Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Kinh Song Tầm

18/05/202019:55(Xem: 9986)
19. Kinh Song Tầm

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majjhima  Nikàya )


Tập I
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



19. Kinh SONG TẦM

( Dvedhavitaka sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn an trụ

          Kỳ Viên Tự  – Chê-Tá-Va-Na 

              Do Cấp-Cô-Độc  tín gia

     ( A-Na-Thá-Pin-Đi-Ka ) cúng dường.

          Tại đây, đấng Pháp Vương lên tiếng :

     – “ Các Tỷ Kheo ! ”. Hiện diện Sa-môn

              Vâng đáp lời của Thế Tôn

       Cung kính nghe Phật ôn tồn giảng ra : 

 

    – “ Chư Tỷ Kheo ! Khi Ta tìm đạo

          Chưa giác ngộ, thấu đáo sâu xa

              Chưa thành Chánh Giác Phật Đà

       Còn là Bồ-Tát ( 1), trải qua hành trì

          Ta nghĩ suy : “ Ta đang từng trải

          Suy tư, chia hai loại suy tầm :

          *  Phàm thế nào có dục-tầm

       Sân-tầm nào hoặc hại-tầm nào đây

          Phân loại này thành phần thứ nhất.

      *  Loại thứ hai này thật thanh cao

              Phàm có ly-dục-tầm nào   

       Vô-sân-tầm, vô-hại-tầm nào trong ?

Chư Tỷ Kheo ! Ta không phóng dật

    _______________________________

(1) : Bồ Tát  : Bodhisattva , Tàu âm là Bồ-Đề-Tát-Đỏa , gọi tắt

        là Bồ-Tát , dịch nghĩa là Giác Hữu Tình , nguyên nghĩa là

       một chúng sinh ( hữu tình ) đang trên đường thực hành Ba-

       La-Mật  đểđạt được quả vị Chánh Giác .

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 272

 

          Rất nhiệt tâm, chân thật, kiên trì

              Dục-tầm khởi, Ta tuệ tri :

      ‘Dục tầm này khởi tức thì nơi Ta

          Nó thật làđưa đến tự hại

          Khiến hại người, khiến hại cả hai

              Diệt trí, phiền não sâu dày

      Không đưa đến Niết Bàn đầy lạc an’.

Chư Tỷ Kheo ! Khi đang suy nghĩ :

        ‘Dục-tầm chỉ khiến tự hại thôi’,

             Dục-tầm biến mất tức thời.

       Khi Ta suy nghĩ : ‘Chính nơi dục-tầm

          Sẽâm thầm hại người là thật’,

          Dục-tầm sẽ biến mất đi ngay.

              Nghĩ : ‘Dục-tầm hại cả hai’,

       Dục-tầm cũng biến ngay tức thì.

Chư Tỷ Kheo ! Ta suy nghĩ tiếp :

         ‘Dục-tầm diệt trí tuệ tức thời

              Dự phần vào phiền não rồi

       Và không đưa thẳng vào nơi Niết Bàn’,

          Dục-tầm ấy hoàn toàn biến mất.

 

          Ta thường nhật tiếp tục trừđi

              Dục-tầm đoạn tận, xả ly.

       Trong khi Ta sống mọi thì nhiệt tâm

          Không phóng dật, tinh cần hướng tới

          Thì sân-tầm phát khởi lên mau

              Hại-tầm cũng khởi ào ào

       Ta tuệ tri đến nhằm vào điều trên :    

         ‘Sân & hại-tầm khởi lên như vậy

          Sẽđưa đến tự hại, hại người                

Đưa đến hại cả hai thôi,

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 273

 

       Nó diệt trí tuệ, là nơi não phiền

          Không đến liền Niết Bàn tịch tịnh’.

Chư Tỷ Kheo ! Chân chính suy tư

              Sân & hại-tầm này từ từ

Đưa đến tự hại cũng như hại người

          Và đồng thời cả hai bị hại

          Diệt trí tuệ, đầy dẫy não phiền

              Không đến Niết Bàn mãn viên,

       Suy tư như vậy, mất liền cả hai

          Sân-tầm này và hại-tầm đấy

          Ta cứ vậy, tiếp tục trừđi

              Sân & hại-tầm diệt, xả ly. 

       Tỷ Kheo Chúng ! Vị hành trì Tỷ Kheo

          Thường suy tư, duyên theo quán sát

          Vấn đề gì, tâm ắt hướng ngay

              Khuynh hướng về vấn đề này.

       Nếu dục-tầm được vị này suy tư

          Quán sát nhiều, sẽ từ bỏ hẳn

          Ly-dục-tầm, vì nặng dục-tầm.

              Nếu về sân-tầm, hại-tầm

       Suy tư, quán sát, quan tâm điều này

          Sẽ bỏ ngay vô-sân-tầm đó

          Và từ bỏ vô-hại-tầm đây.

              Khi tâm đạt nặng về hai

       Sân & hại-tầm, khuynh hướng ngay một bề

          Sân & hại-tầm  u mê chấp thủ.

Chư Tỷ Kheo ! Ví dụ như vầy :

              Cuối mùa mưa, mùa thu đây

       Khi lúa đã trổ hạt đầy ruộng nương

          Một mục đồng ngày thường chăn dắt

          Một đàn bò, quả thật gay go

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 274

 

              Cầm roi đánh các con bò

       Bên phải, bên trái, khiến cho chúng thuần

          Chế ngự chúng và luôn ngăn chận

          Phải theo sự hướng dẫn mục đồng.

              Vì sao vậy ? Vì nếu không

       Các con bò sẽ chạy rông khắp đồng

          Phá lúa chín đang trong mùa gặt

          Người chủ ruộng sẽ bắt phạt, đền,

Đánh đập, tù tội cũng nên,

       Có khi chết, bởi sân lên ngút trời

          Do chủ ruộng nhất thời nóng giận.

          Người mục đồng cẩn thận nhìn xa

              Thấy do nhân duyên trải qua

       Sự việc có thể xảy ra như vầy.

          Nên người này không hề lơ đểnh

          Để mắt đến, quán sát kỹ càng.

              Cũng vậy, Tỷ Kheo các hàng   

       Phải luôn nhận thức, mọi đàng tuệ tri

          Sự nguy hại cực kỳ, hạ liệt

          Sự uế nhiễm, suy kiệt rõ bày

              Của các bất thiện pháp đây.

       Ngược lại, cũng thấy đạt ngay lợi liền

          Sự viễn ly, an nhiên thanh tịnh  

          Của thiện pháp chân chính hành qua.

 

Chư Tỷ Kheo ! Trong khi Ta 

       Sống không phóng dật, luôn là nhiệt tâm

          Rất tinh cần, thực hành như vậy

          Ly-dục-tầm khi ấy khởi ngay.

              Ta đã tuệ tri như vầy :

      ‘Nơi ta, ly-dục-tầm này khởi lên

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 275

 

          Nó không đưa đến bên tự hại,

          Không hại người và hại cả hai

              Tăng trưởng trí tuệ, biện tài

       Không sinh phiền não, đưa ngay Niết Bàn’.

          Ta ban đêm miên man suy nghĩ,

          Quán sát kỹ ly-dục-tầm ngay      

              Không phải từ nhân duyên đây

       Ta thấy sợ hãi việc này, nguy thay !

          Nếu ban ngày hay ngày-đêm khác

          Ta suy tư, quán sát gần xa

              Về ly-dục-tầm trải qua

       Không từ nhân duyên ấy, Ta sợ liền.

          Do liên miên suy tư, quán sát      

          Thân phờ phạc, mỏi mệt mơ màng

              Khiến tâm dao động, bất an

       Tâm khóđịnh tĩnh khi hằng động tâm

          Biết như vậy, Ta thầm quyết định

          Trấn an tâm, trấn tịnh tâm liền

              Khiến đạt được nhất-tâm chuyên

       Nên thành định tĩnh, ưu phiền lánh xa  

          Vì sao vậy ? Tâm ta không động.

 

          Khi Ta sống không phóng dật nào

              Nhiệt tâm, tinh cần, không nao

       Vô-sân & vô-hại-tầm vào khởi lên

          Ta tuệ tri móng nền sự việc

          Và Ta biết : Vô-sân-tâm này

              Cùng với vô-hại-tầm đây

  Không khiến tự hại, không gây hại người

          Và đồng thời , cả hai không hại

          Tăng trí tuệ, đánh bại não phiền

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 276

 

Đưa đến Niết Bàn mãn viên

       Không thể sai khác, đi liền nhân duyên

          Nếu sự việc biến thiên sai bậy

          Không từ nhân duyên ấy mà ra

              Khi Ta quán sát, nghĩ xa

       Ban ngày, đêm tối hay là ngày-đêm

Chư Tỷ Kheo ! Êm đềm tự tỉnh

          Tự trấn-an, trấn-tịnh-tâm Ta

              Khiến được nhất tâm, an hòa

       Khiến thành định tĩnh, tâm ta thuần từ.

          Nếu Tỷ Kheo suy tư, quán sát

          Ly-dục-tầm, sẽđạt điều chi ?

              Từ bỏ dục-tầm tức thì.

       Vịấy khuynh hướng về ly-dục-tầm

          Nếu quán sát vô-sân-tầm đó

          Tỷ Kheo có quán sát, suy thầm

              Có khuynh hướng vô-sân-tầm

       Sau khi từ bỏ sân-tầm khư khư

          Hoặc Tỷ Kheo suy tư, quán rõ

          Vô-hại-tầm, từ bỏ hại-tầm

              Khuynh hướng về vô-hại-tầm

       Vì đặt nặng vô-hại-tầm thanh cao.

 

Chư Tỷ Kheo ! Như vào cuối hạ

          Khi tất cả lúa đã gặt xong

Đã đập, phơi lúa, lường đong

       Cất vào kho thóc, hài lòng chủ nông.

          Người mục đồng chăn bòở ruộng

Ngồi gốc cây hay chuộng ngoài trời

              Lòng không còn lo, thảnh thơi

       Chỉ nghĩ công việc ở nơi chăn bò

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 277

 

         ‘Đây là những con bò’ ta giữ.

Chư Tỷ Kheo ! Tương tự Ta đây

              Có việc cần phải làm ngay

      ‘Đây là những pháp’, như vầy ý Ta

          Ta phát tâm thật là dũng mãnh

          Tiêu cực tránh, tinh tấn, sẵn sàng

              Niệm không tán loạn, trú an

       Không có cuồng nhiệt, tâm toàn khinh an

          Được nhất tâm, tâm đang định tĩnh

Chư Tỷ Kheo ! Thanh tịnh trong Ta

          –  Ly dục , ác pháp ly xa

       Ly bất thiện pháp, thật là an nhiên

          Chứng và trú vào Thiền đệ nhất

          Tâm hỷ lạc do ly dục sanh

              Có tầm, có tứđành rành.

   –  Diệt tầm, diệt tứ, chứng nhanh, trú vào

          Thiền thứ hai, đạt mau trạng thái

          Do định sanh, hỷ lạc vô ngần

Ởđây không tứ, không tầm

Đạt được nội tĩnh nhất tâm tức thì.

 

    –  Hỷ trú xảđã ly ; mặt khác  

        Có chánh niệm, tỉnh giác, an nhiên

            Thân cảm sự lạc thọ liền

      ‘Xả niệm lạc trú’, Thánh hiền gọi tên,

          Chứng và trú Tam Thiền tại chỗ.   

      –  Xả lạc và xả khổ, diệt ngay

              Hỷưu cảm thọ trước đây,

       Tứ Thiền chứng, trú, không rày khổ, vui

          Vàêm xuôi xả niệm thanh tịnh.

 

          Tâm định tĩnh như vậy trải qua

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 278

 

              Ta đạt được Minh thứ ba

       Mà Ta đã chứng canh ba đêm tàn .

          Vô minh được hoàn toàn dứt khỏi

          Minh sanh khởi, bóng tối mất tăm

Ánh sáng sanh khởi cao thâm

       Khi không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.         

 

Chư Tỷ Kheo ! Lại nhân ví dụ

          Trong khu rừng, cổ thụ rậm cao

              Có một hồ nước lớn, sâu

       Bầy nai đông đảo từ lâu sống gần

          Một kẻ tánh bất nhân, gặp chúng

          Không muốn chúng lợi ích, vui an

              Không muốn cho cả bầy đàn

       Thảnh thơi, hạnh phúc, nhưđang sống này.

          Kẻác này chận đường, rào cản

          Lùa đàn nai khiến hoảng chạy càn

              Chúng phải chạy vào con đàng

       Đầy sự nguy hiểm, bất an sẵn dành

          Người chẳng lành đặt con mồi đực

          Và mồi cái thường trực tại đây

              Để dụđàn nai cả bầy

       Vào đường định sẵn dẫy đầy hiểm nguy

          Với ác tâm, thực thi bất hảo

          Cả bầy nai đông đảo ngày nào

Đã gặp ách nạn biết bao

       Hao mòn, giảm sút, còn đâu đông vầy !

          Trường hợp khác, có ngay một vị

          Đến nơi này, hoan hỷ phát sanh

              Thấy đàn nai đông, hiền lành

       Muốn chúng lợi ích, được dành vui an

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 279

 

          Muốn cảđàn sum vầy hạnh phúc

          Khỏi ách nạn thằng thúc, khổđau

              Người ấy phát dọn đường nào

       Có sự nguy hiểm nhắm vào đàn nai

          Rồi thả ngay con mồi đực, cái

          Mở rộng đường, phải trái phát quang

              Con đường yên ổn, an toàn

       Như vậy, sau một thời gian mởđàng

Đàn nai đó lại càng tăng trưởng

          Càng hưng thịnh, an hưởng sum vầy.

 

Chư Tỷ Kheo ! Ví dụđây

       Để giải thích ý nghĩa này như sau :

          Hồ nước lớn thâm sâu, để chỉ

          Cho các dục, đồi trụy bất minh

Đàn nai là các hữu tình.

       Người ác muốn hại sinh linh, chẳng lành

          Không muốn chúng an lành, hạnh phúc

          Không tiếp tục lợi ích, yêu thương

              Chỉ cho Ác Ma – Ma Vương.

       Con đường nguy hiểm sẵn dương bẫy mồi

          Là chỉ nơi con đường tàđạo

          Rất bất hảo, có đến tám chi

              Tà tri kiến, tà tư duy

       Tà ngữ, tà nghiệp đồng thì kể ra

          Rồi tà mạng cùng tà tinh tấn

          Tà niệm dẫn tà định cùng làm.

              Con mồi đực chỉ hỷ, tham

       Mồi cái để chỉ buộc giàm vô minh.

 

Chư Tỷ Kheo ! Người minh-trí tới   

          Muốn đàn nai được lợi ích thường

Trung Bộ  (Tập 1)  Kinh 19 : SONG TẦM          *   MLH  – 280

 

              Muốn chúng hạnh phúc, yêu thương

       Khỏi các ách nạn, bẫy dươngtrên đường

          Để chỉ đấng Pháp Vương, Toàn Giác

          A-La-Hán an lạc, Phật Đà.

              Con đường yên ổn, hiền hòa

Đưa đến hoan hỷ, trải qua an lành

          Chỉ con đường tám ngành Thánh Đạo

          Đường an hảo, thấm đượm Từ bi :

              Chánh tri kiến, chánh tư duy

      Chánh ngữ, chánh nghiệp đồng thì kể ra

         Chánh mạng và chánh chân tinh tấn

         Chánh niệm dẫn chánh định thanh cao.

Chư Tỷ Kheo ! Ta lúc nào

       Cũng mở đường chánh thâm sâu sáng lòa

Đóng con đường ác tà nguy khó

          Ta từ bỏ cả hỷ và tham

              Diệt trừ Vô minh tối tăm

       VịĐạo Sư phải hành thâm như vầy,

          Vì thương tưởng, chỉ bày đệ tử

          Con đường giữđúng hướng thẳng ngay

Đây các chỗ trống, gốc cây

       Tinh cần Thiền-định đêm ngày đừng nao

          Chớ phóng dật, về sau đừng tiếc

          Lởi giáo huấn cao khiết của Ta ”.                            

 

              Nghe thuyết giảng của Phật Đà

       Chư Tăng hoan hỷ, tin và vâng theo ./-

 

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

------

 (  Chấm dứt  Kinh số 19  :  SONG TẦM  –

DVEDHAVITAKKA Sutta  )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/08/2018(Xem: 7524)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3514)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3467)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11182)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 3947)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3428)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10713)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6768)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 12339)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
10/05/2018(Xem: 4233)
Đó là tên được đặt cho tác phẩm nhiếp ảnh đầu tiên của tôi. Ảnh chụp năm 1993, bằng Máy ảnh Pentax cũ, mua được từ Tòa soạn Báo Khánh Hòa đợt thanh lý, với giá thời điểm đó là 100.000 đồng. Người mẫu: "Con gái rượu" Tịnh Thủy lúc được 2 tuổi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]