Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

130. Kinh Thiên Sứ

19/05/202011:33(Xem: 8801)
130. Kinh Thiên Sứ

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


130. Kinh  THIÊN SỨ

( Devadùta sutta )

     

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời nọ Thế Tôn Thiện Thệ 

          An trú tại Xá-Vệ thành này

              Sa-Vát-Thí  cũng là đây

       Kỳ Viên Tinh Xá  hôm mai tịnh, hòa

          Còn có tên Chê-Ta-Va-Ná

          Cấp-Cô-Độc Trưởng giả tín gia

              A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka

       Tín thành dâng đến Phật Đà trước đây.

 

          Tại nơi này Ngài gọi Tăng Chúng :

 

    – “ Này Tăng Chúng ! Hãy khéo nghe đây ”.

 

              Chư Tỷ Kheo tại nơi này

       Vâng đáp lời Phật. Rồi Ngài thuyết ngay :

 

    – “ Chúng Tăng này ! Như nhà có cửa

          Một người đứng chính giữa nhìn ra

              Thấy những người đi vào nhà,

       Đi qua đi lại, đi ra khỏi nhà.

          Cũng vậy, Ta nhìn với thiên nhãn

          Siêu nhân và viên mãn tịnh thanh

              Thấy rõ các chúng hữu tình

       Chết đi sinh lại, hành trình chuyển di,

          Kẻ hạ liệt, người thì sang cả

          Kẻ xấu xí, người quá đẹp trai

              Tùy theo hạnh nghiệp người này

       Thiện thú, ác thú hiện ngay như vầy.

          Ta nghĩ ngay : ‘Các hữu tình đó

          Vì do họ thành tựu an lành                          

              Về thân, khẩu, ý-thiện-hành

       Không công kích bậc tịnh thanh Thánh hiền,

          Có chánh kiến, cần chuyên hành thiện

          Nghiệp phù hợp chánh kiến vô cùng,

              Sau khi thân hoại mạng chung

       Sinh lên Thiện thú, Thiên cung cõi Trời,

          Sinh làm người giàu sang phú quý.

 

          Còn hữu tình nào bị ác duyên

              Thành tựu thân-ác-hành riêng,

       Ác hành khẩu, ý liên miên thực hành

          Công kích bậc Thánh, sanh tà kiến

          Nghiệp phù hợp tà kiến xấu xa

              Sau khi thân hoại, sinh qua

       Vào cõi ngạ-qưỷ hay là bàng-sanh,

          Hoặc bị sanh ác thú, cõi dữ,

          Sinh đọa xứ, địa ngục… chốn này.

              Các Tỷ Kheo ! Tại nơi đây

       Ngưu đầu mã diện sẵn bày khảo tra

          Thừa lệnh Vua Dạ-Ma nơi ấy

          Liền bắt lấy người tội đọa sa

              Dẫn đến Diêm Vương (Dạ-Ma)   (1)

       Thưa rằng : ‘Y chẳng xứng là Sa-môn

          Không xứng Bà-la-môn cao thượng,

          Không kính bậc trưởng thượng trong nhà

              Ngài hãy trừng phạt y ta’.

 

       Các Tỷ Kheo ! Vua Dạ-Ma tức thời 

          Thẩm vấn người tội vừa nói đó :

     _____________________________

 

    (1) :  Cõi trời Yàmà (Dạ Ma) và Vua trời Dạ-Ma: Suyàma,

             thường được gọi là Diêm Vương.        

 

      - ‘Này người kia ! Ngươi có thấy qua

              Thiên Sứ thứ nhất hiện ra

       Giữa thế gian, cõi người ta không nào ?’

 

       - Thưa Diêm Vương ! Con đâu có thấy’.

 

      - ‘Ngươi có thấy trẻ nít sinh ra

              Yếu ớt nằm ngửa khóc la

       Giữa phân tiểu nó thải ra không nào ?’.

 

      - ‘Thưa ! Ban đầu người nào cũng thế’.

 

      - ‘Này người kia ! Có thể ngươi là

              Người có ý thức, tuổi già             

       Nhưng ngươi không nghĩ rằng : ‘Ta ra đời

          Bị sự sanh đồng thời chi phối

          Không thoát khỏi sự sanh cõi trần,

              Ta hãy làm thiện về thân,

       Làm thiện về khẩu & ý, cần cả ba’.

 

      - ‘Thưa Diêm Vương ! Thật là quá khó !

          Con không có thực hiện, bởi vì

              Con bị phóng dật phủ vi’.

 

       Vua Diêm vương ấy tức thì bảo y :

 

       - ‘Này người kia ! Nếu vì phóng dật

          Sự giải đải cố tật của ngươi,

              Ngươi không làm thiện mọi thời

       Về thân, khẩu, ý trong đời của ngươi  

          Chắc chắn chúng làm ngươi điên đảo

          Vì ngươi tạo ác nghiệp tự thân

              Không phải do mẹ ngươi làm

       Cha ngươi cũng chẳng dự phần nghiệp đây,

          Không do anh, chị hay bè bạn,

          Chịu ác nạn không phải do từ       

              Bà con huyết thống, gia sư,

       Không do Phạm-chí hay chư vị là

          Các Sa-môn làm ra điều ấy

          Ác nghiệp đấy do chính ngươi làm

              Cảm thọ quả báo thậm thâm’.

 

       Sau khi tra vấn tội nhân như vầy

          Về Thiên Sứ hiển bày thứ nhất,

          Vua Dạ-Ma lại cật vấn ngay

              Về vị Thiên Sứ thứ hai :

 

   - ‘Người kia ! Có thấy giữa loài người đây

          Vị Thiên Sứ thứ hai xuất hiện ?’.

 

       - ‘Thưa Ngài ! Về phương diện kể ra

              Quả thật con không thấy qua’.

 

   - ‘Người kia ! Có thấy đàn bà, đàn ông

          Tám, chín mươi hoặc trong trăm tuổi

          Thân yếu đuối, bệnh hoạn, lưng còng,

              Run rẩy, tóc bạc, răng long,

       Tuổi trẻ qua mất, sức không còn nhiều,

          Da nhăn nheo, tay chân lẩy bẩy

          Ngươi có thấy hiện tượng như vầy ?’.

 

          - ‘Thưa Ngài ! Có thấy điều đây’.

 

       Các Tỷ Kheo ! Diêm Vương này nói ngay : 

 

      - ‘Người kia ! Tuy tuổi ngươi lớn thực

          Có ý thức, nhưng chẳng nghĩ là :

             ‘Ta bị chi phối bởi già,

       Ta không thoát khỏi cái già khổ đau.

          Ta hãy mau làm điều phước thiện

          Về thân, khẩu, ý hiện rỗng không’. 

              Tội nhân ấy khi nghe xong

       Thưa rằng : ‘Điều đó con không thể làm

          Vì còn đang bị nhiều phóng dật’.

 

       - ‘Này người kia ! Nếu thật sự vầy

              Ác nghiệp ngươi tạo ra đây

       Chính ngươi phải chịu đọa đày tự thân

          Phải cảm thọ mọi phần quả báo,

          Đây ta bảo Thiên Sứ thứ hai’.

 

              Diêm vương hỏi tiếp người này :

  - ‘ Người kia ! Có thấy điều đây chăng là ?

          Giữa loài người hiện ra Thiên Sứ

          Là Thiên Sứ thứ ba hay không ?’.

 

         - ‘Thưa Ngài ! Quả thật là không’.

 

     - Người kia ! Ngươi đã từng trông thấy là

          Người đàn ông, đàn bà bệnh hoạn

          Chịu khổ nạn, đau đớn phát sinh

              Nằm trên phân tiểu của mình ?

       Cần người khác đỡ thân hình ngồi lên,

          Ở cạnh bên để dìu nằm xuống ?’.

 

      - ‘Con có thấy trạng huống như vầy’.

 

          - ‘Người kia ! Tuy rằng người này

       Đã có ý thức. lâu dài sống qua

          Nhưng không hề nghĩ là : ‘Sớm tối

          Ta bị bệnh chi phối, đeo hoài

              Ta không thoát khỏi bệnh vầy

       Ta phải làm điều thiện ngay đi nào’.

 

      - ‘Thưa Ngài ! Con không sao làm được

          Bị phóng dật sau trước bủa vây’.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Tiếp ngay

       Diêm vương nói với người này như sau :

      - ‘Người kia ! Bao bất thiện ngươi tạo

          Thân, khẩu, ý bất hảo mọi thời

              Chắc chắn quả báo đến ngươi,

       Không do ai khác, do nơi ngươi hành

          Phải cảm thọ chẳng lành quả báo,

          Đây ta bảo Thiên Sứ thứ ba’.

 

              Dạ-Ma tiếp tục hỏi tra :

      ‘Người kia ! Ngươi có thấy qua rõ ràng

          Về Thiên Sứ thuộc hàng thứ bốn ?’.

 

       - ‘Thưa Ngài ! Con đây vốn không tường’.

 

          - ‘Người kia ! Có thấy trên đường

       Giữa loài người, khi có phường sát nhân

          Hay tướng cướp muôn phần hung dữ

          Bị quan quân bắt giữ, dẫn đi

              Đến hình trường xử tức thì

       Rất nhiều hình phạt cực kỳ đớn đau

          Đánh bằng roi, dung lao đâm xóc

          Hoặc gậy gộc, tra tấn, cùm vào

              Hoặc bị đao phủ chặt đầu

       Thế ngươi có thấy trước sau điều này ?’.

 

       - ‘Kính thưa Ngài ! Con đây có thấy’.

 

          Diêm vương bảo kẻ ấy như vầy :

             ‘Tuy ngươi ý thức có đầy

       Tuổi tác cũng lớn, không rày nghĩ qua :

 

         ‘Thực sự là những ai tạo tác

          Thường làm các nghiệp ác dẫy đầy,

              Hình phạt sai khác lảnh ngay

       Ngay trong hiện tại như vầy, huống chi

          Chịu quả báo trong thì kế tiếp

          Ta phải kíp làm thiện nghiệp liền

              Về thân, khẩu, ý hiện tiền’.

 

       Người ấy liền đáp : ‘Xin riêng trình bày

          Con không thể điều này thực hiện

          Vì phóng dật bất thiện bủa vây’.

 

              Liền đó, các Tỷ Kheo này !

       Vua Dạ-Ma nói với người này như sau :

 

      - ‘ Do ngươi bị đắm vào phóng dật

          Tùy theo sự phóng dật của ngươi

              Tự thọ quả báo tức thời

       Không do ai khác, ác ngươi chẳng từ.

          Đây Thiên Sứ thứ tư xuất hiện.

 

          Rồi diễn tiến, vị vua Dạ-Ma

              Tiếp tục công việc thẩm tra

       Hỏi rằng : ‘Ngươi có thấy qua trong tầm

          Vị Thiên Sứ thứ năm hiện tới ?’.

 

      - ‘Thưa Ngài ! Với điều ấy thì không’.

 

           - Giữa loài người, ngươi thấy không ? 

       Những đàn bà hoặc đàn ông chết rồi

          Đã mấy ngày sinh sôi dòi tửa

          Sưng phồng lên rồi rửa nát ra ?’.

 

         - ‘Thưa Ngài ! Con có thấy qua’.

 

       Các Tỷ Kheo ! Vua Dạ-Ma tức thì

          Nói với y : “Ngươi tuy lớn tuổi,

          Ý thức, nhưng mê muội trầm kha

              Ngươi không có suy nghĩ là :

      ‘Ta đây không thể thoát qua tử thần

          Bị cái chết là nhân chi phối

          Gây lắm tội. Phải làm thiện ngay            

              Về thân, khẩu, ý đêm ngày”.

 

       Tội nhân liền đáp : ‘Thưa Ngài ! Không kham !

          Do phóng dật, không làm chi được’.

 

       - ‘Này tội nhân ! Từ trước đến sau

              Nếu ngươi phóng dật mắc vào

       Không làm thiện nghiệp, mặc dầu nhắc ngươi

          Chắc chắn chúng làm ngươi điên đảo

          Vì ngươi tạo ác nghiệp tự thân

              Không phải do mẹ ngươi làm

       Cha ngươi cũng chẳng dự phần nghiệp đây,

          Không do anh, chị hay bè bạn,

          Chịu ác nạn không phải do từ       

              Bà con huyết thống, gia sư,

       Không do Phạm-chí hay chư vị là

          Các Sa-môn làm ra điều ấy

          Ác nghiệp đấy do chính ngươi làm

              Cảm thọ quả báo thậm thâm

       Dù được gởi Thiên Sứ năm lần vầy’.

 

          Nói đến đây, Diêm vương im lặng

          Các ngục tốt liền dẫn người này

              Đến nơi hành phạt tội dày

       Gọi là năm cọc, đẩy ngay y nằm

          Lấy cọc sắt trong hầm nung đỏ

          Đóng cọc đó năm chỗ trên thân

              Giữa ngực, hai tay, hai chân

      (Gọi Panh-Chá-Ví-Tha-Băng-Tha-Nầng) (1)

          Người ấy chịu muôn phần thống khổ

          Y thọ lảnh vô số đớn đau

     __________________________

 

(1) : Pañcavidhabandhanam : Hình phạt năm cọc.

 

              Thọ hình khốc liệt dài lâu

       Nhưng không thể chết, khi nào nghiệp y

          Chưa đến kỳ tiêu trừ, trả đủ.

 

          Các Phích-Khú ! Ngục tốt tiếp theo

              Lại bắt kẻ ấy đem treo

       Dựng ngược đấu xuống, bèo nhèo tả tơi.

          Chúng tức thời dùng búa để chặt

          Rồi lại đặt y lên thiết xa

              Kéo chạy lui tới, lại qua

       Trên mặt đất cháy đỏ lòa chói chang

          Cháy đỏ rực, lửa càng thiêu đốt,

          Sự thống khổ cùng tột tại đây.

              Đẩy lên kéo xuống người này

       Trên sườn núi than hừng ngày lẫn đêm

          Luôn hừng hực. Rồi đem kẻ ấy

          Dựng ngược thân để thảy vào trong

              Một vạc dầu lớn bằng đồng

       Đang sôi sung sục, nấu trong vạc này.

          Thân người này nổi chìm, trôi dạt

          Y thọ lảnh cùng cực đớn đau 

              Thọ hình khốc liệt dài lâu

       Nhưng không thể chết, khi nào nghiệp y

          Chưa đến kỳ tiêu trừ, trả đủ.

 

          Các Phích-Khú ! Ngục tốt tiếp sau

              Đem tội nhân ấy quăng vào

       Trong Đại-địa-ngục rộng sâu cũng bằng,

          Bốn góc, cửa thành phần đều giống

          Chung quanh đóng tường sắt làm phên

              Có mái sắt lợp ở trên

       Nền địa ngục được tạo nên sắt dày

          Cháy đỏ rực đêm ngày nóng bỏng

          Mỗi bề rộng một trăm do-tuần.

              Từ tường Đông lửa lại tuôn

       Qua tường Tây cả do-tuần đốt thiêu,

          Lửa hai chiều tường Nam tường Bắc

          Thổi tạt giạt qua phía Bắc – Nam,

              Từ dưới ngọn lửa bất kham

       Thổi lên trên mái, càng làm nóng hơn,

          Lửa phía trên chờn vờn tạt xuống

          Với trạng huống thọ lảnh đớn đau

              Tội nhân thống khổ rất sâu

       Nhưng không thể chết, khi nào nghiệp y

          Chưa đến kỳ tiêu trừ, trả đủ.

 

          Các Phích-Khú ! Rồi rất lâu xa 

              Cửa Đông địa ngục mở ra

       Tội nhân liền chạy thật là lẹ nhanh.

          Khi người ấy chạy nhanh để trốn

          Nhưng không thể nào trốn nghiệp y

              Lớp da ngoài, trong, biểu bì

       Dây gân và thịt… đồng thì cháy đen.

 

          Dù nhiều phen trốn chạy như vậy

          Cửa vẫn đóng, chống lại tội nhân

              Tội nhân ấy cảm thọ rằng

       Cảm giác khốc liệt, muôn phần đớn đau.

          Nhưng tội nhân không sao chết được

          Khi ác nghiệp chưa được tiêu tan.

 

              Các Tỷ Kheo ! Một thời gian

       Rất lâu chịu khổ thì đàng phía Đông

          Cửa mở ra, y xông ra đấy

          Chạy thoát địa ngục ấy nhanh thay !

              Sự trốn thoát của người này

       Khỏi địa ngục ấy như vầy trải qua.

 

          Các Tỷ Kheo ! Nhưng mà Địa ngục

          Đại Phấn-Nị địa ngục, hay là

             (Ngục Gu-Tha-Ní-Ra-Da)      [ Guthaniraya ]

       Cận sát nơi ấy. Thế là tội nhân

          Rơi vào phần Đại-địa-ngục ấy,

          Tại nơi đấy có các chúng sinh

              Miệng như mũi kim tạo thành

       Vô cùng sắc bén, cắt nhanh da ngoài

          Khi cắt đứt da ngoài, lại cắt

          Đứt da trong, rồi cắt thịt, gân,

              Cắt đứt xương, tủy xương dần

       Tội nhân cảm thọ muôn phần đớn đau,

          Khốc liệt sâu, khổ chưa từng thấy

          Nhưng người ấy không thể chết ngay

              Khi nào ác nghiệp người này

       Chưa tiêu trừ dứt, nghiệp này vẫn mang.

          Tội nhân lại rơi sang lập tức

          Đại-địa-ngục Nhiệt Khối, tức là

              Kút-Kú-La-Ní-Ra-Da      [ Kukkulaniraya ]

      ‘Than Hừng’ tên ấy cũng là ngục đây.

          Tại ngục này tội nhân cảm thọ

          Những cảm giác thống khổ, đớn đau

              Vô cùng khốc liệt, dài lâu.

 

       Sau đó lại bị rơi vào lâu năm

          Trong Đại Châm Thọ Lâm quái dị

         (Săm-Ba-Lí-Va-Năng là tên)   [ Sambalivanam ]

              Cao một do-tuần mỗi bên

       Với những gai nhọn khắp liền trên cây 

          Cả rừng cây gai nhọn được tạo

          Gai nhọn dài mười sáu ngón tay

              Các gai nhọn và thân cây

       Đều cháy đỏ rực cả ngày lẫn đêm,

          Bắt người ấy leo lên, leo xuống

          Với tình huống cực kỳ đớn đau

              Thống khổ khốc liệt xiết bao !

 

       Chịu khổ mãi, thời gian sau rơi vào

          Đại Kiếm Diệp Lâm – đao gươm lá

         (Hay A-Sí-Pát-Tá-Vanh-Ta)      [ Asipattavanta ]

              Tên ‘Rừng lá gươm’ cũng là

       Ở đấy các lá cây va chạm hoài

          Do gió thổi, trong ngoài mọi mặt

          Các lá cây bén sắc, cắt ngay

              Tay chân, cắt đứt mũi, tai,

       Tại đây người ấy lâu dài trải qua

          Những cảm giác thật là khốc liệt

          Sự  thống khổ chi xiết đớn đau

              Nhưng không thể chết, khi nào

       Ác nghiệp chưa dứt, khổ sầu còn đeo.

 

          Các Tỷ Kheo ! Rồi y rơi lại  

          Sông Vôi - Đại Khôi Hà tức thì

             (Kha-Rô-Đa-Ká-Na-Đi)     [ Kharodakanadi ]

       Y chịu thống khổ do vì ác căn,

          Bị trôi lăn thuận theo dòng nước,

          Trôi ngược theo dòng nước sục sôi,

              Cảm thọ đau đớn vô hồi

       Thống khổ, khốc liệt nổi trôi sông này.

          Thời gian dài chịu khổ tai ngược

          Rồi y được ngục tốt vớt lên           

              Đoạn hỏi tội nhân nói trên :

      Người kia ! Ngươi muốn nói lên điều gì ?’.

 

      - ‘Thưa các ngài ! Tôi thì đang đói’.

 

          Nghe y nói, ngục tốt lấy ngay

              Cọc sắt nung đỏ ở đây

       Cạy miệng người ấy nhết đầy vào trong.

          Những cục đồng đã nung đỏ rực

          Cháy lập tức môi, miệng, lưỡi – và

              Cổ họng, ngực cháy lan ra

       Kéo theo cháy cả ruột già, ruột non

          Cục đồng còn trong ruột đốt cháy,

          Tiếp tục mãi đến lúc rơi ra.

              Người ấy cảm thọ tối đa

       Thống khổ khốc liệt, rất là đớn đau.

 

          Thời gian sau, ngục tốt lại hỏi

          Nghe y nói khát nước quá chừng,

              Ngục tốt đến lò than hừng

       Lấy cọc sắt đỏ đã dùng nung lâu

          Cạy miệng y, đổ vào trong miệng

          Nước đồng sôi và khiến tức thì

              Môi, miệng, lưỡi, cổ họng y

       Ruột lớn, ruột nhỏ… cực kỳ đớn đau

          Sự thống khổ không sao kể hết

          Nhưng y không thể chết dễ dàng

              Khi ác nghiệp chưa tiêu tan.

 

       Các Phích-Khú ! Do đã mang nghiệp dày

          Nên người này tiếp tục chịu khổ

          Tại nhiều chỗ Đại-địa-ngục vầy.

              Một thời, các Tỷ Kheo này !

       Diêm vương tức Dạ-Ma đây, nghĩ vầy :

         ‘Bất cứ ai tạo nhiều ác nghiệp

          Phải thọ lảnh liên tiếp cực hình

              Sai khác như đã chứng minh.

       Mong rằng ta sẽ được sinh làm người

          Nhằm vào thời bậc A-La-Hán

          Đấng Chánh-đẳng Chánh-giác, Phật Đà

              Xuất hiện ở đời, để ta

       Có thể hầu hạ Ngài và được nghe

          Đức Chánh Đẳng thuyết về Chánh Pháp

          Và ta được hiểu pháp thuyết ra’.

 

              Này các Tỷ Kheo ! Đó là

       Điều Ta nói không phải Ta nghe từ

          Một Sa-môn hay từ một vị

          Dòng Phạm-chí nào khác nói ra.     

              Điều Ta nói chỉ được Ta

       Biết, thấy, hiểu rõ, tự Ta chứng tầm ”.

 

          Đức Thế Tôn uyên thâm thuyết giảng

          Pháp viên mãn. Rồi nói them là :

 

      “ Dẫu Thiên Sứ báo động qua

        Thanh niên vẫn phóng dật và quên ngay

        Nên họ ưu buồn lâu dài,

        Sanh nơi hạ liệt, thật hoài tấm thân.

 

        Còn ở đây, bậc Chân Nhân

        Được Thiên Sứ báo, muôn phần lo âu

        Không hề có phóng dật nào

        Diệu pháp bậc Thánh nương vào hành qua

        Thấy sợ trong chấp-thủ tà

        Trong hiện hữu sinh tử mà dứt ngang

        Giải thoát chấp thủ hoàn toàn,       

        Đoạn trừ sinh tử, lạc an lâu dài

        Ngay hiện tại tịch tịnh này

        Các vị vượt thoát miệt mài trái ngang,

        Oán hận, sợ hãi tiêu tan

        Siêu thoát sầu khổ, tâm an thân lành ”.

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*   *

 

( Chấm dứt Kinh số 130 :  THIÊN SỨ

–  DEVADÙTA  Sutta )

 

__________________________________

    

      “ Ye dhammà hetuppabhavà

             Tesam hetum Tathàgato

             Àha tesan ca yo nirodho

             Evam vàdì Mahà Samano ”.

 

          “ Vạn pháp tùng duyên sinh

             Diệc tùng nhân duyên diệt

             Ngã Phật Đại Sa Môn  

             Thường tác như thị thuyết ”.

 

  ‘ Vạn pháp theo nhân duyên sinh ’

‘ Theo nhân duyên diệt’ – đinh ninh điều này.    

   Bậc Đại Sa Môn Như Lai

  Thường dạy như vậy ; chính Thầy của tôi . 

 

   *  Chú thích xuất xứ về bài kệ này :

 

       Bài kệ do Tôn-giả Thánh Tăng A-La-Hán ASAJI  (A-Xà-

    Chí ), vị trẻ tuổi nhất trong năm vị nhóm Kiều-Trần-Như ,

    bạn đồng tu và cũng là năm Đệ tử đầu tiên của Đức Phật

    đọc lên cho Ngài Xá-Lợi-Phất khi được hỏi trong lúc Tôn-

    giả đang thường lệ khất thực tại Thành Vương Xá . 

           Nguyên thời bấy giờ , Ngài Xá-Lợi-Phất ( Sariputta )

    cùng với người bạn thân Mục-Kiền-Liên ( Moggalanna )

    là hai  thanh niên Bà-La-Môn rất nổi tiếng đương thời vì

    sức học uyên thâm, tinh thông Tam Vệ-Đà .Nhưng cả hai

    vẫn chưa thỏa mãn với những gì Tam Vệ-Đà  chuyển  tải ,

    nên ước hẹn với nhau: Ai tìm được vị Đạo Sư khả kính có

    thể giải hết những nghi ngờ trong các học thuyết cổ kim ,

    thì phải báo với người kia để cùng qui ngưỡng tu tập .

 

         Khi lần đầu tiên thấy vị Sa-Môn nghiêm tịnh, thần thái

    an nhiên tự tại đang thứ đệ khất thực tại Thành Vương-Xá

    Ngài Xá-Lợi-Phất bỗng sinh lòng kính mộ, muốn thưa hỏi

    về đường lối tu hành của Tôn-giả, nhưng tôn trọng vì Tôn

    giả đang khất thực , nên Ngài cung kính đi theo sau . Khi

    thấy vật thực đã đủ , Tôn-giả Asaji tìm một gốc cây, ngồi

    xuống thọ thực. Sau khi dùng xong, Ngài Xá-Lợi-Phất đã

    thi lễ và đặt câu hỏi với Tôn-giả : Ai là Thầy của Ngài,và

    vị ấy đã dạy như thế nào ?

 

         Tôn-giả  Asaji  đã đọc lên bài kệ  cô đọng và hàm súc

    ấy . Vừa nghe xong, Ngài Xá-Lợi-Phất  vô cùng  hoan hỷ

    hoát nhiên đại ngộ . Ngài cáo từ  sau khi  hỏi nơi  trụ xứ

    của Đức Phật , rồi vội vàng đi tìm Ngài Mục Kiền Liên ,

    đọc lại nguyên văn bài kệ ấy . Ngài  Mục-Kiền-Liên  khi

    nghe xong, lập tức đắc Tu-đà-hoàn quả . Cả hai cùng đi

    đến Trúc Lâm Tinh-Xá ( Veluvanavihàra ) đảnh lễ  Phật

    và cầu xin xuất gia trong Giáo Pháp của Đấng Thế Tôn.

    Sau khi cả hai lần lượt đắc Thánh quả  A-La-Hán , Đức

    Phật tuyên bố hai Ngài là Hai Đại Đệ Tử của Phật :

    Ngài Xá-Lợi-Phất là Đệ nhất Trí Tuệ và Ngài Mục-Kiền-

    Liên là Đệ nhất Thần Thông .

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7524)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3514)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3467)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11182)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3946)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3428)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10712)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6767)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12339)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4233)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]