Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

58. Kinh Vương Tử Vô Úy

19/05/202010:26(Xem: 11248)
58. Kinh Vương Tử Vô Úy

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



58. Kinh VƯƠNG TỬ VÔ ÚY
( Abhayaràjakumàra sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)
              Trúc Lâm – Vê-Lú-Va-Na  (1)
     ( Được dâng cúng bởi Tần-Bà-Sa-La )   
          Ka-Lanh-Đa-Ka-Ni-Va-Pá  (2)
       ( Chỗ vốn đã nuôi sóc hằng hà ) 
              Vương-tử tên A-Pha-Da  (3)
       Tức là Vô Úy – liền qua đến nhà
          Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá  (4)
          Giáo Trưởng Ni-Ganh-Thá phái này.
              Đến nơi liền đảnh lễ Thầy
       Một bên, vương-tử ngồi ngay an hòa.
 
          Ni-Ganh-Tha Na-Ta-Pút-Tá
          Nói với A-Pha-Dá như vầy :
 
        – “ Này Vương-tử ! Hãy đi ngay
       Đến tìm, luận chiến với thầy Sa-Môn
          Gô-Ta-Ma – Tiếng đồn lập tức
          Lan truyền xa : ‘Thần lực cùng là
    __________________________________  
 
(1) : Ràjagaha ( Vương-Xá ) là thủ phủ của vương quốc Magadha 
    – Ma-Kiệt-Đà của vua Tần-Bà-Sa-La và sau là vua A-Xà-Thế .
Tại nơi đây, Vua Bimbisara đã dâng cúng Đức Phật khu rừng trúc của ông để thành lập Trúc Lâm Tinh Xá ( Veluvana Vihàra ).
(2) : Chỗ nuôi sóc Kalandakanivapa .        (3) : Abhaya - Vô Úy .
(4) : Vị Giáo Trưởng của Ni-Kiền-Tử :  Nataputta .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY   * MLH  –  298
 
              Uy lực ông Gô-Ta-Ma     
       Mà đã bị Vương-tử này công khai
          Luận chiến thật ngang tài ngang sức
          Vương-tử này quả thực tài cao ”.
 
        – “ Thưa Tôn-giả ! Làm thế nào
       Có thể luận chiến nhằm vào ông ta ?
          Sa-môn Gô-Ta-Ma đích thực
          Đầy thần lực, uy lực như vầy ? ”.
 
        – “ Này Vương-tử ! Hãy đi ngay
       Đến Sa-môn đó trình bày sâu xa
          Nêu lên Gô-Ta-Ma câu hỏi : 
         ‘Thế Tôn có thể nói lời mà
              Khi những lời ấy thốt ra
       Khiến những người khác nghe qua, tức thì
          Không ưa gì, lại vừa không thích?’. 
          Nếu Sa-môn họ Thích Ca này
              Đáp : ‘Có thể có như vầy
       Có người không thích lời này của Ta’.
          Hãy vặn lại vị Sa-môn đó :
         ‘Nếu mà có xử sự như vầy
              Có gì sai khác ở đây
       Giữa Thế Tôn với kẻ đầy phàm phu ?
          Kẻ phàm phu nói lời gì đó
Thì cũng có người khác không ưa’.     
 
              Còn nếu khi Vương-tử thưa
       Mà Sa-Môn lại dây dưa nói là :
‘Vương-tử ! Ta đây không thể nói
   Do lời nói, kẻ khác không ưa’.
              Thì Vương-tử hãy nên thưa :
     ‘Nếu xử sự như Ngài vừa nói ra,
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  299
 
          Sao Ngài bảo Đê-Va-Đát-Tá  (1)
          Phải bị đọa đọa-xứ khổ đau
              Một kiếp địa ngục phải vào
       Không thể cứu độ, khổ sầu hằng sa
          Khiến Đề-Bà-Đạt-Đa (1) phẫn nộ
          Không ưa thích, nên cố hại Ngài ?’.
 
              Khi Vương-tử hỏi câu này
       Như hai cái móc, móc ngay họng rồi !
          Nuốt không trôi, nhả ra chẳng được.
          Này Vương-tước ! Ông Gô-Ta-Ma
              Từ hai câu hỏi nêu ra
       Như bị móc, khó nhả ra nuốt vào ! ”.
 
          Bị Giáo Trưởng khích vào tự ngã
          A-Pha-Dá – Vô Úy, vâng lời
              Đứng dậy từ chỗ đã ngồi
       Đảnh lễ Giáo Trưởng, đoạn rời nơi đây.
 
          Đi đến ngay chỗ Phật an trú 
          Đảnh lễ đấng Điều Ngự hiện tiền
    __________________________________  
 
(1) : Devadatta  tức Đề-Bà-Đạt-Đa , hay còn được gọi tắt là Điều-
   Đạt , cũng là vương-tử dòng họ Sakya (Thích Ca ), anh của Tôn
   giả Ananda . Sau khi Phật thành đạo, trở về Thành Ca-Tỳ-La-Vệ
   tế độ bảy vị vương-tử xuất gia, trong đó có Devadatta và Ananda
            Trong 12 năm đầu, ông tu hành rất nghiêm túc và đắc thần
  thông phàm . Nhưng sau đó khi được vua A-Xà-Thế trọng vọng,
  cung dưỡng mọi nhu cầu, ông trở nên ngã mạn và có ý muốn thay
  Phật để lãnh đạo Giáo đoàn .Bị Phật quở trách, ông ôm lòng oán
  hận , nên đã yêu cầu Phật chấp thuận 5 cấm giới do ông đề nghị..
  Đức Phật không chấp nhận , nên ông đã  tách riêng  và dẫn theo
  một  số Tỷ Kheo mới tu thành lập phái riêng . Ông cũng nhiều lần
  tìm mọi cách để hại Phật nhưng không thành.Ông phạm vào“ngũ
  nghịch đại tội” với 2 tội danh : Phá hòa hợp Tăng (chia rẽ Tăng  
Chúng) và làm thân Phật chảy máu . 
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  300
 
              Một bên, vương-tử ngồi yên
       Nhưng vương-tử bỗng nhìn lên mặt trời,
          Suy nghĩ : “ Không phải thời luận chiến,
          Thời gian này không tiện cho ta
              Tranh luận cùng Gô-Ta-Ma
       Ngày mai, luận chiến tại nhà của ta ! ”.
 
          Liền bạch với Phật Đà được rõ :  
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Vào ngọ ngày mai
              Mời đến nhà con thọ trai
       Với ba Phích-Khú (1) cùng Ngài quang lâm ”.      
          Phật im lặng, ý thầm chấp thuận,
          Biết Thế Tôn đã nhận lời rồi  
              Vương-tử liền từ chỗ ngồi
       Đứng dậy đảnh lễ, hướng nơi Phật Đà
   Hữu nhiễu và cáo từ, lui gót.
 
          Mãn canh chót, lộ ánh triêu dương
              Theo lời thỉnh, đấng Pháp Vương
       Đắp y, mang bát an tường, uy nghi
          Ba Tỷ Kheo cùng đi, trực chỉ
          Đến nhà của Vô Úy thọ trai,
              Phật ngồi trên chỗ sẵn bày,
       Vương-tử Vô Úy tự tay dâng liền
          Món thượng vị loại mềm và cứng
          Gia nhân đứng phục vụ ngoài trong.
              Sau khi Thế Tôn dùng xong
       Tay rời khỏi bát. Vui lòng chủ gia
          A-Pha-Da liền ngồi nghiêm cẩn
          Trên ghế thấp kê sẵn một bên
    __________________________________  
 
(1) : Bhikkhu : Tỳ-Khưu  hay  Tỷ-Kheo , nghĩa là vị Khất-sĩ .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  301
 
              Rồi vương-tử ấy thưa liền :
 – “ Bạch Phật ! Ngài có nói lên những lời
          Do lời ấy, nhiều người không thích,
          Không ưa, nên đối nghịch với Ngài ? ”.
 
        – “ Vương-tử ! Phải chăng ở đây
       Câu hỏi dụng ý hỏi ngay một chiều ? ”.
 
    – “ Bạch Phật ! Điều mà Ngài đáp lại
          Ni-Ganh-Tha họ bại mất rồi ! ”.   
 
        – “ Vương-tử ! Không thể nói chơi ! 
       Vì sao ông nói những lời như trên ? ”.  
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Nêu lên như thế
          Con xin kể cớ sự xảy ra :
              Giáo Trưởng Na-Tá-Pút-Ta
       Bảo con đến gặp Gô-Ta-Ma Ngài
          Để luận chiến với Ngài một trận
          Con ngần ngại, nói thẳng ý mình :
             ‘Sa-Môn Kiều-Đàm cao minh
       Thần lực, uy lực thật tình rất cao
          Làm thế nào mà tôi luận chiến ?’.
 
          Giáo Trưởng bảo thực hiện dễ thôi !     
              Khi gặp vị Kiều-Đàm rồi
       Nêu hai câu hỏi hai thời khác nhau.
          Câu hỏi đầu như con vừa hỏi,
          Nếu Ngài nói rằng có như vầy
              Thì sẽ hỏi vặn lại ngay :
      ‘Xử sự như vậy cũng tày phàm phu,
          Kẻ phàm phu nói lời nào đó
          Thì cũng có người chẳng thích, ưa’. 
              Nếu với câu hỏi con thưa
       Mà câu Ngài đáp thật vừa ý ông
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  302
 
          Là Thế Tôn Ngài không thể nói
          Những lời nói người khác ghét ngay,
              Thì con phải vặn lại vầy :
      ‘Nếu mà xử sự như Ngài nói ra
          Sao Ngài bảo Đê-Va-Đát-Tá   
          Phải bị đọa đọa-xứ khổ đau
              Một kiếp địa ngục phải vào
       Không thể cứu độ, khổ sầu hằng sa
          Khiến Đề-Bà-Đạt-Đa phẫn nộ
          Không ưa thích, nên cố hại Ngài ?’.
 
              Khi Sa-Môn bị hỏi vầy
       Như hai cái móc, móc ngay họng rồi !
          Nuốt không trôi, nhả ra chẳng được.
          Đó chính là mưu chước bày ra
              Của ông Na-Tá-Pút-Ta
       Bảo con luận chiến trải qua với Ngài
          Rồi từ hai câu con hỏi đó
          Như bị móc móc cổ họng ngay ”.
 
              Lúc bấy giờ, tại nơi này
       Có đứa con nít thơ ngây, hồng hào
          Nằm dựa vào đầu gối vương-tử
          Phật bèn hỏi vương-tử như sau :
 
        – “ Này Vương-tử ! Nghĩ thế nào
       Nếu hài-nhi đó, do vào vô tâm
          Của Vương-tử, hoặc nhằm người vú
          Do vô ý nên chú bé này
              Tự thọc vào miệng que dài
       Hay cầm hòn sỏi nuốt ngay vào mồm,
          Vậy Vương-tử đang ôm đứa nhỏ
          Phải làm gì lúc đó tức thì ? ”.
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  303
 
        – “ Bạch Ngài ! Con ôm hài-nhi
       Đưa tay vào miệng, kiên trì móc ra
          Nếu không thể móc ra tức khắc
          Thì tay mặt làm như móc câu
              Tay trái giữ chặt lấy đầu
       Móc cho kỳ được, cho dầu máu ra ”.
 
    – “ Vương-tử ! Lời nói Ta cũng vậy !
 
      *  Như Lai biết lời ấy thuộc phần    
              Không như thật, không như chân
       Không tương ứng mục đích cần nói ra,
          Lời nói khiến người ta không thích
          Sẽ công kích hoặc bất mãn ngay
      Thời Ta không nói lời này.   
 
   *  Lời nào Ta biết có đầy như chân
          Cùng như thật, nhưng phần chứa đựng
          Không tương ứng mục đích cần đưa
              Khiến cho nhiều người không ưa
       Ta không nói, không dây dưa chuyện này.
 
      *  Lời nói nào Như Lai biết rõ
          Là vốn có như thật, như chân
              Tương ứng với mục đích cần
       Dù lời nói đó mọi phần chánh chân
          Nhưng người khác nhiều phần không thích
          Ta biết thời giải thích lời này.
 
          *  Lời không như thật, chẳng ngay
       Không như chân cũng không rày thanh cao
          Không tương ứng nhằm vào mục đích
          Nhiều người không ưa thích, cau mày 
      Thời Ta không nói lời này.
  *  Lời nào Ta biết vốn đầy như chân
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  304
 
          Và như thật, nhưng phần chứa đựng
          Không tương ứng mục đích cần đưa
              Dù những người khác thích, ưa
       Thời Ta không nói và chừa điều đây.
 
      *  Lời biết ngay như chân, như thật
          Mục đích rất tương ứng ở trong
              Khiến nhiều người thích, hài lòng,
       Ta biết giải thích cho thông, hợp thời.
          Vì sao vậy ? Do nơi thương tưởng
          Đối với những hữu tình nơi nơi ”.
 
        – “ Bạch Thế Tôn ! Với những người
       Giòng Sát-Đế-Lỵ, đồng thời Bàn-môn,
          Những Sa-môn, Gia Chủ các vị
          Đều là người có trí, có tài
              Sau khi chuẩn bị sẵn ngay
       Những câu hỏi, đến gặp Ngài hỏi ra :
       “ Bạch Phật Đà ! Chúng con muốn biết
          Ngài có thiệt suy nghĩ trước là :
             ‘Nếu có những ai đến Ta,
       Hỏi Ta điều ấy thì Ta trả lời
 Đúng như điều mà Ta nghĩ trước’,
          Hay câu hỏi đó được trả lời
              Tại chỗ, một cách thảnh thơi ? ”.
 
 – “ Này Vương-tử ! Nghĩ sao nơi chuyện này :
          Nếu có người gặp ngay Vương-tử
          Hỏi Vương-tử quanh chuyện về xe :
             ‘Bộ phận này của cái xe
       Tên gọi của nó trong xe là gì ?’,
          Không hiểu ông có suy nghĩ trước
          Câu trả lời đã được tính rồi ?
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  305
 
              Hay trả lời ngay tức thời ?” .
 
 – “ Bạch Phật ! Con trả lời ngay tức thì
          Điều đó, vì con đây nổi tiếng
          Đánh xe giỏi, phân biện rành về
              Các bộ phận trong cái xe ”.
 
 – “ Cũng vậy, Vương-tử ! Nói về Bàn-môn,
          Sát-Đế-Lỵ, Sa-môn, Gia -chủ,
          Đều có đủ trí tuệ, có tài
              Soạn sẵn câu hỏi như vầy
       Đến Như Lai để hỏi ngay điều này
   Thời Như Lai trả lời tại chỗ.
          Vì sao vậy ? Vì có phạm trù
            ‘Pháp giới’ – Tham-Ma-Tha-Tu  (1)
       Được Ta khéo biết đặc thù sâu xa ”.  
 
          Nghe Phật Đà trình bày tuần tự  
          A-Pha-Da vương-tử thưa ngay :
       – “ Bạch Thế Tôn ! Vi diệu thay ! 
       Như người dựng vật lăn quay ngã nằm
          Chỉ hướng kẻ sai lầm lạc lối
          Đem đèn sáng vào tối như bưng
              Để ai có mắt mở bừng
       Có thể thấy được sáng trưng sắc màu.
          Cũng như thế, nhiệm mầu Chánh Pháp
          Được Thế Tôn giải đáp, trình bày
              Con xin quy ngưỡng từ nay
       Quy y Đại Giác, nương ngay Pháp mầu,
          Quy y Tăng thanh cao đức cả
          Nối tiếp nhau hoằng hóa Pháp môn
    __________________________________  
 
   (1) :  Pháp giới : Dhammadhatu .
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 58 : VƯƠNG TỬ VÔ ÚY  * MLH  –  306
 
            Mong Thế Tôn nhận cho con
       Được làm đệ tử, vun tròn thiện duyên
          Xin phát nguyện vẹn tuyền ngưỡng phục
          Kể từ nay đến lúc mạng chung
              Tín thành nương đấng Đại Hùng
       Thực hành Giáo Pháp muôn trùng cao thâm./-
 
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )
 
 
*  *  *
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 58  :VƯƠNG TỬ VÔ ÚY   –  
 ABHAYARÀJAKUMARA Sutta  )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2018(Xem: 6363)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
06/08/2018(Xem: 7707)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3576)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3530)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11557)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4009)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3476)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10879)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6849)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13121)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]