Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

18. Kinh Mật Hoàn

18/05/202019:54(Xem: 9123)
18. Kinh Mật Hoàn

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



18. Kinh MẬT HOÀN

( Madhupindika sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn an trụ

          Ka-Pì-La-Vát-Thú(1) thành này

 (Ca-Tỳ-La-Vệ(1) làđây)

       Giữa các thân quyến họ Ngài – Thích Ca             

          Tại vườn Ni-Rô-Tha-Ra-Má(2)

          Vào buổi sáng, Giác Giả Phật Đà

              Mang bát, đắp y ca-sa

       Khất thực tại Ca-Tỳ-La-Vệ thành.

          Sau khất thực, tịnh thanh thọ thực

          Rồi Đại Lâm lập tức đi qua

              Ngồi nghỉ dưới cội tên là

       Bê-Lu-Vát-Thí-Ka (3) cây này.

 

          Có vị ‘gậy cầm tay’ Sắc-Ká(4)

          Là một gã du sĩ dạn dày

              Ngao du thiên hạđóđây

       Lúc đóđi đến rừng này, Đại Lâm

          Gặp Thế Tôn, hỏi thăm theo lệ

          Xã giao, rồi đứng kế một bên

              Dựa trên cây gậy cứng bền

       Mà y thường trực cầm trên tay mình

    __________________________

(1) : Thành Kapilavatthu – Ca-Tỳ-La-Vệ , do vua Tịnh Phạn

       ( Suddhodana - phụ vương của Đức Phật ) trị vì .

 (2) : Vườn Nigrodharama .        (3) : Cây  Beluvalatthika .

 (4) : Vị du sĩ tên Sakka , vì luôn luôn cầm trên tay một cây gậy 

       nên có biệt danh là “ Gậy cầm tay”.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 258

 

          Rồi Sắc-Ka ứng thinh hỏi khó :

    – “ Sa-môn có quan điểm thế nào ?

              Giảng thuyết những gì nhằm vào ?”

 

 – “ Hiền-giả ! Ta dạy nhằm vào sự duyên     

          Trong thế giới Chư Thiên, Ma-Rá(1)

          Cùng Phạm Thiên, tất cả cõi Trời

              Sa-môn, Bàn-môn (2), loài Người

       Không có tranh luận mọi thời, mọi nơi

          Với một ai ở đời này cả.

          Các Tưởng đã không ám ảnh gì

              Với vị Bàn-môn, một khi

       Không dục triền phược chấp trì, khiến sai 

          Không  nghi ngờ, không hay do dự

          Mọi hối quá sẽ tự diệt đi.

              Lại không có Tham ái chi

       Với hữu, phi hữu mọi thì mọi nơi.

          Này Hiền-giả ! Đó lời Ta giảng

          Là quan điểm căn bản của Ta ”.

 

              Khi nghe nói vậy, Sắc-Ka

       Lắc đầu, rồi liếm môi và khẩn trương

          Trán nổi lên ba đường nhăn đậm

          Y chầm chậm chống gậy đi ra.  

 

              Sau đó Thiện Thệ Phật Đà

       Về Ni-Rô-Thá-Ra-Ma tọa thiền

          Vào buổi chiều, sau thiền-định xả

          Ngài đứng dậy thong thả vào vườn

              Ngồi nơi dành sẵn Pháp Vương

    __________________________

(  ) : MARA  tức Ma Vương .

  (2) : Bàn-môn  hay  Phạm-chí  tức là Bà-La-Môn .

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 259

 

       Rồi Thế Tôn gọi các phương Tăng Già :

   –  “ Chư Tỷ Kheo tịnh hòa an lạc !

          Sáng nay, Ta mang bát đắp y

              Vào thành khất thực hành trì

       Ca-Tỳ-La-Vệ tức thì đến nơi.

          Sau thọ thực, Ta rời nơìấy

          Đến Đại Lâm ở lại nghỉ trưa

              Một người có tính hơn thua

       Tên là Sắc-Ká cũng vừa đến nơi

          Thích mọi thời ngao du thiên hạ

          Rồi Sắc-Ká liền đến gần Ta

              Bê-Lu-Va-Lát-Thí-Ka

       Dưới cội cây đó, nơi ta đang ngồi

          Chào xã giao, rồi thời liền hỏi

          Ta thường nói quan điểm thế nào ?

              Giảng thuyết những gì nhằm vào ?

       Nhân đó, Ta đã trước sau giảng liền : 

 

        ‘Trong thế giới Chư Thiên, Ma-Rá

          Cùng Phạm Thiên, tất cả cõi Trời

              Sa-môn, Bàn-môn, loài Người

       Không có tranh luận mọi thời, mọi nơi

          Với một ai ở đời này cả.

          Các Tưởng đã không ám ảnh gì

              Với vị Bàn-môn, một khi

       Không dục triền phược chấp trì, khiến sai 

          Không  nghi ngờ, không hay do dự

          Mọi hối quá sẽ tự diệt đi,

              Lại không có Tham ái chi

       Với hữu, phi hữu mọi thì mọi nơi.

          Này Hiền-giả ! Đó lời Ta giảng

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 260

 

          Là quan điểm căn bản của Ta’.

              Khi nghe nói vậy, Sắc-Ka

       Lắc đầu, rồi liếm môi và khẩn trương

          Trán nổi lên ba đường nhăn đậm

          Y chầm chậm chống gậy đi ra ”.  

 

              Khi nghe câu chuyện vừa qua 

       Một Tỷ Kheo đã hiền hòa thưa ra :

       “ Bạch Phật Đà ! Thế nào lời dạy

          Trong thế giới hết thảy Chư Thiên

              Ma Vương và cả Phạm Thiên

       Sa-môn, Phạm-chí , chẳng riêng loài Người

          Mà Thế Tôn ở đời không muốn

          Với một ai tranh luận làm gì.

              Các Tưởng không ám ảnh chi

       Đến Thế Tôn cả, bởi vì Ngài đây

          Dục triền phược không rày xâm nhập

          Không do dự, xác lập, không nghi

              Mọi hối quáđoạn diệt đi

       Không tham ái với hữu, phi hữu nào ? ”.

 

       “ Này Tỷ Kheo ! Hiểu vào tự sự

          Do bất cứ là nhân duyên gì,       

              Và hý luận vọng tưởng chi

Ám ảnh đến một người thì ra sao ?

          Nếu không cóđiều nào khả dĩ

Đáng tùy hỷ, chấp thủ tương liên

              Vậy là sựđoạn tận liền 

       Tham, sân, nghi, kiến-tùy-miên của mình

          Mạn, hữu tham, vô minh đoạn tận

          Sựđoạn tận chấp trượng, đấu tranh

              Chấp kiến, tránh tranh, luận tranh

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 261

 

       Ly gián, vọng ngữ, kháng tranh diệt rày.

          Chính ởđây, những bất thiện pháp &

          Các ác pháp đều được diệt trừ

              Vĩnh viễn không còn tàn dư ”.

 

       Sau khi giảng vậy, Đại Từ đứng lên

          Vào hương-thất tịnh yên để nghỉ.

          Khi bậc Vô Thượng Sĩđi rồi

              Các vị Tỷ Kheo còn ngồi

       Bàn luận : “ Thiện Thệ tùy thời giảng ra

          Nhưng chúng ta vẫn còn thắc mắc

          Về lời dạy tóm tắt của Ngài.

              Nay ai có thể trình bày

       Giải thích rộng rãi ý này cho ta ? ”.

          Rồi các vị nhớ ra Tôn Giả

          Ngài Ma-Ha Kách-Chá-Da-Na

  (Đại Ca-Chiên-Diên cũng là)

       Là vị được đức Phật Đà tán dương

Chư phạm-hạnh cũng thường kính trọng

          Ngài có thể giảng rộng nghĩa mầu

              Vậy chúng ta hãy cùng nhau

       Đến gặp Tôn-giả, thỉnh cầu giảng ra ”.

 

          Những Tỷ Kheo ấy qua đến chỗ

          Của Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na.   

              Thi lễ, chúc tụng hỏi qua

       Một bên ngồi xuống, thưa ra với ngài :

    – “ Thưa Hiền-giả ! Chiều nay Thiện Thệ

    _______________________________

(1) : Tôn-giả  Mahà Kaccayana  – Đại Ca-Chiên-Diên là

    một trong Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật , được tôn xưng

    là bậc “Luận Nghị Đệ Nhất”.

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 262

 

          Trong thời pháp, đã kể chuyện là

              Có du-sĩ tên Sắc-Ka

       Đến Đại Lâm, gặp Phật Đà tại đây

          Du-sĩ này hỏi Ngài chi tiết

          Quan điểm Ngài, giảng thuyết những gì ?

              Thế Tôn trả lời tức thì

       Nhưng du-sĩ không cách gì hiểu sâu

          Y lắc đầu, liếm môi – trán hắn

          Ba đường nhăn nổi hẳn tức thì

              Rồi y chống gậy ra đi.

       Khi nghe Đấng Chánh Biến Tri kể rồi

          Thì chúng tôi xin Ngài giảng rõ

          Những điều đó diệu nghĩa thế nào ?  

              Để chúng tôi hiểu thâm sâu

       Sau đó Ngài giảng đuôi đầu như sau :

 

 ‘Các Tỷ Kheo ! Hiểu vào tự sự

          Do bất cứ là nhân duyên gì,       

              Và hý luận vọng tưởng chi

Ám ảnh đến một người thì ra sao ?

          Nếu không cóđiều nào khả dĩ

Đáng tùy hỷ, chấp thủ tương liên

              Vậy là sựđoạn tận liền 

       Tham, sân, nghi, kiến-tùy-miên của mình

          Mạn, hữu tham, vô minh đoạn tận

          Sựđoạn tận chấp trượng, đấu tranh

              Chấp kiến, tránh tranh, luận tranh

       Ly gián, vọng ngữ, kháng tranh diệt rày.

          Chính ởđây, những bất thiện pháp &

          Các ác pháp đều được diệt trừ

              Vĩnh viễn không còn tàn dư’.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 263

 

       Sau khi giảng vậy, Đại Từ đứng lên

          Vào hương-thất tịnh yên để nghỉ.

 

          Khi bậc Vô Thượng Sĩđi rồi

              Tất cả chúng tôi còn ngồi

       Bàn luận : ‘Thiện Thệ tùy thời giảng ra

          Nhưng chúng ta vẫn còn thắc mắc

          Về lời dạy tóm tắt của Ngài

              Nay ai có thể trình bày

       Giải thích rộng rãi ý này cho ta ?’

          Rồi chúng tôi nhớ ra Tôn Giả

          Nên vội vả đến để nhờ ngài

              Giải thích sâu ý nghĩa này ”.

 

 – “ Này chư Hiền-giả ! Cũng tày người kia

Ưa thích lõi cây kia quý hiếm

Đi khắp nơi tìm kiếm lõi cây

              Gặp một cây lớn, thẳng ngay

       Bên trong ắt có lõi cây mình cần

          Bỏ qua rễ, qua thân cây ấy

          Y nghĩ phải tìm ở lá, cành.

              Các vị hành động vội, nhanh

       Đứng trước Thiện Thệ trọn lành, viên thông

          Bỏ qua, không hỏi ngay Thiện Thệ

          Nghĩ rằng để hỏi tôi việc này.

Chư Hiền ! Thế Tôn trí tài

       Những gì cần biết thì Ngài biết ngay

          Cần phải thấy thì Ngài thấy rõ

          Ngài trở thành vị có mắt xa

              Thành vị có trí hằng hà

       Trở thành Chánh Pháp, hoặc là Phạm Thiên,

          Vị thuyết-giả, vị chuyên diễn giải

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 264

 

          Vịđem lại chân chánh mục tiêu

              Trao cho bất tử tiêu diêu

       Là vị Pháp Chủ, diệu siêu Phật Đà.

          Phải tùy thời hỏi qua Thiện Thệ

          Vềý nghĩa này, để hiểu mau

              Những gì Thế Tôn giảng sâu

       Y cứ như vậy, cùng nhau thọ trì ”.

 

    – “ Thưa Hiền-giả ! Những gì Phật biết   

          Là nhất thiết vi diệu sâu xa

              Chúng tôi nhất định hỏi qua

Ý nghĩa đó khi xảy ra hợp thời,

          Sẽ thọ trì những lời Ngài dạy.

          Nhưng chúng tôi nhận thấy điều là

              Tôn-giả Kách-Chá-Da-Na

       Được Phật tán thán, Tăng-Già kính thương   

          Có thể thay Pháp Vương giảng giải .

          Những lời dạy của Đức Phật Đà

              Ngài nói vắn tắt, lược qua

       Chúng tôi chưa hiểu sâu xa lời Ngài

          Chúng tôi nay kính mong Tôn-giả

          Hãy giảng rộng giải tỏa điều nghi

              Thiết nghĩ việc không có gì,

       Không hề bất kính với vì Thế Tôn ”.

 

    – “ Vậy Chư Hiền Sa-Môn ! Nghe kỹ,  

          Khéo tác ý , tôi sẽ trình bày ”.     

 

        – “ Thưa vâng ! Xin ngài nói ngay ”.  

 

 – “ Chư Hiền-giả ! Phải nghĩ rày đắn đo 

          Do nhân mắt và do sắc-pháp

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 265

 

Nhãn-thức sẽ thuận hạp khởi lên

              Sự gặp gỡ ba pháp nền

       Chính là Xúc, do xúc liền có ngay

          Sựcảm thọ, do đây có tưởng

 

          Hễ cótưởng thì cósuy tầm

Hý luận do có suy tầm

       Hý luận, vọng tưởng âm thầm mọi nơi.

          Chúng ám ảnh một người này, khác

          Đối với các sắc-pháp, xảy ra

              Do con mắt nhận thức qua

       Hiện tại, quá khứ cùng là tương lai.

 

          Chư Hiền này ! Do nhân taiđó

          Các tiếng có, nhĩ-thức khởi lên,

 

             Do mũi, các hương, tạo nên

       Khiến cho tỷ-thức khởi lên tức thì,

          Do nhân lưỡi và vì các vị

          Khiến thiệt-thức khả dĩ khởi lên.

              Do thânxúc tạo nên

       Khiến cho thân-thức khởi lên đủ trò.

          Do nhân ý và do các pháp

Ý-thức liền thuận hạp khởi lên.

 

              Tương tự với lý giải trên

       Khi nào có mắt, có liền sắc đây

          Và khi nào có ngay nhãn-thức

          Sự thi thiết của xúc hiển bày,

              Sự kiện này xảy ra ngay :

       Khi có sự thi thiết rày xúcđây

          Thì thi thiết thọnày hiển lộ.

 

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 266

 

          Thi thiết thọ, thi thiết tưởng bày.

              Rồi xảy ra sự kiện này :

       Thi thiết của tưởng lộ ngay suy tầm

          Thi thiết của suy tầm được biết

          Khiến thi thiết ám ảnh hiển bày

             Các hý luận, vọng tưởng ngay.

       Cũng tương tự, sự kiện này đến nhanh :

          Khi có tai, âm thanh, nhĩ-thức …

          Khi có mũi, tỷ-thức, mùi hương …

              Có lưỡi, thiệt-thức, vị thường …

       Có thân, thân-thức, tinh tường xúc thân …

          Khi cóý, pháp trần, ý-thức …

          Có lục căn, lục thức, lục trần 

              Thân, khẩu, ý-thức ba phần

       Ba pháp gặp gỡ tạo dần xúc ngay .

          Do có xúc, có ngay cảm thọ

          Có cảm thọ thời cótưởng ngầm

              Có tưởng thì cósuy tầm

Hý luận do có suy tầm mà ra.

          Sự kiện này xảy ra được biết :

          Khi có sự thi thiết suy tầm

              Thi thiết của ám ảnh, nhằm

       Hý luận, vọng tưởng từ tâm hiển bày.

          Này Chư Hiền ! Ởđây như thế

          Sự kiện này không thể xảy ra :

              Khi nào không có mắt ta

       Các sắc, nhãn-thức cũng là đều không

          Thi thiết trong xúc này hiển lộ.

       – Khi sự cố không thể có này :

              Không có thi thiết Xúc đây       

       Mà sự thi thiết Thọ bày hiển ra.

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 267

 

      –  Không có qua thi thiết của Thọ

          Thì không có hiển lộ Tưởng ra.

              Cũng như vậy, không xảy ra :

   –  Không thi thiết Tưởng trải qua âm thầm

          Mà thi thiết suy tầm hiển lộ.

      –  Nếu không có thi thiết suy tầm

              Thì sự thi thiết không nhằm     

       Vào sựám ảnh một phần xảy ra

          Hiển lộ hý luận và vọng tưởng.

 

      *  Cũng như vậy, định hướng rõ ngay

              Tai, mũi, lưỡi, thân, ý này   

       Tương tự như vậy, trình bày cho thông :

          Ví dụ như : Khi không cóý

          Không các pháp, không ý-thức ngay

              Sự thi thiết của xúc này

       Không được hiển lộ như vầy, ởđây

          Không thi thiết xúc này hiển lộ

          Thì không có thi thiết Thọ bày

              Không có thi thiết Thọ này

       Không có thi thiết Tưởng đây hiển bày.

          Không có rày thi thiết của Tưởng

          Không hiện tượng hiển lộ suy tầm

              Không có thi thiết suy tầm

       Thi thiết ám ảnh không nhằm lộ ra

          Một số hý luận và vọng tưởng’.

 

          Đấng Vô Thượng vắn tắt trình bày 

              Rồi vào hương thất của Ngài.

       Một số Hiền-giả tại đây chưa tường

          Lời Pháp Vương thâm sâu khó hiểu,

          Nhưng tôi hiểu nghĩa lý như vầy

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 268

 

              Nếu cần, hãy hỏi lại Ngài

       Thế Tôn giải đáp, theo đây thọ trì ”.

 

          Các Tỷ Kheo tức thì hoan hỷ

          Theo tôn ý ngài Kách-Cha-Na

              Đứng dậy, về gặp Phật Đà

       Sau khi đảnh lễ, an hòa ngồi bên

          Hướng về Phật, nói lên ý kiến :

    – “ Bạch Thế Tôn ! Câu chuyện Sắc-Ka

              Ngài đã vắn tắt giảng ra    

       Chúng con chưa hiểu nên qua thiền tòa

          Gặp Tôn-giả Kách-Cha-Da-Ná

          Xin Tôn-giả giảng rộng thêm ra

              Và Tôn-giảđã giảng qua

       Với những phương pháp trải qua thế này

          Những văn cú như vầy đơn cử,

          Những văn-tự súc tích như vầy,

              Bạch Thế Tôn ! Thật lành thay !

       Xin Ngài cho biết việc này ra sao ? ”.

 

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Nói vào thông tuệ

          Thì phải kểĐại Ca-Chiên-Diên

               Là bậc Tôn-giả trí hiền

       Là người đại tuệ, luận chuyên đại tài.

          Nếu có hỏi Như Lai nghĩa lý

          Ta cũng chỉ trả lời thế thôi.

              Như vậy chính nghĩa từng lời

       Hãy nên căn cứ làm nơi thọ trì ”.

 

          Nghe nói vậy, tức thì Tôn-giả

          A-Nan-Đa , vội vả thưa qua :

       – “ Bạch Thế Tôn ! Giống như là

Trung Bộ  (Tập 1)   Kinh 18 :    MẬT HOÀN      *  MLH  – 269

 

       Một người đói lả , trải qua mệt nhoài .

          Tìm trong ngoài, rất may gặp được

          Một bánh mật như dược thực này

              Mỗi miếng vịấy nếm đây

       Vị ngọt, thơm ấy thấm đầy chân răng.

          Bạch Thế Tôn ! Cũng hằng nhưđó

          Tỷ Kheo có tri thức biệt tài

              Mỗi phần suy tư pháp này

       Hiểu nghĩa với trí tuệ, đầy hân hoan

          Giống nhưđang nếm mùi hỷ-thực

          Được thưởng thức thoải mái tâm hồn.

              Kính bạch Đại Giác Thế Tôn !

       Chúng con phải gọi pháp môn tên gì ? ”

 

     – “ Này A-Nan (1)! Phụng trì chân thật

          Gọi pháp môn ‘Bánh Mật” (Mật hoàn).

 

              Nghe Phật thuyết giảng, hân hoan 

       A-Nan tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *   *

 

(  Chấm dứt  Kinh số 18  :  MẬT HOÀN

MADHUPINDIKA Sutta  )        

    _______________________________

(1) : Tôn-giả  ANANDA  hay  A-Nan  là con  Hộc-Phạn Vương      

   ( Sukodana –  em Vua Tịnh Phạn - Suddhodana ), tức là em chú

   bác với Đức Phật . Xuất gia cùng với 6 vị vương-tử giòng Thích

   Ca khi đức Phật  về thăm lại Ca-Tỳ-La-Vệ  ( Kapilavatthu ) lần 

đầu tiên sau khi thành đạo .Tôn-giả là Thị giả hầu cận trung tín  

  của Đức Phật suốt 30 năm trung-giác-thời và hậu-giác-thời của 

 Phật .   ( 15 năm tiền-giác-thời, đức Phật chưa có vị  thị giả nào nhất định và chính thức ). Tôn-giả cũng là vị “Đa Văn Đệ Nhất” trong Thập Đại Đệ Tử của Đức Phật . 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7524)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3514)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3467)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11182)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3946)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3428)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10712)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6767)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12339)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4233)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]