Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ

19/05/202011:35(Xem: 11067)
137. Kinh Phân Biệt Sáu Xứ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


137. Kinh PHÂN BIỆT SÁU XỨ

( Salàyatanavibhanga sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ 

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí (1) cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná  (2)

          Khu vườn do Trưởng giả tên là

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka  (3)

       Tức Cấp-Cô-Độc , thuần hòa tín gia

          Mua lại từ Kỳ Đà thái tử  (4)

          Để cúng dường Điều Ngự Thế Tôn

              Cùng với Tăng đoàn Sa-môn

     __________________________

 

(1) : Thành Xá-Vệ – Savatthi  – là thủ phủ của nước Kosala, do vua 

       Ba-Tư-Nặc ( Pasenadi ) trị vì.

(2) & (3) : Kỳ Viên Tinh Xá – Jetavana Vihàra,  do Trưởng giả Tu-

     Đạt (Sudatta ) thường được gọi là Cấp Cô Độc (Anathapindika)

    dâng cúng. 

(3) : Thái tử Kỳ-Đà – Jeta , là con vua Ba-Tư-Nặc, là chủ nhân của

    khu vườn mà ông Cấp Cô Độc muốn mua để dâng cúng làm Tinh

   Xá. Thái tử thì không muốn bán, ông Sudatta thì quyết tâm muốn

   mua vì thấy khu vườn rất thích hợp. Bị nài nỉ mãi nên Thái tử mới

   nói để ông Trưởng giả bỏ ý định mua : trải vàng tới đâu thì bán

  tới đó. Không ngờ ông Trưởng giả hoan hỷ cho chở vàng đến lót

  khắp vườn. Cảm phục trước tâm đạo nhiệt thành đó nên Thái tử

  xin dâng cúng luôn toàn bộ cây cối trong vườn.   Do đó Tinh Xá

  có tên là Jetavanànàthapindikàràma  – Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên

 ( vườn Cấp-cô-độc, cây Kỳ-đà ).   Nhưng sau Thái tử bị giết bởi người anh em khác mẹ là Adudubbha (Tỳ-Lưu-Ly) để cướp ngôi. 

 

 

       Có nơi hoằng hóa pháp môn nhiệm huyền.

          Lúc bấy giờ Phật liền cho gọi

          Chư Tỷ Kheo và nói như vầy :

 

        – “ Các Tỷ Kheo ! Hãy nghe đây ! ”.

 

       Chúng Tăng vâng đáp lời Ngài truyền ra.

          Đức Phật Đà trang nghiêm thuyết giảng :

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Ta giảng giải ra

             ‘Phân biệt sáu xứ’ sâu xa

       Các ông hãy lắng nghe và nghiệm suy ”.

 

    – “ Bạch đấng Chánh Biến Tri ! Vâng ạ ! ”.

 

          Chúng Tăng đã vâng đáp lời Ngài.

          Thế Tôn liền thuyết giảng ngay :

 – “ Có ‘sáu nội xứ’ ở đây phải tường.

         ‘Sáu ngoại xứ’ phải đương cần biết.

          Sáu ‘thức thân’ cần thiết biết đây

              Sáu ‘xúc thân’ cần biết ngay,

      ‘Ý hành mười tám’ phải rày biết tinh,

         ‘Ba mươi sáu hữu tình’ các loại

          Cũng cần phải hiểu biết đủ đầy.

              Tại đây, y cứ cái này

       Và cũng đoạn tận cái này sâu xa.

          Còn có ba niệm xứ bậc Thánh

          Phải thực hành chân chánh trải qua

              Bậc Thánh mới xứng đáng là

       Bậc Đạo Sư diễn giả mà chúng nhân

          Hằng kính phục. Trong phần các bậc

          Huấn luyện sư, chính thật vị này

              Đáng được gọi là bậc Thầy

       Vô thượng Điều-ngự-sư đây tuyệt vời,  

          Điều phục người đáng được điều phục.

          Đây là mục tổng thuyết về phần

             ‘Phân biệt sáu xứ’ chánh chân

       Khi được nói đến về phần nêu trên.

 

         ‘Sáu nội xứ’ phải nên cần biết

          Do duyên gì cần thiết nói ra ?

              Nhãn & nhĩ & tỷ & thiệt xứ, và 

       Thân xứ, ý xứ. Đó là duyên đây.

          Được nói ngay ‘sáu nội xứ’ đó.

 

          Còn khi có nói đến điều này :  

             ‘Sáu ngoại xứ’ phải biết ngay,

       Duyên gì nói đến điều đây như vầy ?

          Sắc xứ này cùng thanh & hương xứ,

          Vị & xúc xứ, pháp xứ sáu phần.

              Khi ta được nghe đến rằng :

       Có ‘sáu ngoại xứ’ phải cần biết đây

          Do duyên này được nói như vậy.

 

          Khi được nói : ‘Sáu loại thức thân’

              Cần nên biết, phải hiểu rằng

       Do duyên gì nói đến phần ‘thức thân’ ?  

          Nhãn & nhĩ & tỷ & thiệt & thân thức ấy

          Cùng ý thức ; chính đấy là duyên,

              Sáu thức thân phải biết liền.

 

       Còn khi nói đến từ duyên nào mà

         ‘Sáu xúc thân’ của ta cần biết ?

          Nhãn & nhĩ & tỷ cùng thiệt xúc, và

              Thân xúc, ý xúc. Khi mà 

       Nói đến : Sáu xúc thân ta phải tường

          Do duyên này nên thường nói vậy.

          Khi nói : ‘Mười tám loại ý hành

 

              Cần phải biết cho thật rành’,

       Duyên gì nói đến ý hành ở đây ?

 

          Khi ‘mắt’ này thấy ‘sắc’ đủ thứ

          Ý theo sắc trú xứ hỷ này,

              Theo sắc trú xứ ưu ngay,

       Theo sắc trú xứ xả đây tức thì.

 

          Và sau khi ‘tai’ nghe được ‘tiếng’…

         ‘Mũi’ ngửi ‘hương’, ‘lưỡi’ nếm ‘vị’ vầy,

              Sau khi ‘thân’ cảm ‘xúc’ đầy,

       Khi ‘ý’ nhận thức ‘pháp’ này được nêu…

          Ý chạy theo pháp khởi lên hỷ

          Ý chạy theo pháp khởi ưu liền,

              Và xả theo pháp khởi lên.

       Như vậy tất cả có nên, tựu thành

          Sáu hỷ hành, ưu hành cũng sáu

          Và có sáu xả hành, như vầy

              Đó chính là do duyên này,

       Ý hành mười tám biết ngay đủ đầy,

          Do duyên này nói đến như vậy.

 

          Còn ‘Ba mươi sáu loại hữu tình’

              Cần phải biết. Duyên gì sinh

       Để nói như vậy ? Quá trình xảy ra 

          Hỷ liên hệ tại gia có sáu,

          Hỷ có sáu liên hệ xuất ly.

              Sáu ưu liên hệ xuất ly,

       Sáu ưu liên hệ tại gia, cùng là

          Xả liên hệ xuất ly có sáu,

          Xả có sáu liên hệ tại gia,

              Ý nghĩa là chi đề ra ?

       Sáu hỷ liên hệ tại gia này, và

 

          Hỷ khởi lên, hoặc là do nó

          Nhận được hay thấy có nhận vào.

 

              Sắc do mắt nhận thức mau

       Khả ái, khả hỷ, dạt dào lạc an

          Liên hệ sang đến thế vật đó

          Hoặc do nhớ những gì nhận rồi,

              Đã qua, đã diệt, mất rồi.

       Loại hỷ như vậy ta thời gọi ra :

         ‘Hỷ liên hệ tại gia’ là nó.

 

          Còn khi có hỷ khởi lên, và  

              Hoặc do nhận được, hay là

       Thấy sự nhận được tiếng là do tai…

          Hương do mũi ở đây nhận thức,

          Vị do lưỡi nhận thức đủ đầy,

              Xúc do thân nhận thức ngay,

       Do ý nhận thức pháp này gần xa,

          Khả ái, khả hỷ và khả lạc,

          Khả ý, liên hệ các vật chi

              Hoặc do nhớ được những gì

       Nhận được về trước, đã đi qua rồi,

          Đã diệt rồi và đã biến hoại.

          Như vậy gọi Ưu Hỷ trải qua

              Thường liên hệ đến tại gia.

 

       Còn sáu hỷ thế nào mà liên quan  

          Đến xuất ly ? Khi đang biết chắc

          Là vô thường các sắc pháp này ,

              Ly tham, biến diệt, hoại ngay.

       Nghĩ rằng : ‘Các sắc pháp này ngày xưa

          Và sắc pháp sớm trưa hiện tại

          Tất cả sắc pháp ấy vô thường,

 

              Khổ và biến hoại, tai ương,                    

       Sau khi như thật tỏ tường thấy ra

          Như vậy, và với chánh trí tuệ

          Có hỷ khởi lên thế, là chi ?

              Khi hỷ liên hệ xuất ly ?

       Thế nào liên hệ mọi thì sáu ưu

          Với tại gia ? Có ưu đã khởi

          Hoặc do bởi không nhận được này

              Thấy sự không nhận được này,

       Sắc do mắt nhận thức ngay, đó là

          Khả ái, khả hỷ và khả lạc

          Khả ý, liên hệ các vật chi

              Hoặc do nhớ được những gì

       Không nhận được trước, đã đi qua rồi,

          Đã diệt rồi và đã biến hoại

          Như vậy gọi là Ưu trải qua

             ‘Ưu liên hệ đến tại gia’.

       Thế nào sáu ưu ấy mà liên quan 

          Đến xuất ly ? Khi đang biết chắc

          Là vô thường các sắc pháp này

              Ly tham, biến diệt, hoại ngay.

       Sau khi như thật thấy vầy, vị trên

          Có chánh trí, khởi lên ước muốn

          Với vô thượng giải thoát, nghĩ là :

             ‘Khi nào ta chứng đạt, và

       An trú trong xứ (A-Da-Ta-Nà)

          Mà bậc Thánh trải qua chứng đạt,

          Trú an lạc. Do ước muốn đây

              Với vô thượng giải thoát vầy,

       Do duyên ước muốn, Ưu này khởi lên

          Loại ưu trên dược gọi, được kể

 

         ‘Ưu liên hệ xuất ly’ vân… vân…

 

              Sau khi biết được ‘lục trần’

      (Sắc, thinh, xúc, pháp và phần vị, hương)

          Sáu trần là vô thường, biến hoại,

          Ly dục lại biến diệt. Nghĩ ngay :

             ‘Sáu trần xưa kia, hiện nay

       Đều khổ, biến hoại, diệt ngay, vô thường

          Khi như thật tinh tường thấy thế’,

          Quán với chánh trí tuệ, vị này

              Liền khởi lên ước muốn ngay

       Với vô thượng giải thoát đây. Nghĩ là :

         ‘Khi nào ta có thể chứng đạt

          Trú an lạc trong ‘xứ’, khi mà

              Bậc Thánh đang chứng đạt, và

       An trú trong ấy. Đó là vì sao ?

         ‘Ước muốn vào vô thượng giải thoát’.

          Ưu khởi phát do ước muốn ni

              Gọi : ‘Ưu liên hệ xuất ly’.

       Sáu ưu liên hệ đồng thì xuất ly.

 

          Thế nào khi ‘sáu xả’ liên hệ  

          Đến tại gia ? Sự thể là vì

              Khi người ám độn, ngu si

       Phàm phu, con mắt thấy gì ở đây ?

          Thấy sắc này với con mắt ấy,

          Xả khởi dậy của một kẻ ngu

              Là người vô văn phàm phu

       Không chinh phục được âm u não phiền,

          Không chinh phục quả duyên dị thục,

          Không thấy mục nguy hiểm sâu xa,

              Loại xả này không vượt qua         

 

       Khỏi sắc pháp. Nên gọi ra xả là

          Liên hệ đến tại gia. Cũng thế

          Khi một kẻ ám độn, ngu si,

              Phàm phu, nghe tiếng mọi thì

       Với tai. Hay mũi họ thì ngửi hương,

          Nếm vị thường với lưỡi của họ,

          Cảm xúc với thân đó, hay là

              Với ý nhận thức pháp ra…

       Vô văn phàm tục  xả mà khởi lên

          Không chinh phục được quả dị thục

          Không chinh phục được phiền não này,

              Không thấy nguy hiểm dẫy đầy

       Xả ấy không vượt qua ngay các trần,

          Do vậy, cần được gọi, được kể

          Xả ‘liên hệ tại gia’ sáu phần.

 

              Ở đây, thế nào nói rằng :  

      ‘Sáu xả liên hệ đến phần xuất ly’ ?

          Ngay sau khi biết sắc, vị, xúc,

          Và tiếp tục biết pháp, thinh, hương

              Là khổ, biến hoại, vô thường,

       Ly tham, biến diệt. Hiểu tường, nghĩ ngay :

         ‘Các sắc pháp, thinh & hương & vị & xúc

          Và các pháp chung cục vô thường,

              Khổ não, biến hoại, tai ương,

       Khi như thật thấy tinh tường điều đây

          Với chánh trí tuệ này, xả khởi,

          Xả ấy gọi ‘liên hệ xuất ly’,

              Sáu xả liên hệ xuất ly.

 

       Còn ‘ba mươi sáu loại chi hữu tình’ 

          Cần phải biết cho tinh, từng loại

 

          Do duyên này, được nói đến vầy.

              Khi được nói đến ở đây :

      ‘Do y cứ vào cái này, diệt ngay

          Vào cái này’. Duyên gì nói vậy ?

          Các Tỷ Kheo ! Ở đấy sẵn sàng

              Do duyên sáu hỷ, liên quan

       Đến xuất ly, diệt hoàn toàn, vượt qua

          Liên hệ đến tại gia sáu hỷ.

          Các Tỷ Kheo ! Nghe kỹ suy nguyên

              Do y cứ và do duyên

       Sáu ưu, sáu hỷ cũng liền liên quan

          Đến xuất ly, hoàn toàn dứt cả,

          Vượt sáu ưu, sáu xả liên quan

              Đến tại gia. Vậy rõ ràng

       Sự đoạn tận chúng, vượt ngang chúng rồi. 

 

          Các Tỷ Kheo ! Do nơi y cứ 

          Do duyên tự sáu hỷ, đồng thì

              Sáu xả liên hệ xuất ly,

       Dứt, vượt khỏi sáu ưu vì liên quan

          Đến xuất ly. Nói sang như vậy

          Là sự ấy đoạn tận chúng thôi,

              Là sự vượt qua chúng rồi.

       Do y cứ, do duyên nơi mọi thì

          Xả liên hệ xuất ly, đình chỉ

          Vượt qua cả sáu hỷ liên quan

              Đến xuất ly. Nên hoàn toàn

       Là sự đoạn tận, vượt ngang chúng rồi.

 

          Các Tỷ Kheo ! Có xả đa diện 

          Và y cứ đa diện một phương,

              Có xả nhất diện dựa nương        

 

 

       Nhất diện đó. Hiểu tận tường ra sao

          Xả đa diện dựa vào đa diện ?

          Như có xả đối diện lục trần

              Sắc pháp, thinh pháp cùng phần

       Hương & vị & xúc & pháp. Ta cần hiểu qua

          Như vậy là thuộc xả đa diện

          Y cứ vào đa diện, hiểu mau.

 

              Còn xả nhất diện là sao ?

       Y cứ nhất diện thế nào ở đây ?

          Có loại xả chỉ ngay y cứ

         ‘Hư không vô biên xứ’ chủ trương,

              Nương ‘Thức vô biên xứ’ thường,

      ‘Vô sở hữu xứ’ xả nương tức thì,

          Nương ‘Phi tưởng phi phi tưởng xứ’.

 

          Các Phích-Khú ! Là xả thuộc vào

              Nhất diên - nhất diện nương mau.

       Các ông ! Do y cứ vào, do duyên

          Xả nhất diện, xả nguyên y cứ

          Vào nhất diện và tự diệt ngay,

              Vượt qua xả đa diện này,

       Xả y cứ đa diện đây đồng thì.

          Như vậy thì sự diệt xả ấy

          Là như vậy, vượt qua xả mau.

 

              Các ông ! Do y cứ vào

       Sự không tham dục, từ đầu do duyên

          Không tham dục và liền diệt cả,

          Vượt qua xả nhất diện đó ngay.

              Xả y cứ nhất diện này

       Như vậy là sự diệt ngay xả này

          Là vượt qua xả đây. Nói tới :

 

         ‘Tại đây bởi y cứ cái này

              Và cũng đoạn tận cái này’

       Chính do duyên đó, như vầy nói ra.

 

          Khi được nói : ‘Có ba niệm xứ

          Một bậc Thánh phải tự thực hành,

              Niệm xứ ấy có thực hành

       Mới xứng được gọi trọn lành Đạo Sư,

          Vị thuần từ giảng cho đồ chúng’.

          Do duyên gì nói cứng như vầy ?

 

              Ở đây, các Tỷ Kheo này !

       Bậc Đạo Sư thuyết pháp đây rõ ràng

          Cho các hàng đệ tử tinh tấn,

          Vì tử mẫn, đem hạnh phúc cho,

              Vì lòng thương tưởng học trò,

       Bảo : ‘Đây là hạnh phúc to lớn vầy,

          An lạc này các ông được hưởng’.

          Một số đệ tử vướng tâm mê

              Không lóng tai để lắng nghe,

       Tâm họ không an trú về trí chân

          Hành động ngược với phần lời dạy

          Của bậc Đạo Sư ấy. Ở đây

              Như Lai không vui điều này

       Không có cảm giác điều này hỷ hoan,

          Nhưng hoàn toàn Ta không dao động,

          Chánh niệm, sống tỉnh giác, an hòa.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Đây là 

       Niệm xứ thứ nhất để mà hành qua.

          Của một bậc Thánh, và nếu có

          Thực hành niệm xứ đó. Vị này

              Mới xứng Đạo Sư trí tài

 

       Diễn giảng cho đồ chúng đây đủ đầy.

          Lại nữa, này Chúng Tăng ! Mặt khác

          Bậc Đạo Sư thuyết pháp suốt thông

              Cho các đệ tử, do lòng

       Từ mẫn, mong hạnh phúc trong hành trình

          Của đệ tử để sinh lợi lạc

 

          Một số đệ tử khác lóng tai

              Khéo nghe, an trú tâm hoài

       Vào chánh trí, nhưng đi ngoài lời răn

          Của Đạo Sư, không hằng thực hiện.

          Các Tỷ Kheo ! Thuộc diện như vầy

              Ta không hoan hỷ điều này,

       Không có cảm giác điều này hỷ hoan.

 

          Sau khi bỏ hai đàng ý nghĩ

          Hoan hỷ, không hoan hỷ cả hai,

              Như Lai trú xả đủ đầy,

       Chánh niệm, tỉnh giác. Điều này ở đây

          Là niệm xứ thứ hai, mãi mãi

          Một bậc Thánh cần phải thực hành,

              Niệm xứ ấy có thực hành

       Mới xứng là Đạo Sư lành đáng phô

          Để diễn giảng cho đồ chúng vậy.

 

          Các Tỷ Kheo ! Được thấy có vì

              Vì lòng bi mẫn, từ bi

       Vì sự hạnh phúc và vì lòng thương

          Thuyết pháp thường cho các đệ tử

          Số đệ tử khéo nghe, lóng tai

              Trú tâm và chánh trí hoài

       Và không đi ngược lời ngài Đạo Sư.

          Các Tỷ Kheo ! Như Lai bản ý

 

          Hoan hỷ, cảm giác hỷ hoan ngay.

              Sống không dao động như vầy

       Chánh niệm, tỉnh giác. Điều đây chính là

          Niệm xứ thứ ba mà bậc Thánh

          Phải thực hành chân chánh đủ đầy,

              Có thực hành niệm xứ này

       Mới xứng là Đạo Sư tài trí thay !

          Diễn giải ngay cho đồ chúng vậy.

 

          Khi nói : ‘Niệm xứ ấy có ba

              Bậc Thánh phải thực hành qua

       Có thực hành đúng mới là xứng danh

          Đạo Sư lành dạy cho đồ chúng’

          Do duyên này, nói đúng như vầy.

 

              Khi được nói đến điều này : 

      ‘Trong các Huấn-luyện-sư đây, vị từ

          Được gọi ‘Điều-ngự-sư vô thượng’

          Điều phục người đáng hưởng điều là

             ‘Đáng được điều phục’ trải qua,

       Do duyên gì được nói ra như vầy ?

          Một con voi bị nài chế ngự

          Là một vị ‘Điều ngự tượng sư’,

              Dẫn dắt để nó chạy từ

       Phương đông, nam, bắc hoặc từ phương tây.

 

          Hoặc ngựa hay do sự điều phục

          Của ‘Điều phục mã sư’ có tài

              Hoặc một con bò ở đây

       Được ‘Điều ngự ngưu sư’ hay, giỏi nghề

          Dẫn dắt chỉ chạy về một hướng

          Hướng bắc, nam hoặc hướng đông, tây.

              Cũng vậy, các Tỷ Kheo này !

 

       Một người do được Như Lai, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán

          Dẫn dắt, chạy khắp mãn bốn phương

              Có sắc, thấy sắc pháp tường

       Là phương thứ nhất. Không thường có ra

          Tưởng nội sắc, thấy qua ngoại sắc,

          Đó đích thật là phương thứ hai.

              Nghĩ đến thanh tịnh tràn đầy

       Chú tâm trên ấy, phương này thứ ba.

 

          Rồi vượt qua hoàn toàn sắc tưởng

          Diệt trừ đối-ngại-tưởng trải qua

              Không nghĩ sai-biệt-tưởng, và

       Nghĩ rằng : Chính ‘Hư không là vô biên’

          Chứng đạt, trú Không Vô Biên Xứ

          Đó chính là phương thứ tư đây.

 

              Vượt Không vô biên xứ này,

       Nghĩ : ‘Thức là vô biên’ vầy, chứng ngay,

          An trú đây : Thức Vô Biên Xứ

          Phương này là phương thứ năm an.

              Vượt qua một cách hoàn toàn

       Thức Vô Biên Xứ, nghĩ sang điều là

         ‘Không có gì cả’ và chứng, trú

          Vào Vô Sở Hữu Xứ nơi này,

              Đó là phương thứ sáu đây.

 

       Vượt Vô sở hữu xứ ngay tức thì

          Chứng Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ

          Và an trú. Phương thứ bảy ni.

              Tưởng xứ Phi tưởng phi phi

       Hoàn toàn vượt khỏi, rồi thì chứng sang

          Và trú an Diệt Thọ Tưởng Định                      

 

          Phương thứ tám là chính điều đây.

 

              Tóm lại, các Tỷ Kheo này !

       Một người đáng được Như Lai, Phật Đà

          Chánh Đẳng Giác, Đại A-La-Hán,

          Dẫn dắt chạy khắp mãn tám phương.

              Khi được nói đến tỏ tường :

      ‘Trong các Huấn-luyện-sư thường an như

          Được gọi ‘Điều ngự sư vô thượng’,

          Là vị điều phục, hướng mục tiêu,

              Người đáng điều phục lợi nhiều,

       Do duyên ấy, được mọi điều như trên ”.

 

          Đức Thế Tôn an nhiên thuyết giảng 

          Pháp vi diệu, viên mãn, minh quang,

              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng

       Hoan hỷ tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 137 :  PHÂN BIỆT SÁU XỨ  –  SALÀYATANAVIBHANGA  Sutta  )  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2018(Xem: 6363)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
06/08/2018(Xem: 7707)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3576)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3530)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11559)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4010)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3476)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10881)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6849)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13121)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]