Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

15. Kinh Tư Lượng

18/05/202019:53(Xem: 9100)
15. Kinh Tư Lượng

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



15.Kinh TƯ LƯỢNG

( Anumana sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Mục-Kiền-Liên (1) Tôn-giả

          Tức Ma-Ha Mốc-Gá-La-Na  (1)

              Sống giữa bộ tộc Phất-Ga  (2)

       Tại núi Sâm-Sú-Ma-Ra-Ghi-Rà(3)

          Rừng Phê-Sá-Ka-La (4) vời vợi

          Vườn Nai, nơi giáo giới Chúng Tăng.

              Ngài gọi các Tỷ Kheo rằng :

 – “ Này các Hiền-giả ! Hãy hằng lắng nghe ! ”.

          Các Tỷ Kheo một bề vâng đáp

          Rồi lắng nghe thời pháp của ngài :

 

           “ Chư Hiền ! Nếu Tỷ Kheo nay

       Thỉnh nguyện : ‘Tôn-giả các ngài mọi nơi

          Mong sẽ nói với tôi, tất cả

          Mong được chư Tôn-giả nói cho ”.

              Nhưng nếu có một nguyên do

       Vịấy chỉ nói vòng vo lấy lòng      

          Vì tánh chẳng thuận đồng, khó nói

          Khó kham nhẫn, cứng cõi khó dời

              Không cung kính đón nhận lời

       Khi được giảng dạy từ nơi các vì

          Đồng-phạm-hạnh thanh qui gìn giữ.

   ------------------------------------

  (1) : Tôn-giả Mahà Moggallana ( Mục-Kiền-Liên ) vị Thần

      thông đệ nhất . Cùng với Tôn-giả Xá-Lợi-Phất (Sariputta )

      là hai vịĐại Đệ Tử tay mặt và tay trái của Đức Phật .

 (2) : Những người thuộc dòng họ Bhagga .

 (3) : Núi Sumsumaragira .   (4) : Rừng Bhesakala .

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 15 :  TƯ LƯỢNG        *  MLH  – 232

 

          Các vị nghĩ : ‘Căn cứ như vầy

              Không đáng giáo huấn người này

       Không thể tin tưởng người này được đâu !’

          Này chư Hiền ! Thế nào những tánh

          Khiến người ấy chóng vánh trở nên

              Khó nói, không kham nhẫn bền    

       Không hề cung kính người trên dạy mình.

 

          Vị Tỷ Kheo phát sinh ác dục

      *  Bịác dục chi phối đêm ngày

              Thì vị bịác dục này

Đã là một tánh như vầy phát sanh

          Khiến trở thành một người khó nói.

      *  Sự phẫn nộở mọi sớm chiều

              Bị phẫn nộ chi phối nhiều

       Như vậy lại một tánh đều không hay

          Phẫn nộ làm người này hiềm hận

          Vì hiềm hận, người đó khó khăn

             Tỷ Kheo phẫn nộ, hận sân

       Trở thành cố chấp làm nhân rõ ràng

          Khiến người ấy không kham, khó nói

          Lại nữa, mọi phẫn nộđưa sang

              Thốt lời phẫn nộ liên quan

       Đến sự phẫn nộ nên càng chẳng hay.

          Chư Hiền này ! Bị ai buộc tội

          Quay trở lại chống đối vịđây

              Hoặc người bị buộc tội này

       Trở lại chỉ trích người đầy thiện tâm

          Thiện chí chỉ sai lầm cho thấy.

          Hoặc người ấy bị buộc tội đây

              Trở lại chất vấn gắt gay

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 15 :  TƯ LƯỢNG        *  MLH  – 233

 

       Vịđã buộc tội mình ngay tức thì

          Tỷ Kheo vìđang bị buộc tội

         Tránh né lỗi, lái câu chuyện này

             Qua một vấn đề khác ngay

       Hay đánh trống lãng, lộ đầy hận sân     

          Lộ phẫn nộ, lộ dần bất mãn

          Không giải thích thỏa đáng, thật tình

              Về những hành động của mình

       Cho vị buộc tội phân minh mọi đàng.

 

Chư Hiền-giả ! Rõ ràng người ấy

          Bị chi phối từng ấy tánh này 

              Thành người khó nói, chấp sai

       Lại nữa, hư ngụy người đây thường làm

          Cùng não hại, xan tham, tật đố

          Lừa đảo, cố lường gạt, ngoan mê

              Chấp trước thế tục mọi bề

       Cố chấp tư kiến, thuộc về mạn kiêu

Chư Hiền-giả ! Những điều như vậy

          Là những tánh người ấy đa mang

              Và khó hành xả, bất an

       Gọi là những tánh lan man chẳng lành

          Để người ấy trở thành khó nói.

          Này chư Hiền ! Trái lại việc này

              Nếu một Tỷ Kheo nay

       Không muốn thỉnh nguyện : ‘Các ngài chư Tôn

          Nói với tôi lời tôn quí cả

          Tôi được chư Tôn-giả nói cho’.

              Và nếu như có nguyên do

       Người ấy dễ nói, đắn đo khiêm nhường

Đủ đức tánh khiến thường dễ nói :

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 15 :  TƯ LƯỢNG        *  MLH  – 234

 

          Có kham nhẫn, học hỏi điều hay

              Cung kính đểđón nhận ngay

       Những lời giảng dạy thẳng ngay hòa hài.

          Đồng-phạm-hạnh các ngài suy nghĩ :

  ‘Tỷ Kheo này đích thị thật tình

Đáng được nói đến công minh

Đáng được giáo huấn, đáng tin người này’.

          Đức tánh nào thẳng ngay được thấy

          Khiến người ấy dễ nói như vầy ?

              Tỷ Kheo không bị dục vây

       Không bị chi phối bởi ngay dục này

          Không ác dục bao vây, chi phối

          Khiến trở thành dễ nói mọi thời.

              Lại không khen mình chê người

       Không có phẫn nộ khiến khơi hận thù

          Không phẫn nộ, huân tu nhân tốt

          Không cố chấp để thốt nên lời

              Liên hệ phẫn nộ nhất thời

       Những tánh như thế khiến người Phích-Khu

          Trở thành người ôn nhu dễ nói.

          Lại với mọi buộc tội căn duyên

              Thì vị Tỷ Kheo điềm nhiên

       Không có chỉ trích, chống liền vị kia

          Không chất vấn vị kia buộc tội

          Không tránh lỗi, chuyển hướng vấn đề

              Không trả lời ngoài vấn đề

       Không để phẫn nộ, tràn trề hận sân

          Không bất mãn, ân cần giải thích

          Những hành động thuận nghịch của mình

              Cho vị buộc tội phân minh

       Cũng không hư ngụy, cố tình hại ai

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 15 :  TƯ LƯỢNG        *  MLH  – 235

 

          Không xan tham, không hoài tật đố

          Không khi cuống, không cố gạt lường

              Không ngoan mê, quá mạn cường

       Chấp trước thế tục không nương tánh này

          Không cố chấp vào ngay tư kiến

          Dễ hành xả, phương tiện trình bày

              Tất cả những đức tánh đây

       Khiến thành dễ nói hòa hài người đây

Chư Hiền-giả ! Như vầy Phích-Khú

          Cần hội đủ tư lượng suy tư

              Tự ngã với tự ngã, như

  ‘Người này cóác dục từ thâm tâm

          Bịác dục âm thầm chi phối

          Ta không ưa thích với người này.

              Nếu ta bịác dục vây

Ác dục chi phối ta đây xoay vòng

          Thì người khác cũng không ưa thích

          Đối với ta, chỉ trích thẳng lời’.

              Tỷ Kheo khi biết vậy, thời

       Cần phải phát nguyện, chẳng dời quyết tâm :

 ‘Ta quyết làm người không ác dục

          Không chi phối bởi dục ác này

              Những tánh xấu xa dẫy đầy

       Ta nguyện trừ cả, khỏi ai phê bình

          Như khen mình chê người : tránh bỏ,

          Vì sẽ có người khác không ưa.

              Phẫn nộ, hiềm hận : xin chừa,

       Không cố chấp nữa, ngăn ngừa ngoài trong.

          Bị buộc tội, ta không đối nghịch

          Không chỉ trích, chất vấn lại liền      

              Vị buộc tội mình hiện tiền.

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 15 :  TƯ LƯỢNG        *  MLH  – 236

 

       Tư lương : ‘Người ấy não phiền gây ra

          Cho nên ta không ưa thích gã.

          Nếu ta đã có những tánh này             

              Người khác không ưa thích ngay

       Tương tự, với những tánh này kể trên

          Ta không nên thực hành điều ấy.

          Khi biết vậy, vị Tỷ Kheo đây

              Cần phải có phát tâm ngay :

 ‘Không nên có những tánh này trước sau

          Như : không chấptrước vào thế tục

          Không chú mục chấp trước ý riêng

              Tánh dễ hành xả, vô phiền.

   *  Lại nữa, cần quán sát liền, tựu trung   

          Quán tự ngã với cùng tự ngã :

       “ Không biết là ta đã có ngay

Ác dục chi phối đêm ngày ?

       Biết vậy, vị Tỷ Kheo này nghĩ thông

          Nguyện quyết lòng diệt trừác pháp.

          Trái lại, nếu quán sát thấy là :

  ‘Không cóác dục trong ta

       Không bị chi phối ác tà dục đây’,

          Thì vị này phải dùng tâm niệm

          Thật hoan hỷ ; thúc liễm đêm ngày

              Tu học các thiện pháp ngay

       Tương tự, quán sát đủ đầy triển khai

          Quán tự ngã với ngay tự ngã :

  ‘Ta cóđã khen mình chê ai ?

              Có bị phẫn nộ khiến sai ?

       Có vì phẫn nộ nên hay hiềm thù ?

          Có cố chấp do từ phẫn nộ ?

          Vì phẫn nộ, có nói sân si ?

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 15 :  TƯ LƯỢNG        *  MLH  – 237

 

              Khi bi buộc tội điều chi

       Ta có chống đối tức thì hay không ?

          Có bực lòng gắt gay chất vấn     

          Vịđang vẫn buộc tội mình đây ?

              Có tránh né vấn đề này,

       Hay đánh trống lãng tránh ngay vấn đề ?

          Ta có để lộ về phẫn nộ,

          Sự bất mãn, gây gỗ hận sân ?

              Ta có giải thích ân cần

       Để vị buộc tội hiểu nhân rõ ràng ?

          Có hư ngụy vàđang não hại ?

          Có tật đố, đối đãi xan tham ?

              Khi cuống, lường gạt có làm ?

       Ngoan mê, quá mạn bao hàm có không ?

          Nếu Tỷ Kheo thực lòng quán sát  

          Biết mình có những ác hành này

              Chấp trước thế tục dẫy đầy

       Tánh khó hành xả, chấp rày ý riêng

          Thì vịấy cần siêng, tinh tấn

Đoạn trừ hẳn ác pháp chẳng lành .

              Nếu quán sát thấy rõ rành

       Không vướng vào những đua tranh, sai lầm

          Thì phải sống với tâm hoan hỷ

          Ngày đêm chỉ thiện pháp tu chuyên.

Chư Hiền ! Khi quán sát liền

       Thấy ác, bất thiện vẫn nguyên, chưa trừ

          Cần tinh tấn đoạn trừác pháp,

          Bất thiện pháp trúở nội tâm.

              Nếu quán sát, thấy không lầm           

Ác, bất thiện pháp trong tâm đã trừ

          Tỷ Kheo ấy an như thực hiện

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 15 :  TƯ LƯỢNG        *  MLH  – 238

 

          Với tâm niệm hoan hỷ, hòa hài

              Tu học thiện pháp đêm ngày

       Như một thiếu nữ nọ hay một chàng

          Tuổi thanh xuân, ưa trang điểm, hát

          Tự quán sát mặt mình trong gương

              Sạch sẽ trong suốt mặt gương

       Hay soi chậu nước lúc thường lặng yên

          Nếu thấy liền vết nhơ, bụi bặm

          Trên mặt mình, chầm chậm lau đi,

              Thấy mặt sạch, không có chi

       Người ấy hoan hỷ, nghĩ suy ngay là : 

  ‘Thật sự ta được điều đẹp đẽ

          Thật sự ta sạch sẽ tịnh thanh’.

Chư Hiền-giả ! Hiểu cho rành

       Cũng vậy, vị Tỷ Kheo hành trì qua

          Nếu quán sát thấy là quả thật

          Các ác, bất thiện pháp chưa trừ

              Cần phải tinh tấn đoạn trừ.

       Nếu nội tâm đãđọạn trừ chúng ngay,

          Thì chư Hiền ! Vị này thơ thới

          Thường sống với tâm niệm vui an

              Ngày đêm tu học nghiêm trang

       Về các thiện pháp , lời vàng sâu xa ”.

 

Nghe Ma-Ha Mốc-Ga-La-Ná

Được Thế Tôn Giác Giả giảng rành

              Chư Tăng hoan hỷ, tâm thành

       Tín thọ lời dạy trọn lành Chân Như ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật( 3 L )

 

*   *   *

(  Chấm dứt  Kinh số 15 :  TƯ LƯỢNG  –  ANUMANA  Sutta  )

“ Ye dhammà hetuppabhavà

             Tesam hetum Tathàgato

Àha tesan ca yo nirodho

             Evam vàdì Mahà Samano ”.

 

          “ Vạn pháp tùng duyên sinh

             Diệc tùng nhân duyên diệt

             Ngã Phật Đại Sa Môn

             Thường tác như thị thuyết ”.

 

  ‘ Vạn pháp theo nhân duyên sinh ’

‘ Theo nhân duyên diệt’ – đinh ninh điều này.    

   Bậc Đại Sa Môn Như Lai

  Thường dạy như vậy ; chính Thầy của tôi . 

 

 

 

___________________________________

 

   *  Chú thích xuất xứ về bài kệ này :

 

Bài kệ do Tôn-giả Thánh Tăng A-La-Hán ASAJI  (A-Xà-

    Chí ), vị trẻ tuổi nhất trong năm vị nhóm Kiều-Trần-Như ,

    bạn đồng tu và cũng là năm Đệ tửđầu tiên của Đức Phật

đọc lên cho Ngài Xá-Lợi-Phất khi được hỏi trong lúc Tôn-

    giảđang thường lệ khất thực tại Thành Vương Xá . 

 

( Xem tiếp trang sau )

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 15 : TƯ LƯỢNG        *  MLH  – 240

 

 

 

 

           Nguyên thời bấy giờ, Ngài Xá-Lợi-Phất ( Sariputta )

    cùng với người bạn thân Mục-Kiền-Liên ( Moggalanna )

    là hai  thanh niên Bà-La-Môn rất nổi tiếng đương thời vì

    sức học uyên thâm, tinh thông Tam Vệ-Đà .Nhưng cả hai

    vẫn chưa thỏa mãn với những gì Tam Vệ-Đà  chuyển  tải,

    nên ước hẹn với nhau: Ai tìm được vịĐạo Sư khả kính có

    thể giải hết những nghi ngờ trong các học thuyết cổ kim,

    thì phải báo với người kia để cùng qui ngưỡng tu tập.

 

         Khi lần đầu tiên thấy vị Sa-Môn nghiêm tịnh, thần thái

    an nhiên tự tại đang thứđệ khất thực tại Thành Vương-Xá

    Ngài Xá-Lợi-Phất bỗng sinh lòng kính mộ, muốn thưa hỏi

    vềđường lối tu hành của Tôn-giả, nhưng tôn trọng vì Tôn

    giảđang khất thực, nên Ngài cung kính đi theo sau. Khi

    thấy vật thực đãđủ, Tôn-giả Asaji tìm một gốc cây, ngồi

    xuống thọ thực. Sau khi dùng xong, Ngài Xá-Lợi-Phất đã

    thi lễ vàđặt câu hỏi với Tôn-giả : Ai là Thầy của Ngài,và

    vịấy đã dạy như thế nào ?

 

         Tôn-giả  Asaji  đãđọc lên bài kệ  côđọng và hàm súc

ấy. Vừa nghe xong, Ngài Xá-Lợi-Phất  vô cùng  hoan hỷ

    hoát nhiên đại ngộ. Ngài cáo từ  sau khi  hỏi nơi  trụ xứ

    của Đức Phật, rồi vội vàng đi tìm Ngài Mục Kiền Liên,

đọc lại nguyên văn bài kệấy. Ngài  Mục-Kiền-Liên  khi

    nghe xong, lập tức đắc Tu-đà-hoàn quả. Cả hai cùng đi

đến Trúc Lâm Tinh-Xá ( Veluvanavihàra ) đảnh lễ  Phật

    và cầu xin xuất gia trong Giáo Pháp của Đấng Thế Tôn.

    Sau khi cả hai lần lượt đắc Thánh quả  A-La-Hán, Đức

    Phật tuyên bố hai Ngài là Hai Đại Đệ Tử của Phật :

    Ngài Xá-Lợi-Phất làĐệ nhất Trí Tuệ và Ngài Mục-Kiền-

    Liên là Đệ nhất Thần Thông.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7524)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3514)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3467)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11182)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3946)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3428)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10712)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6768)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12339)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4233)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]