn Tri

       Một bên ngồi xuống, tức thì thưa qua :

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Cặp y đặc biệt

          Do con dệt, rồi nhuộm, cắt, may

              Xin dâng đến Thế Tôn Ngài,

       Mong Ngài từ mẫn, y này nhận cho ”.

    _____________________________

 

( ) : Thành Ca-Tỳ-La-Vệ  – Kapilavatthu  – là thủ phủ của vương

       triều dòng họ Sakya (Thích Ca).

(2) : Tinh Xá Nigrodha – Ni-Câu-Luật Thọ Viên  – ở ngoại thành

      Kapilavatthu.

(3) : Thứ Hậu của Vua Tịnh Phạn (Suddhodana) cũng là Dì ruột

      (Di-mẫu) của Đức Phật : Bà MahàPajapati Gotami  (Đại Ái-

      Đạo Kiều-Đàm-Di). Vì Hoàng hậu MahàMaya, 7 ngày sau khi

     sinh đã thăng hà nên Di-mẫu đã nuôi dưỡng, tận tình chăm sóc

      Thái-tử Siddhattha (Sĩ-Đạt-Ta) tức Đức Phật sau này.

 

          Nghe nguyên do nhiệt thành tâm đạo

          Đức Thế Tôn liền bảo người dì :

 

        – “ Này Di-mẫu Gô-Ta-Mi !

       Hãy dâng y đến uy nghi Tăng-Già.

          Bà cúng dường Săng-Ga thanh tịnh,

          Ta cũng được tôn kính, ngưỡng vì ”.

 

              Đại Ái-Đạo Kiều-Đàm-Di

       Lần nữa, kính bạch với vì Thế Tôn : 

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Cặp y đặc biệt

          Chính tay con đã dệt, nhuộm, may

              Xin Ngài nhận cho y này ”.

 

       Phật lại khuyên dâng y này đến Tăng.

          Lần thứ ba muốn dâng đến Phật

          Cặp y thực hiện rất công phu,

              Nhưng mà đức Thiên Nhân Sư

       Vẫn khuyên dâng y đến Chư Tăng-Già :

 

    – “ Hãy dâng đến tịnh hòa Tăng Bảo

          Vì cúng dường Tăng Bảo (Săng-Ga)  ( Sangha )

              Thời Ta cũng được hưởng qua

       Sự cung kính, và Săng-Ga cũng vầy ”. 

 

          Nghe nói vậy, tâm ngay trong sạch

          A-Nan bạch đức Chánh Biến Tri :

        – “ Xin Thế Tôn hãy nhận y   

       Để Di-mẫu Gô-Ta-Mi vui lòng

          Vì Bà đã có công nuôi dưỡng

          Ân đức thật vô lượng với Ngài.

              Bà là dưỡng-mẫu quý thay !

       Kế mẫu, di mẫu của Ngài trước nay.

          Vì mẹ ruột của Ngài mất sớm

          Ngài bú mớm bằng sữa của Bà.

              Thế Tôn cũng giúp cho Bà,

       Nhờ có Phật Bảo mà Bà tín tâm 

          Quy y Phật, Pháp, Tăng – trì thọ

          Ngũ giới cấm : Từ bỏ sát sanh,

              Từ bỏ trộm cướp chẳng lành,

       Từ bỏ tà hạnh, bỏ nhanh những lời

          Nói láo và xa rời mê đắm

          Các loại rượu và lắm chất say.

              Có lòng tịnh tín đủ đầy

       Niềm tin Tam Bảo sâu dày bất di.

          Đức Bà Kiều-Đàm-Di cao cả

          Tức Ma-Ha Pa-Chá-Pa-Ti

              Với Giáo Pháp không còn nghi,

       Nương Tứ Diệu Đế diệu vi, hành trì

          Không còn nghi con đường Bát Chánh

          Giữ giới luật bậc Thánh tán dương.

              Xin Thế Tôn nhủ lòng thương

       Nhận y Di-mẫu cúng dường Thế Tôn ”.

 

          Đức Phật liền ôn tồn nói lại :

 

    – “ Thật như vậy, này A-Nan-Đa !

              Nếu do nhờ một người mà

       Khiến một người khác thiết tha ân cần

          Quy y Phật Pháp Tăng, vâng giữ

          Không có sự đền ơn nào bằng

              Với vị được gọi người ân

       Dù là đảnh lễ, ân cần chắp tay,

          Những việc thích hợp hay dâng cúng

          Như dâng y để cúng dường, và

              Thức ăn, dược phẩm, sàng tòa.

       Nếu do người nào đó mà người kia

          Có quyết tâm xa lìa tà ác,

          Giữ ngũ giới, làm các việc lành.

              Nếu do nhờ một người lành

       Mà một người khác phát sanh trọn đời

          Tin kiên cố ba ngôi Tam Bảo,

          Nương vào đạo, giới luật thanh cao.

 

              Hay là nhờ một người nào

       Mà người khác không phạm vào hoài nghi

          Tứ Diệu Đế – hoài nghi Khổ đế,

          Tập & Diệt và Đạo đế mọi thì,

              Con đường Thánh đạo tám chi.

       Ta nói rằng : ‘Với người vì thọ ơn

          Không có sự đền ơn nào xứng

          Với người kia, dù đứng thẳng người

              Chắp tay, đảnh lễ – đồng thời 

       Làm việc thích hợp, nói lời tán dương,

          Hay cúng dường đủ đầy tứ sự.

 

          A-Nan-Đa ! Thứ tự nên tường

              Có mười bốn loại cúng dường 

       Phân loại theo hạng người đương hướng vào :

      –  Cúng dường bậc thanh cao ưu thắng

          Như Toàn Tri, Chánh Đẳng Giác, và  

              Đại A-La-Hán, Phật Đà,

       Cúng dường thứ nhất kể ra như vầy.

      –  Bậc thứ hai là Độc Giác Phật

         (Bích-Chi Phật tức Bách-Chê-Ka)    ( Pacceka ) 

          –  Đến bậc cúng dường thứ ba

       Đệ tử của Phật, A-La-Hán toàn.

      –  Các vị đang trên đường để chứng       

          A-La-Hán (*) đáng cúng thứ tư. 

          –  Chứng quả Bất Lai (*) an như

       Thứ năm đáng thọ hữu dư cúng dường.

      –  Còn cúng dường bậc đang ròng rã

          A-Na-Hàm (*) đạo quả hướng vào

              Cúng dường thứ sáu thanh cao.

   –  Cúng dường các bậc chứng vào Nhất Lai

         (Tư-Đà-Hàm) (*) bậc này thứ bảy. 

      –  Các vị hãy còn trên con đàng

              Chứng quả Nhất Lai, là hàng

       Đáng cúng thứ tám. Còn hàng Thất Lai

      –  Dự Lưu quả, bậc này thứ chín.

      –  Bố thí chính vị đang trên đàng

              Chứng Dự Lưu, là cúng dàng  

       Thứ mười, phân loại theo hàng thấp cao.  

 

      –  Bố thí vào các vị ngoại học  (**)

          Đã ly tham trong các dục tà 

              Là thứ mười một kể ra.

   –  Bố thí kẻ phàm tục mà kẻ đây

          Giữ giới luật, mười hai được kể.

      –  Còn bố thí cho kẻ phàm phu

              Theo ác giới, không hề tu

       Mười ba bố thí phạm trù nêu danh.       

    ____________________________

 

*  Bốn thánh quả Thinh-Văn-Giác  : (1) :Tu-Đà-Hoàn ( Sotàpatti )   hay Dự Lưu quả hoặc Thất Lai quả (chỉ còn sinh lại thế gian 7 lần) (2) : Tư-Đà-Hàm ( Sakadàgàmi ) hay Nhất Lai quả (sinh lại 1 lần) 

(3) : A-Na-Hàm ( Anàgàmi ) hay Bất Lai quả ( sinh lên cung trời

      Tịnh Cư (Suddhàvàsa) để tiếp tục tu và nhập Vô Dư Niết Bàn .   

(4) : A-La-Hán ( Araham ) được dịch là Vô Sanh , Vô Học , Ứng

       Cúng, sau khi mạng chung sẽ tấn nhập Vô Dư Niết Bàn.

(**) : Những vị ngoại học : Bariraka.

 

          Bố thí đến bàng sanh các loại                

          Thứ mười bốn phân loại như vầy.

 

              Này A-Nan ! Phải nhớ đây :    

       Sau khi bố thí các loài bàng sanh

          Hy vọng dành trăm phần công đức.

          Đạt ngàn phần công đức do từ

              Bố thí cho những phàm phu

       Sống theo ác giới. Còn như cúng dàng

          Đến các hàng phàm phu giữ giới

          Trăm ngàn lần hưởng tới phước toàn.

              Với người ngoại học cúng dàng

       Hy vọng đạt tới muôn ngàn ức ngay

          Phần công đức người này kết quả.

 

          Đang trên đường chứng quả Đà-Hoàn

              Với các vị này, cúng dàng

       Vô lượng công đức sẽ mang đến liền,

          Còn nói gì mãn viên Thánh Chúng

          Chứng Dự Lưu, sắp chứng Nhất Lai

             (Tư-Đà-Hàm đạo, quả này).

       Sắp chứng, đã chứng Bất Lai đủ đầy

         (A-Na-Hàm quả) hay sắp chứng

          Và đã chứng La-Hán (Vô sanh,

              Ứng Cúng, Vô Học tịnh thanh.

 

       Còn nói gì đến quả lành Bích-Chi

         (Duyên Giác Phật hay vì Độc Giác).

          Còn nói gì đến các Như Lai,

              Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác này

       Vô lượng công đức cho ai cúng dàng.

 

          Này A-Nan ! Cúng dường bảy loại

          Cho Tăng Chúng thì loại đầu tiên

 

          *  Với hai Tăng Chúng hiện tiền

       Có vị Thượng thủ phước điền Như Lai. 

 

     *   Loại thứ hai, cả hai Tăng Vị

          Tỷ Kheo Tăng và Tỷ Kheo Ni

              Khi không còn đấng Toàn Tri.

 

     *   Còn loại cung dưỡng thuộc vì thứ ba

          Tỷ Kheo Tăng Săng-Ga (1) các vị.

 

     *   Tỷ Kheo Ni các vị Săng-Ga

              Cúng dường thứ tư trải qua.

 

   *  Cúng dường nhưng lại nói ra : “Mong là

          Chư Tăng-Già chỉ định một số

          Tỷ Kheo Tăng, một số vị Ni”,

              Cúng dường thứ năm cần tri.

 

 *  “Xin Tăng chỉ định số vì Tỷ Kheo”,

          Thứ sáu cúng dường theo định hướng.

 

      *  Muốn cung dưỡng nhưng xin Tăng-Già :

             “Mong Tăng Chúng chỉ định ra

       Tỷ Kheo Ni một số mà chứng trai”,

          Cúng dường này thứ bảy được kể.

 

          Này A-Nan ! Hậu thế lộ đồ

              Sẽ có những hạng người thô

       Chuyển tánh – Gô-Trá-Phu-Nô (2) tức là 

          Biểu hiện y ca-sa ở chỗ           

          Mảnh vải vàng quanh cổ & cánh tay

              Theo ác giới, ác pháp rày

      (Không còn Tăng Chúng đủ đầy giới răn)

          Muốn bố thí họ bằng tâm thiện

    _________________________

 

   (1) : Sangha – Tăng-Già.  (2) : Hạng chuyển tánh – Gotrabhuno.

 

          Có tín thành, cũng khiến phước sanh.

              A-Nan ! Khi Ta nói rằng

       Cúng dường trong sạch  đến Tăng Chúng là

          Vô số và vô lượng phước báu.

          Ta không bảo bằng phương tiện gì

              Mà một sự bố thí chi

       Phân loại theo sự thí vì cá nhân

          Tức là sự ‘cá nhân tuyển thí’

          Phước không bằng ‘Tăng thí cúng dàng’,

              Dâng đến Đại chúng Tăng Đoàn

       Có kết quả lớn vô vàn, hơn xa.

 

          A-Nan-Đa ! Bốn sự thanh tịnh

          Của các loại tâm tín cúng dàng.

              Sao là bốn ? Hiểu rõ ràng :

   –  Có loại cung dưỡng bởi đàng người cho

          Tâm tín thành, nhưng do người nhận

          Không thanh tịnh, tham lẫn, sân si.

 

          –  Còn loại cúng dường thứ nhì

       Người cho bất tịnh, chẳng vì tín tâm

          Nhưng người nhận thân tâm thanh tịnh.

 

      –  Loại thứ ba bất tịnh cả hai

              Người cho và người nhận này

       Đều chẳng trong sạch, lòng đầy tà gian.

 

      –  Loại thứ tư hai đàng cho, nhận

          Đều thanh tịnh, tinh tấn tu hành.

 

         *  Sao là cúng dường tịnh thanh

       Bởi người cho, nhưng không dành người kia ?

          Bởi người nhận xa lìa thiện pháp

          Không giữ giới, uế tạp, bất lương.

 

 

         * Thứ hai là loại cúng dường

       Người nhận giới đức, thường thường tịnh thanh

          Nhưng người cho thực hành ác giới

          Theo ác pháp, sống với dối gian.

 

           * Thứ ba là loại cúng dàng 

       Không thanh tịnh bởi hai đàng nhận, cho ?

          Cả người cho và người nhận tới

          Theo ác giới, ác pháp, gian tà.

 

           * Thứ tư, loại cúng dường mà

       Người cho, người nhận đều là tịnh thanh 

          Đều giữ giới. làm lành lánh dữ

          Theo thiện pháp, tránh sự gian tà.    

 

              A-Nan-Đa ! Như vậy là   

       Phân loại bốn sự đàn-na cúng dường ”.

 

          Đấng Pháp Vương, Thế Tôn, Thiện Thệ   

          Giảng như thế, rồi nói kệ rằng :  

 

       “ Ai giữ giới luật thường hằng

       ‘ Bố thí cho kẻ ác, thân tâm tồi,

       ‘ Vật thí được đúng pháp rồi,

       ‘ Tâm khéo hoan hỷ, chẳng dời lòng tin

       ‘ Vào quả lớn của nghiệp mình,

       ‘ Phước cúng dường vậy chỉ dành người cho.

 

       ‘ Ai không giữ giới nhỏ, to,

       ‘ Bố thí vị hiền sĩ do nghiêm trì

       ‘ Giới luật, vị ấy nghiêm uy.

       ‘ Người cho tâm chẳng có gì hỷ hoan,

       ‘ Không lòng tin tưởng vững vàng,

       ‘ Vào quả lớn nghiệp cúng dàng phát sanh

       ‘ Người nhận có đủ tịnh thanh.

       ‘ Ai không giữ giới, ác hành trải qua

       ‘ Bố thí kẻ ác, xấu xa,

       ‘ Vật thí chẳng đúng pháp, mà tâm y

       ‘ Cũng không có hoan hỷ gì,

       ‘ Lòng tin cũng chẳng có chi vững vàng,

       ‘ Vào quả lớn nghiệp cúng dàng

       ‘ Cả hai cho, nhận thuộc hàng uế nhơ.

 

       ‘ Ai luôn giới luật tôn thờ

       ‘ Cúng dường hiền sĩ căn cơ tịnh lành

       ‘ Vật thí đúng pháp; tâm thành

       ‘ Hoan hỷ cùng với lòng lành vững tin,

       ‘ Vào quả lớn trong hành trình 

       ‘ Cúng dường trong sạch phát sinh hai đàng.

       ‘ Ta nói là sự cúng dàng

       ‘ Chắc chắn kết quả vô vàn phước sâu.

 

       ‘ Ai xuất ly tham ái mau

       ‘ Bố thí không tham ái nào tính toan,

       ‘ Vật thí đúng pháp sẵn sàng

       ‘ Tâm khéo hoan hỷ, vững vàng lòng tin,

       ‘ Vào quả lớn của nghiệp mình

       ‘ Quảng đại tài thí, quang minh cúng dường ”.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 142 :  PHÂN BIỆT CÚNG DƯỜNG  –  DAKKHINÀVIBHANGA  Sutta  )  

  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7524)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3514)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3467)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11182)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3948)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3429)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10715)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6768)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12339)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4233)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]