Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

146. Kinh Giáo Giới Nandaka

19/05/202011:38(Xem: 9872)
146. Kinh Giáo Giới Nandaka

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


146. Kinh GIÁO GIỚI NANDAKA

( Nandakovàda sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ  (1)

          An trú tại Xá-Vệ (2) thành này

              Sa-Vát-Thí (2) cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá (3) hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná  (3)

          Khu vườn do Trưởng giả tên là

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka

       Tức Cấp-Cô-Độc, thuần hòa tín gia

          Mua lại từ Kỳ Đà Thái-tử

          Để cúng dường Điều Ngự Phật Đà

              Cùng với Tỷ-Kheo Tăng-Già

    _______________________________

 

 (1) : Hai trong 10 danh hiệu ( Thập Hiệu ) do người đời tôn xưng

         Đức Phật : Thế Tôn ( Bhagavà ) và Thiện Thệ ( Sugato ).

 (2) : Thành Xá Vệ tức Savatthi (Thất-La-Phiệt) một trung tâm văn 

     hóa, thương mại và chính trị quan trọng tại Ấn Độ đương thời .   

(3) : Jetavanavihàra : Kỳ Viên  hay  Kỳ Hoàn Tinh Xá ,do Trưởng  

giả Cấp-Cô-Độc ( Anathapindika – tên thật là Sudatta – Tu-Đạt ) mua lại từ  khu vườn của Thái Tử Kỳ Đà (Jeta ) gần Thành Xá Vệ (Savatthi ) dâng cho Đức Phật .      Tại đây đức Phật đã nhập hạ nhiều lần và nhiều Kinh quan trọng đã được Phật thuyết ra .

Vì Trưởng giả Cấp-Cô-Độc đã dùng vàng lót trên mặt đất để mua cho được khu vườn theo lời thách của  Thái Tử  Kỳ Đà , nên chùa này còn được gọi là Bố Kim Tự (chùa trải vàng ). Cảm phục tấm lòng nhiệt tâm vì đạo của Trưởng Giả, Thái Tử hoan hỷ cúng toàn bộ cây trái trong vườn đến Phật và Tăng chúng ,  nên ngôi chùa thường được gọi với danh xưng : Jetavana Anàthapindikàràma

–  Kỳ Thọ Cấp-Cô-Độc Viên ( vườn Cấp-Cô-Độc, cây Kỳ Đà ). 


 

       Ngày ngày Giáo Pháp tịnh hòa xiển dương.

 

          Như lệ thường, đến thời giáo giới

          Của Chư Tăng đối với Chúng Ni.

              Ma-Ha Pa-Chá-Pa-Ti  (1)

       Tức Ni Trưởng Gô-Ta-Mi – ngày rằm

          Cùng với khoảng năm trăm Ni-giới

          Đồng đi tới trú xứ Thế Tôn

              Tất cả đảnh lễ Thế Tôn

       Một bên đứng cạnh Thế Tôn, thưa là :

 

    – “ Bạch Phật Đà ! Ngài hãy giáo giới 

          Cho Tỷ Kheo Ni-giới hiện nay.

              Thỉnh Ngài thuyết pháp, giảng bày

       Cho Ni-giới chúng con đây phụng hành ”.

 

          Lúc bấy giờ, đã thành thông lệ

          Các Trưởng Lão cao đệ, hay là

              Các Thượng Tọa – thay phiên mà

       Giáo giới Ni Chúng giới hòa đồng tu.

          Vị Phích-Khu tên Nan-Đa-Ká  (2)

           Ý Tôn-giả này không muốn đi

               Giáo giới Chúng Tỷ Kheo Ni.

 

       Thế Tôn cho gọi tức thì A-Nan  

          Hỏi rằng : “ Này A-Nan ! Đã tới

          Phiên của ai giáo giới hôm nay

              Cho Chúng Tỷ-Kheo-Ni này ”.

 

 – “ Bạch Thế Tôn ! Đúng ra ngày hôm nay

          Đến phiên ngài Nan-Đa-Ká ấy

          Nhưng vị đấy lại không muốn đi

    ____________________________

 

(1) : Đức Bà Mahà Pajapati Gotami, sau khi xuất gia lãnh đạo

       Chúng Tỷ Kheo Ni.          (2) : Tôn-giả Nandaka.


 

              Giáo giới Chúng Tỷ-Kheo-Ni ”.

 

       Thế Tôn liền bảo thông tri tức thời

          Để chuyển lời Ngài gọi Tôn-giả

          Nan-Đa-Ká. Vị ấy đến ngay.

              Thế Tôn bảo Tôn-giả này :

 

 – “ Này Nan-Đa-Ká ! Đến ngay đạo tràng

          Để giáo giới đến hàng Ni Chúng

          Hãy giảng dạy Ni Chúng, thuyết ra

              Pháp cho Ni-giới thuận hòa ”.

 

 – “ Thưa vâng, bạch đức Phật Đà ! Con đi ”.

          Nan-Đa-Ká tức thì vâng lệnh.

          Bình minh đến, mang bát đắp y

              Đi vào thành Sa-Vát-Thi

       Tuần tự khất thực. Sau khi trì bình

          Ngài thọ thực. Một mình sau đó

          Trở về mà không có ai là

              Cùng đi, trực chỉ để qua  

       Vương Tự – Ra-Chá-Ka-Ra-Ma này.  (1)

          Ni Chúng tại nơi đây vừa thấy

          Tôn-giả ấy đi đến từ xa

              Liền sửa soạn chỗ ngồi, và

       Chuẩn bị nước rửa chân mà sắp ra.

          Tôn-giả Nan-Đa-Ka an tọa

          Chỗ ngồi đã soạn sẵn, rửa chân.

              Chúng Tỷ-Kheo-Ni nghiêm cần

       Đảnh lễ Tôn-giả, ngồi gần một bên.

 

          Vị Tôn-giả liền lên tiếng bảo :

    – “ Chư Hiền-tỷ ! Buổi giáo giới này

    ___________________________

 

   (1) : Vương Tự - Rajakàràma.

 

 

              Sẽ có luận thuyết thẳng ngay        

       Bằng những câu hỏi. Những ai biết, thì

          Hãy trả lời tức thì : ‘Tôi biết’,

          Còn những ai không biết, đáp ngay :

             ‘Tôi không biết’. Nếu có ai

       Ngờ vực, nghi hoặc ở đây, phải cần

          Nên hỏi rằng : ‘Thưa ngài, như vậy

          Sự việc ấy là như thế nào ?

              Ý nghĩa việc ấy ra sao ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Cho đến vào hiện nay  

          Chúng con đây rất là hoan hỷ

          Và thỏa mãn với vị giảng-sư

              Là Nan-Đa-Ká nghiêm từ

       Cho chúng con được hỏi Sư những điều

          Mà phần nhiều chúng con chưa rõ ”.

 

    – “ Chư Hiền-tỷ ! Đã có hiểu tường 

              Mắt là thường hay vô thường ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Là vô thường mắt ni ”.

 

    – “ Phàm cái gì vô thường là lạc

          Hay nói khác là khổ ở đây ? ”.

 

       – “ Thưa Tôn-giả ! Là khổ đầy ”.

 

 – “ Cái vô thường, khổ, đổi thay tức thời,

          Bị biến hoại. Vậy thời khả dĩ

          Có hợp lý khi nghĩ ngư vầy :

             ‘Của tôi’, ‘là tôi’ cái này,

      ‘Cái này là tự ngã rày của tôi’ ? ”.

 

    – “ Điều này thời không phải như vậy ”.

 

    – “ Các Hiền-tỷ ! Nghĩ lại các phần


 

              Về tai, mũi, lưỡi, ý. thân,

       Là vô thường hay mọi phần thường đây ? ”.

 

    – “ Những điều này là vô thường tất ”.

 

    – “ Vô thường thật là khổ hay vui ? ”.

 

        – “ Thưa ngài ! Là khổ, không vui ”.

 

 – “ Cái vô thường, khổ, chẳng vui, biến hoài,

          Có hợp lý nếu ai suy nghĩ :

         ‘Cái này là đích thị của tôi’,

             Hay là ‘cái này là tôi’,

      ‘Nó là tự ngã của tôi’ – nghĩ vầy ? ”.

 

    – “ Không phải vậy, thưa ngài Tôn-giả !

          Sao vậy ? Thưa Tôn-giả ! Trước đây

              Chúng con đã khéo thấy ngay,

       Thấy như chơn với trí đầy chánh chân :

          Là vô thường sáu phần nội xứ ”.

 

    – “ Các vị Nữ Hiền-giả ! Lành thay !  

              Đó chính phải là như vầy.

       Như-chơn thấy với trí đầy chánh chân

          Của bản thân vị Thánh đệ tử.

          Các Hiền-tỷ ! Đã tự hiểu ngay

              Sắc thường hay vô thường vầy ?

       Thinh, hương, vị, xúc thường hay vô thường ?

          Pháp là thường hay vô thường vậy ? ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Các điều ấy vô thường ”.

 

        – “ Cái gì gọi là vô thường

       Là khổ hay lạc, hiểu tường ra sao ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Đáp mau là khổ ”.

 

    – “ Cái gì vô thường, khổ, đổi thay


 

              Chịu sự biến hoại như vầy

       Có hợp lý khi quán ngay, nghĩ là :

         ‘Cái này là của tôi, ‘Tôi đó’,

         ‘Cái này có tự ngã của tôi’ ? ”.

 

        – “ Thưa Tôn-giả ! Là không rồi !

       Vì sao ? Trước, chúng con thời đinh ninh

          Với cái nhìn như-chơn, chánh trí :

         ‘Sáu ngoại xứ này chỉ vô thường ”.

 

        – “ Lành thay ! Các vị hiểu tường, 

       Chính là như vậy, nhìn thường như-chân

          Với chánh trí Thánh nhân đệ tử.

          Các Hiền-tỷ ! Hãy thử nghĩ sao

              Nhãn thức là thường hay sao ?

       Hay vô thường vậy ? Hiểu mau cho tường ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Là vô thường nhãn thức ”.

 

    – “ Nếu vô thường, khổ thực hay vui ? ”. 

 

       – “ Tôn-giả ! Là khổ, chẳng vui ”.  

 

 – “ Nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức vui hay sầu ?

          Cùng ý thức vui mau hay khổ ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Đều khổ, vô thường ”.

 

        – “ Cái gì mà khổ, vô thường

       Chịu sự biến hoại, tang thương phong trần,

          Hợp lý chăng khi quán tất tật :

         ‘Cái này thật của tôi’, ‘Chính tôi’,

             ‘Nó là tự ngã của tôi’ ? ”.

 

 – “ Thưa không. Vì quá khứ thời, chúng con

          Đã khéo thấy như-chơn, chánh trí :

         ‘Sáu thức thân này chỉ vô thường ”. 

 

         – “ Lành thay ! Các vị hiểu tường


 

       Chính là như vậy, nhìn thường như-chân

          Với chánh trí Thánh nhân đệ tử.

          Này các Nữ Hiền-giả ! Ví như

              Ngọn đèn dầu đốt cháy từ

       Dầu, bấc, ngọn lửa. Thực hư thế nào

          Nếu nói là mặc dầu như vậy

          Ánh sáng ấy thường trú, thưòng còn

              Trong khi hiểu biết như-chơn

       Dầu, bấc, ngọn lửa thuộc cơn vô thường,

          Chịu biến hoại. Hiểu thường như vậy

          Lời nói ấy có chân chánh không ? ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Điều đó là không !

       Vì sao ? Nguyên, vật liệu trong đèn dầu

          Từ ngọn lửa, bấc, dầu… mọi thứ

          Đều vô thường, chịu sự đổi thay,

              Còn nói gì ánh sáng này,

       Cũng chịu biến hoại, đổi thay, vô thường ”.

 

    – “ Các Hiền-tỷ ! Hiểu tường, đúng vậy

          Nếu ai đấy phát biểu như vầy :

             ‘Vô thường sáu ngoại giới này,

       Do duyên sáu ngoại giới này, nên tôi

          Có cảm thọ, lạc, rồi khổ thọ,

          Bất khổ bất lạc thọ như vầy

              Các cảm thọ ấy còn hoài,

       Thường hằng, thường trú, không rày đổi thay !’

          Các Hiền-tỷ ! Người này nói vậy

          Lời nói ấy có chân chánh không ? ”.

 

        – “ Tôn-giả ! Điều đó là không ! 

       Vì sao vậy ? Do duyên trong cái này

          Cảm thọ như thế này, cùng với

          Như thế này mà khởi lên ngay.

              Do diệt các duyên thế này,

       Các cảm thọ như thế này, cho nên

          Như thế này cũng liền biến diệt ”.

 

    – “ Các Hiền-tỷ ! Quả thiệt lành thay !

              Chính phải là đúng như vầy !

       Với chánh trí tuệ nhìn rày như-chân

          Của các vị Thánh nhân đệ tử.

          Này các Nữ Hiền-giả ! Ví vầy :

              Có cây to lớn, thẳng ngay

       Cành lá, thân, rễ, lõi cây… đều là

          Chịu sự vô thường và biến hoại,

          Cả bóng cây cũng lại vô thường.

              Nếu một người nọ nói cương :

      ‘Thân, rễ, cành, lõi… vô thường cả đây,

          Nhưng bóng mát của cây còn mãi,

          Thường còn, thường trú lại thường hằng,

              Không chịu biến hoại mọi phần

       Lời ấy có phải chánh chân không nào ? ”.

 

    – “ Thưa ngài, không. Vì sao nói vậy ?

          Thân cây ấy cao lớn, thẳng ngay 

              Thân, rễ, cành lá, lõi cây…

       Đều vô thường cả, chịu rày biến thiên,

          Còn nói gì đến riêng bóng mát

          Cũng vô thường, chịu các đổi thay ”.

 

         – “ Các Hiền-tỷ ! Đúng như vầy !  

       Nếu có ai đó nói ngay một đường :

         ‘Là vô thường cả sáu nội xứ,

          Do duyên sáu ngoại xứ ở đây

              Tôi cảm thọ lạc & khổ, hay    

       Bất khổ bất lạc thọ ngay như vầy.

          Cảm thọ này thường còn, thường trú,

          Thường hằng, không chịu sự đổi thay’.

              Nếu người ấy nói như vầy

       Lời ấy là chân chánh hay thế nào ? ”.

 

    – “ Thưa Tôn-giả ! Tào lao, không đúng !

          Vì sao vậy ? Vì chúng ở đây

              Do duyên cái này, cái này,

       Và cảm thọ như thế này, như đây

          Khởi lên ngay. Do diệt duyên đó

          Các cảm thọ thế này, thế này

              Cũng sẽ bị biến diệt ngay ”. 

 

 – “ Này các Hiền-tỷ ! Lành thay ! Đúng vầy !

          Chính phải là như vầy, đại để

          Cái nhìn chánh trí tuệ, như chân

              Của Thánh đệ tử nghiêm cần.

 

       Ví như một đồ tể nhân giết bò

          Thật thiện xảo, hay do đệ tử

          Sau khi tự giết chết con bò

              Với con dao sắc bén, to

       Người ấy mổ cắt thịt bò thật thông,

          Không hư hại phần trong thịt ấy,

          Không hư hại phần da bên ngoài.

              Rồi cũng với con dao này

       Cắt đứt, cắt đoạn mọi dây thịt cần

          Và dây gân, dây khớp xương cả.

          Sau khi đã cắt tiệt, đứt ra

              Người đồ tể đó lột da,

       Lại bao trùm cả với da bò này.

          Rồi người ấy nói vầy : ‘Bò đó

          Nay đã có dính liền với da

              Như trước khi đã xảy ra’.

       Này các Hiền-tỷ ! Nói ra như vầy

          Lời nói này có phải chân chánh ? ”.

 

    – “ Tôn-giả ! Phải nói mạnh là không ”.

              Vì sao vậy ? Phải hiểu thông

       Con bò bị giết, mổ lòng chia ra

          Mà lấy da bao trùm thịt ấy

          Rồi nói đấy là con bò nguyên,

              Lời ấy quả thật sai liền ”.

 

 – “ Các Hiền-tỷ ! Có căn duyên dụ này

          Là để nêu rõ bày ý nghĩa

          Ở đây, có ý nghĩa như vầy :

              Phần thịt trong đồng nghĩa ngay

       Với sáu nội xứ. Da này giống như

          Sáu ngoại xứ. Này chư Hiền-tỷ !

          Dây thịt, gân, dây chỉ khớp xương

              Đồng nghĩa dục hỷ, tham lường.

       Con dao sắc bén dùng thường ở đây

          Đồng nghĩa ngay với Thánh trí tuệ

          Thánh trí tuệ cắt tiệt, đứt ra

              Phiền não, nội kiết sử, và

       Các nội triền phược trải qua mọi thì.

 

          Các vị ! Bảy giác chi thu thập  

          Do tu tập, làm sung mãn ngay

              Về cả bảy giác chi này.

       Tỷ Kheo với sự đoạn ngay tức thì

          Các lậu hoặc, chứng tri tự tại

          Tự mình, trong hiện tại với hàng

              Thượng trí, chứng đạt trú an         

       Vô lậu tâm giải thoát, đang hướng vào

          Tuệ giải thoát. Thế nào là bảy ?

          Các vị ! Tỷ Kheo ấy hành trì

              Tu tập về ‘niệm giác chi’,

       Ly tham y chỉ, viễn ly nương vào

          Nương đoạn diệt, hướng vào từ bỏ,

          Tu tập có ‘trạch pháp giác chi’,

              Tu tập ‘tinh tấn giác chi’,

       Tu tập về ‘hỷ giác chi’, sẵn sàng

          Tu ‘khinh an giác chi’, ‘định’, ‘xả’,

          Nương tựa cả ly tham, viễn ly,

              Y chỉ đoạn diệt tức thì,

       Hướng đến từ bỏ. Giác chi bảy điều 

          Tu tập nhiều, làm cho sung mãn

          Tỷ Kheo với sự đoạn tận ni

              Tất cả lậu hoặc, sau khi

       Ngay trong hiện tại, chứng tri tự mình

          Với thượng trí, hành trình chứng đạt

          Vô lậu tâm giải thoát trú an

              Cùng tuệ giải thoát minh quang ”.  

 

       Sau khi giáo giới đến hàng Chúng Ni

          Nan-Đa-Ka là vì Tôn-giả

          Liền bảo cả Tỷ Kheo Chúng Ni :

 

        – “ Các Hiền-tỷ ! Hãy về đi !

       Thuận hòa giải tán sau khi nghe rồi ”.

 

          Các Tỷ Kheo Ni nơi giáo giới

          Hoan hỷ với buổi giảng tại đây,

              Tín thọ lời Tôn-giả này

       Đứng dậy đảnh lễ, tâm rày niệm ân,

          Hữu nhiễu, thân hướng về Tôn-giả,

          Rồi tất cả đi đến Thế Tôn       

              Sau khi đảnh lễ hết lòng

       Đứng qua bên cạnh. Thế Tôn bảo là :

 

    – “ Này Ni Chúng ! Hãy ra đi cả,

          Giờ đã đến, Tinh Xá hãy về ”.

 

              Các Tỷ Kheo Ni liền về

       Sau khi đảnh lễ trước bề Thế Tôn.

          Đức Thế Tôn sau đó liền gọi

          Chư Tỷ Kheo rồi nói như vầy :

 

        – “ Hãy nghe, các Tỷ Kheo này !

       Ví như ngày Bố-tát đầy trăng trong

          Mười bốn, quần chúng không nghi hoặc

          Không nghi ngờ rằng mặt trăng đây

              Không tròn hay là tròn đầy,

       Vì khi ấy mặt trăng đây chưa tròn.

          Cũng vậy, Ni Chúng còn chưa thỏa

          Với lời Nan-Đa-Ká thuyết minh

              Dẫu vẫn hoan hỷ và tin ”.

 

       Rồi Thế Tôn bảo một mình Tỷ Kheo : 

 

    – “ Nan-Đa-Ká ! Duyên theo việc ấy 

          Vào ngày mai, ông hãy nên đi  

              Giáo giới các Tỷ Kheo Ni

       Với bài giáo giới đoạn nghi, tinh cần ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Xin vâng lời dạy ”.  

 

          Tôn-giả ấy vào sáng hôm sau

              Đắp y mang bát, đi vào

       Thành Sa-Vát-Thí, trước sau trì bình.

          Ngọ thực xong, một mình đi tới

          Để giáo giới Ni Chúng nơi là  

              Vương Tự – Rá-Chá-Ra-Ma

       Chúng Ni các vị liền ra đón chào

          Thỉnh ngài vào ngồi chỗ đã soạn,

          Chúng Ni đảnh lễ, đoạn ngồi vào

              Hai bên Tôn-giả trước sau

       Yên lặng thính pháp. Mở đầu nghiêm trang

          Tôn-giả Nan-Đa-Ka liền bảo :

 

    – “ Các Hiền-tỷ ! Buổi giáo giới này

              Sẽ có luận thuyết thẳng ngay        

       Bằng những câu hỏi. Những ai biết, thì

          Hãy trả lời tức thì : ‘Tôi biết’,

          Còn những ai không biết, đáp ngay :

             ‘Tôi không biết’. Nếu có ai

       Ngờ vực, nghi hoặc ở đây, phải cần

          Nên hỏi rằng : ‘Thưa ngài, như vậy

          Sự việc ấy là như thế nào ?

              Ý nghĩa việc ấy ra sao ? ”.

 

 – “ Thưa Tôn-giả ! Cho đến vào hiện nay  

          Chúng con đây rất là hoan hỷ

          Và thỏa mãn với vị giảng-sư

              Là Nan-Đa-Ká nghiêm từ

       Cho chúng con được hỏi Sư những điều

          Mà phần nhiều chúng con chưa rõ ”. 

 

          Tiếp sau đó, Tôn-giả ân cần

              Nêu những câu hỏi từng phần

       Như sự giáo giới ở lần trước đây.

          Các Tỷ Kheo Ni này lần lượt

          Trả lời ngài sau trước rõ ràng.

              Cuối cùng Tôn-giả nói sang

      ‘Bảy giác chi’ giúp các hàng xuất gia

          Do tu tập thật là viên mãn

          Với sự đoạn tận lậu-hoặc này,

              Tự mình đã chứng tri ngay

       Trong hiện tại, thượng trí đầy minh quang

          Với thượng trí, trú an chứng đạt

          Cùng với tuệ giải thoát tròn đầy.

 

              Chính trong buổi giáo giới này

       Như thể trùng tụng đủ đầy pháp chân

          Và Ni Chúng tinh cần suy gẫm,

          Nên nhuần thấm nghĩa lý siêu minh,

              Hoan hỷ tín thọ phụng hành

       Sau buổi giáo giới vốn dành Chúng Ni.

 

          Rồi sau đó thời vì Tôn-giả 

          Liền bảo cả Chúng Tỷ Kheo Ni :

 

        – “ Các Hiền-tỷ ! Hãy về đi !

       Thuận hòa giải tán sau khi nghe rồi ”.

 

          Ni Chúng này từ nơi giáo giới

          Cùng đi tới trú xứ Phật Đà,

              Sau khi đảnh lễ, đứng qua

       Một bên Điều Ngự. Phật Đà nói ra :

 

    – “ Này Ni Chúng ! Hãy ra đi cả ! 

          Giờ đã đến, Tinh Xá hãy về ”.

 

              Các Tỷ Kheo Ni liền về

       Sau khi đảnh lễ trước bề Thế Tôn.

          Đức Thế Tôn sau đó liền gọi

          Chư Tỷ Kheo rồi nói như vầy :

 

        – “ Hãy nghe, các Tỷ Kheo này !

       Ví như ngày Bố-tát đầy trăng trong

          Ngày rằm, quần chúng không nghi hoặc

          Không nghi ngờ rằng mặt trăng đây

              Không tròn hay là tròn đầy,

       Vì ngày rằm mặt trăng đây thật tròn.

          Nay Ni Chúng hoàn toàn thỏa mãn

          Với lời giảng của Nan-Đa-Ka

              Trong năm trăm người kể ra

       Tỷ-Kheo-Ni ấy trải qua một chiều

          Tất cả đều đạo quả đạt chứng,

          Người thấp nhất cũng chứng Thất Lai  (1)

              Không còn đọa lạc lâu dài

       Vô Dư sẽ đạt kiếp nay, hoặc vào

          Một hay bảy kiếp sau giải thoát

          Đạt Chánh Đẳng Chánh Giác minh quang ”.

 

              Thế Tôn giảng giải rõ ràng

       Chúng Tăng tín thọ lời vàng, hân hoan ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh số 146 :  GIÁO GIỚI NANDAKA  –  NANDAKOVÀDA  Sutta  )  

 

 

 

 

 

 

   ____________________________ 

 

(1) : Đạo quả Thinh Văn Tu-Đà-Hoàn  ( Sotàpatti ) còn gọi là

       Dự-Lưu quả hay Thất Lai quả, vì chỉ còn luân hồi sinh tử

      7 lần nữa sẽ đạt được Vô Dư Y Niết Bàn.  

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7524)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3514)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3467)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11182)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3946)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3428)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10711)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6767)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12339)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4232)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]