Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

74. Kinh Trường Trảo

19/05/202010:33(Xem: 9735)
74. Kinh Trường Trảo

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



74. Kinh TRƯỜNG TRẢO
( Dìghanakha sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)
              Trên núi Ghít-Chá-Kú-Ta  (2)
     ( Linh Sơn – Linh Thứu cũng là núi đây,
          Kỳ-Xà-Quật tên này thường tả )
          Trong hang Sú-Ká-Rá-Khá-Ta  (3)
 
              Du sĩ Đi-Gá-Ná-Kha  (4)
     ( Cũng tên : Trường Trảo, dịch ra như vầy )
          Đi đến ngay chỗ Phật an trú
          Gặp Điều Ngự, nói những lời chào
              Một cách thân hữu, xã giao
       Rồi du sĩ ấy đứng vào một bên
          Rồi nói lên với Ngài về chuyện :
 
    – “ Thưa Tôn Giả ! Tri kiến của tôi
              Hay lý thuyết tôi có, thời :
   ____________________________
 
(1) : Ràjagaha ( Vương-Xá ) là thủ phủ của vương quốc Magadha 
    – Ma-Kiệt-Đà của vua Tần-Bà-Sa-La và sau là vua A-Xà-Thế .
     Nơi đây cũng đã tổ chức  Đại Hội Kết Tập Tam Tạng lần đầu
     tiên sau khi Phật Niết-Bàn 3  tháng tại độngSattapanni, dưới
    sự chủ tọa của Ngài Mahà Kassapa (Ma-Ha Ca-Diếp).Tôn-giả
    Upali trùng  tuyên về Luật Tạng và Tôn-giả Ananda trùng tuyên
    về Kinh Tạng ; do vua A-Xà-Thế ngoại hộ .
(2) : Núi Gijjhakuta  – Kỳ-Xà-Quật hay Linh Sơn hoặc Linh Thứu
    (vì có một mõm đá nhô ra giống hình con chim Thứu) .
(3) : Hang đá Sukarakhata . (4) : Dìghanakha - Trường Trảo .
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  504
 
      ‘Tất cả đều chẳng làm tôi vui lòng,
          Không thích thú ở trong mọi thứ ”.
    – “ Này Du sĩ ! Về sự việc này
             Có phải ông nói như vầy :  
      ‘Tất cả không khiến tôi đây vui lòng’.
          Tri kiến ấy ông không thích thú ? ”.
 
    – “ Nếu nó làm thích thú tôi ngay
              Thời đây cũng giống như vầy,
       Thời đây cũng giống như vầy, còn chi ? ”.
 
    – “ Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Vậy
          Nếu đông người sống tại đời này
              Đã thốt những lời sau đây :
      ‘Thời đây cũng giống như vầy’, nói xong
          Thời họ không bỏ tri kiến ấy,
Chấp thủ lấy tri kiến khác ngay.
 
              Ất-Ghi-Vết-Sa-Na này !    
       Nếu thiểu số kẻ đời nay nói vầy :
        ‘Thời đây cũng giống tày như vậy’
        ‘Thời đây cũng như vậy giống’ nhau
              Họ bỏ tri kiến này mau,
       Không chấp thủ tri kiến nào khác hơn.
 
          Có trường hợp Sa-môn, Phạm-chí
          Một số vị lý thuyết rêu rao
              Hay có tri kiến như sau :            
      ‘Tất cả làm thích thú vào tôi đây’
          Hoặc có ngay Sa-môn, Phạm-chí
          Một số vị tri kiến họ thì :
 ‘Tất cả tôi không thích gì’,
 
       Hoặc : ‘Một phần thích, phần thì chẳng ưa’.     
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  505
 
      *  Với những người luôn ưa, thích thú’,
          Tri kiến bị vây phủ liên miên
              Gần với tham dục, nhiễi phiền,
       Gần với hoan lạc, gần triền phược  đây,
          Gần đắm trước, gần ngay chấp thủ.
 
       * Còn với chủ trương họ thực thi :  
             ‘Tất cả tôi không thích gì’,
       Tri kiến vậy được các vì kể trong
          Là gần với sự không tham dục,
          Không thằng thúc, chấp thủ, lạc hoan ”.
 
              Được nghe Phật nói rõ ràng
       Đi-Gá-Ná-Khá hướng sang Phật Đà
          Thưa rằng : “ Gô-Ta-Ma Tôn Giả !
          Chính Ngài đã nói lời tán dương,
              Tôn Giả hết sức tán dương
       Về quan điểm của tôi thường nêu ra ”.
 
     – “Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Phải hiểu
          Như tiêu biểu các vị Sa-môn
              Hay là các Bà-la-môn  
       Lý thuyết, tri kiến bảo tồn không thôi :
         ‘Một phần làm cho tôi thích thú,            
          Làm tôi không thích thú một phần’.
 
              Làm họ thích thú, là gần
       Tham dục, triền phược và gần lạc hoan,
          Gần chấp thủ, gần đàng đắm-trước.
 
          Cái gì thuộc tri kiến thực thi
             ‘Khiến họ không thích thú gì’ :
       Gần không tham dục, không chi nhiễu phiền,
          Không hoan lạc, không triền phược cả,
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  506
 
Không chấp thủ ròng rã trải qua.
 
              Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na !
       Với những Phạm-chí hay là Sa-môn,
          Có lý thuyết hay còn tri kiến :
         ‘Tất cả, khiến thích thú cho tôi’.
              Thì người trí nghĩ tức thời :
      ‘Nếu nói tri kiến của tôi như vầy
          Nếu ta đây tri kiến cố chấp :
         ‘Đây là thật, ngoài nó là sai ?
              Như vậy đối nghịch cả hai : 
 
       Một là các vị vẫn hay chấp điều :
        ‘Tất cả đều khiến tôi không thích’.
          Hai, đối nghịch tri kiến đã đưa :
             ‘Một phần làm tôi thích ưa,      
       Một phần tôi chẳng thích ưa’ chút nào.
 
          Khi đối nghịch, đưa vào tranh luận,
          Có tranh luận thời có chống kình,
     Chống đối thời có bực mình.
       Vì thấy đối nghịch thật tình chẳng hay,
          Nên vị này bỏ tri kiến ấy
          Không chấp lấy tri kiến khác nào,
              Như vậy là đoạn trừ mau
  Và hủy bỏ tri kiến đầu nêu ra.
 
          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Mặt khác
          Nếu có các Phạm-chí, Sa-môn
              Lý thuyết, tri kiến bảo tồn :
      ‘Tất cả đều khiến tôi không thích gì’.
          Hoặc các vì Sa-môn, Phạm-chí
          Có tri kiến và lý thuyết rằng :
             ‘Làm tôi thích thú một phần,
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  507
 
       Tôi không thích thú một phần’, nêu ra.
          Người có trí sâu xa suy nghĩ :
       “ Nếu ta chỉ cố chấp ý ta
              Khăng khăng kiên chấp, nói là :
      ‘Đây là sự thật, ngoài ra sai lầm’,
          Như vậy thầm đối nghịch, bài bác
 Hai tri kiến vốn khác nói trên.
              Khi nào đối nghịch có nên
       Có sự tranh luận, nổi lên chống kình,
          Có chống đối, bực mình liền có ”.
 
          Vị ấy bỏ tri kiến này mau 
              Không giữ tri kiến khác nào
       Như vậy là đoạn trừ vào tự tri,
    Là hủy bỏ những tri kiến ấy.
 
          Nhưng này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na !   
              Thân này có sắc, tạo ra
       Là do bốn đại, mẹ cha sinh thành,
          Nhờ có cháo, cơm, canh nuôi dưỡng,
          Do nhiều hướng biến hoại, vô thường,
              Phân tán, đoạn tuyệt đáng thương !
       Cần quán sát là vô thường, khổ nên
          Như cục bướu, mũi tên, bệnh hoạn,
          Điều bất hạnh vô hạn, hay là
              Kẻ địch, phá hoại trầm kha,
       Là không, vô ngã. Quán ra như vầy
          Thời thân này, thân dục, thân ái,
          Thân phục tùng được mãi diệt qua.
 
              Này Ất-Ghi-Vết-Sa-Na !              
       Ba Thọ : lạc & khổ thọ và tiếp theo
          Bất lạc bất khổ đều thọ cả. 
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh TRƯỜNG TRẢO                 MLH –  508
 
  Khi cảm giác lạc thọ tràn trề,
              Khi ấy không cảm giác về
       Khổ &Bất lạc khổ thọ kề bên ta.
          Ất-Ghi-Vết-Sa-Na ! Tương tợ
          Khi cảm giác khổ thọ, hay là
              Bất lạc bất khổ thọ đa,
       Thời không cảm giác trải qua đồng thời
          Hai thọ kia – tách rời như vậy,
    Chỉ cảm giác thọ ấy mà thôi.
 
              Phải hiểu lạc & khổ thọ rồi
       Bất lạc bất khổ thọ rơi vô thường,
          Hữu vi, nương duyên sanh, đoạn diệt,
Bị hủy hoại, tiêu diệt, suy tàn.
              Bậc Thánh đệ tử đa văn
       Yểm ly lạc & khổ thọ càng sớm đi.
      Và yểm ly bất khổ bất lạc.
          Yểm ly đạt, không có dục tham,
              Do nhờ không có dục tham
       Vị ấy giải thoát bao hàm tự thân.
          Bởi như vậy, khởi phần hiểu biết :
 
         ‘Ta đã thiệt giải thoát an lành
              Biết rằng Phạm hạnh đã thành
       Sự Sanh đã tận, thực hành đã xong,
          Sau đời này sẽ không tiếp nối
          Đời sống khác ở cõi trần này’.
 
              Với tâm giải thoát như vầy
       Ất-Ghi-Vết-Sa-Vá này ! Tỷ Kheo
          Không chiều theo một ai để nói               
          Không tranh luận với mọi người đời
          Chỉ dùng từ ngữ ở đời,
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  509
 
       Không hề chấp thủ vào nơi ngôn từ.
          Lúc ấy, vị Đại Sư Tôn-giả
          Đại Trí Xá-Lợi-Phất đứng sau
              Hướng về Thế Tôn, quạt hầu,
       Tôn-giả chợt suy nghĩ sâu như vầy :
 
       “ Thế Tôn nay thuyết cho đại chúng 
          Sự từ bỏ và cũng diệt ngay
              Các pháp (ấy) nhờ thắng trí này ”.
 
       Khi Tôn-giả suy nghĩ ngay như vầy
          Tâm của ngài giải thoát lậu-hoặc
          Không chấp chặt, chấp thủ mọi phần.
 
               Còn với Du-sĩ, tự thân
       Pháp nhãn vô cấu ly trần khởi lên
         ‘Phàm pháp gì khởi lên như vậy,
          Các pháp ấy được đoạn diệt ngay’.
              Rồi du-sĩ ngoại đạo này
     ( Đi-Ga-Ná-Khá ) pháp đây thấy liền,
          Chứng, ngộ pháp, hiện tiền thể nhập
          Vào pháp ấy và lập tức thì
              Tiêu trừ do dự, hoài nghi,
       Chứng được tự tín, không y cứ vào
          Một người nào, đối với giáo pháp
          Của Đại Giác, liền bạch như vầy :
 
        – “ Bạch Tôn Giả ! Vi diệu thay !           
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
         Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu
          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp
Trung Bộ (Tập 2)  Kinh 74 :  TRƯỜNG TRẢO      * MLH –  510
 
          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày     
              Con xin quy ngưỡng từ nay
       Quy y Đức Phật, nương ngay Pháp mầu,
          Quy y Tăng thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
              Mong Thế Tôn nhận cho con
       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Con xin nguyền từ nay ngưỡng phục
          Cho đến lúc thân hoại xảy ra ”.
 
              Từ đó Đi-Gá-Ná-Kha
       Nương theo giáo pháp Phật Đà thậm thâm ./-
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
 
*
*   *
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 74  :  TRƯỜNG TRẢO   –   DÌGHANAKHA   Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7524)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3514)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3467)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11182)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3946)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3428)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10712)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6768)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12339)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4233)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]