Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

68. Kinh Nalakapàna

19/05/202010:31(Xem: 9731)
68. Kinh Nalakapàna

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



68. Kinh NALAKAPÀNA
( Nalakapàna  sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn vô ngại
          An trú tại xứ Kô-Sa-La  (1)
            ( Còn có tên Câu-Tát-La )
       Tại Na-La-Ká-Pa-Na (2) nơi này,
          Trong rừng cây tên Pa-Lá-Sá (2)
          Cùng với Chúng Săng-Gá (3) tịnh, hòa .
 
              Lúc bấy giờ, đã xảy ra
       Nhiều Thiện-nam-tử danh gia, sang giàu,
          Cùng nhiều vị thanh cao vương-tử
          Vì lòng tin Điều Ngự Phật Đà,
              Từ bỏ gia đình, xuất gia,
       Như ngài A-Nậu-Lâu-Đà ôn nhu
        ( Cũng chính là A-Nu-Rút-Thá )
          Kim-Bi-Lá và Nan-Đi-Da ,
              Pha-Gu , Kun-Đá-Thá-Na ,
       Rê-Va-Tá , A-Nan-Đà … kể qua .
    _____________________________
 
( ) : Vương quốc Kosala  (Câu-Tát-La  hay Kiều-Tất-La ) có Kinh
     đô là Savatthi ( Xá Vệ ) dưới sự cai trị của vua Pasanadi – Ba-
    Tư-Nặc .( Kỳ Viên Tinh Xá cũng nằm trong địa phận Thành Xá
    Vệ này) . Tiều quốc Kapilavathtu (Ca-Tỳ-La-Vệ) của Đức Phật
    cũng đặt dưới sự bảo hộ của Vương quốc Kosala .
 
(2) : Địa phương tên Nalakapàna , rừng cây tên Palasa .
(3) : Sangha  phiên âm Tăng-Già , là Chúng Tỷ Kheo đệ tử Phật.
      Bản chất Tăng-Già là thanh tịnh và hòa hợp .
(4) : Bảy vị cùng xuất gia : Anuruddha  (A-Nậu-Lâu-Đà hay A-Na-
      Luật ), Kimbila , Nandiya , Bhagu , Kundadhana , Revata (Ly-
      Bà-Đa ) và Ananda ( A-Nan ).
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  438
 
          Cùng số khác Thiện-gia nam-tử
          Có danh tiếng ; tuần tự xuất gia .
 
              Bấy giờ, Thế Tôn Phật Đà
       Đang  ngồi giữa Chúng Tăng Già vây quanh
          Giữa bãi cỏ, trời xanh gió mát .
          Đức Phật nhân vì các vị này 
            ( Các Thiện-gia nam-tử đây )
       Hỏi Tỷ Kheo Chúng : “ Các thầy Tỷ Kheo !
          Thiện-nam-tử họ theo Ta cả,
          Vì lòng tin Ta, đã xuất gia,
              Sống không gia đình, lìa nhà,
       Này Tỷ Kheo Chúng ! Trải qua như vầy
          Thiện-gia nam-tử này các vị
          Có hoan hỷ trong Phạm-hạnh chăng ? ”.
 
              Nghe Phật hỏi, nhưng Chư Tăng   
       Vẫn ngồi im lặng, không hằng nói chi .
          Lần thứ hai, rồi thì ba bận     
          Các Tỷ Kheo cũng vẫn lặng yên .
              Đức Thế Tôn suy nghĩ liền :
     ‘ Chi bằng Ta hãy hiện tiền hỏi qua
          Chính các vị Thiện-gia nam-tử ’.
 
          Rồi Điều Ngự câu hỏi đặt ra
          Cho nhóm A-Nú-Rút-Tha
    ( Ngài dùng “A-Nậu-Lâu-Đà” gọi chung ) :
 
    – “ Này các ông A-Nu-Rút-Thá !
          Các ông đã xuất gia, toại lòng,
              Có hoan hỷ Phạm-hạnh không ? ”.
 
– “ Rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn Phật Đà ! ”. 
 
    – “ Lành thay ! Những thiện-gia nam-tử !
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  439
 
          Vì lòng tin nên tự xuất gia,
              Sống không gia đình, ly gia
       Hoan hỷ trong Phạm-hạnh và siêng tu .
 
          Các A-Nu-Rút-Tha ! Trong lúc
          Tuổi trẻ đẹp, hạnh phúc, vui luôn,
              Tóc đen nhánh, tuổi thanh xuân,
       Có thể hưởng thụ, sống buông lung đời .
          Nhưng các ông quyết rời, từ bỏ,
          Lìa cửa nhà, giòng họ, gia đình,
              Tự nguyện sống không gia đình .
 
       Không vì mệnh lệnh buộc mình xuất gia,
          Không bị vua sai mà làm thế,
          Không vì kẻ trộm cướp bức thân,
              Không vì sợ hãi , nợ nần,
       Không vì thất nghiệp hay cần nương thân .
          Có phải rằng các ông suy nghĩ :
       ‘ Ta đang bị già, chết, sầu, bi,
              Sanh, khổ, não … những mối nguy
       Áp bức, chi phối mọi thì, mọi nơi .
          Nhưng ta thời luôn mong sẽ đạt,
          Chấm dứt các khổ uẩn vây ta ’.
              Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Có phải do vậy, xuất gia tu hành ? ”.
    – “ Thưa vâng, bạch Trọn Lành Thiện Thệ ”.
 
    – “ Và như thế, theo các ông thì
              Các ông cần phải làm gì ?
   *  Ly bất thiện pháp và ly dục liền !
          Nếu không chứng an nhiên hỷ lạc
          Hay một trạng thái khác , tịnh yên,
              Dục tham chiếm, trú tâm liền .
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  440
 
       Rồi sân, trạo cử, thụy miên hôn trầm …
          Xâm chiếm tâm và an trú đấy .
          Hối quá, nghi, giải đãi, bất an …
              Xâm chiếm tâm và trú an .
 
       Khi nào chưa được hoàn toàn trải qua
          Ly bất thiện pháp và ly dục,
          Thời các vị không lúc nào an .
              Khi nào ly dục hoàn toàn
       Ly bất thiện pháp, mọi đàng tịnh thanh
          Thì vị ấy chứng nhanh hỷ lạc
          Hay một trạng thái khác tịnh yên,
              Thời các triền-cái nói trên
       Không chiếm tâm được, không liền trú qua .
 
          Các A-Nú-Rút-Tha ! Ly dục,   
          Bất thiện pháp cùng lúc cũng ly,
              Thì chứng hỷ lạc tức thì
       Hay trạng thái khác phát huy, tịnh hòa .
 
          Các A-Nậu-Lâu-Đà ! Thường nghĩ
          Về Như Lai trong trí thế nào ?
              Như về các lậu-hoặc nào
       Liên hệ phiền não có sau khởi vầy,
          Đáng sợ hãi, đưa ngay lập tức
          Đến quả khổ dị thục này đây,
              Hướng sanh, già, chết tương lai,
       Lậu-hoặc chưa được Như Lai đoạn trừ .
          Nên sau khi suy tư, phân tích
          Ta thọ dụng một pháp , an như .
               Sau khi phân tích, suy tư  
       Nhẫn thọ một pháp, rồi trừ bỏ đi .
          Rồi sau khi suy tư phân tích
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  441
 
          Lại một pháp trầm nịch diệt xong,
              Các ông nghĩ thế phải không ? ”.
 
 – “ Bạch Đại Giác ! Chúng con không nghĩ vầy.
          Mà nghĩ ngay : “ Với Ngài Thiện Thệ
          Các lậu-hoặc liên hệ não phiền
              Sanh khởi hậu hữu , căn nguyên
       Đáng sợ hãi, đưa khổ liền đến nhanh
          Quả dị thục, hướng sanh, già, chết,
          Trong tương lai ; diệt hết điều này .
              Các lậu-hoặc được Như Lai
       Đoạn trừ tất cả, mảy may không còn .
 
          Khi Thế Tôn suy tư phân tích 
          Một pháp tích cực chọn thọ dùng .
              Sau khi nghĩ, phân tích cùng,
       Nhẫn thọ một pháp . Không dùng trừ đi
          Một pháp khác . Nghĩ suy phân tích
          Một pháp thuộc chướng nghịch diệt ngay ”.
 
        – “ Này các ông ! Thật lành thay ! 
       Những điều vừa được nói đây, rõ ràng
          Các lậu-hoặc liên quan phiền não
          Sanh khởi hậu hữu đáng sợ thay !
              Đưa quả khổ dị thục ngay,
       Hướng đến già, chết tương lai như vầy
          Được Như Lai đoạn trừ, trốc rễ
          Ví như thể thân cây Sa-la
              Bị cắt tận gốc rễ, và
       Không thể sanh khởi, trải qua chết dần .  
          Hoặc như phần ngọn cây vừa kể
          Bị chặt đứt, không thể lớn thêm .
              Này các ông ! Đoạn diệt êm
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  442
 
       Lậu-hoặc liên hệ ngày đêm não phiền,
          Được Như Lai diệt liền tận rễ
          Nó không thể sanh khởi tương lai .
              Do vậy, sau khi Như Lai
       Suy tư, phân tích, pháp nay thọ dùng.
          Sau khi dùng phân tich, nghĩ ngợi
          Nhẫn thọ với một pháp ở đây,
              Rồi từ bỏ, đoạn trừ ngay
       Một pháp, khi đã giải bày, suy tư .
          Vậy theo như các ông nghĩ đó          
          Do thấy rõ mục đích thế nào
              Ta giải thích tái sanh vào 
       Của các đệ tử khi sau từ trần ,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
        – “ Bạch Phật ! Với chúng con đây
       Y pháp, nương tựa bậc Thầy Thế Tôn,
          Hướng Thế Tôn, Ngài là lãnh đạo
          Các Pháp-bảo căn bản dựa Ngài .
              Bạch Thế Tôn ! Tốt lành thay !
       Nếu được Ngài giảng ý này rõ ra ,
          Sau khi nghe Phật Đà giảng giải 
          Các Tỷ Kheo theo vậy thọ trì ”.
        – “ Này các ông ! Phải nhớ ghi :
       Như Lai thuyết giáo không vì lợi riêng,
          Không hề chuyên gạt lừa quần chúng,
          Không sử dụng nịnh hót lấy lòng,
              Mục đích tài lộc cũng không,
       Không vì trọng vọng, chẳng mong lợi quyền .     
          Không phan duyên theo ý nghĩ quấy :
       ‘ Làm như vậy, quần chúng biết ta ’.
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  443
 
              Nên Như Lai giải thích ra
       Tái sinh đệ tử đã qua từ trần,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
              Có những Thiện-nam-tử đây
       Tín thọ cao thượng do đầy lòng tin
          Với hoan hỷ thật tình cao thượng
          Sau  khi nghe, sẽ hướng tâm qua
              Sự ‘như thật’ – Ta-tha-ta .    
       Này các A-Nú-Rút-Tha ! Như vầy     
          Là hạnh phúc và đầy an lạc,
          Hưởng lâu đời cho các vị này .
 
          *  Các A-Na-Luật ! Ở đây
       Tỷ Kheo nghe nói một thầy Tỷ Kheo
          Đã mệnh chung, tên nêu như thế .
          Đấng Thiện Thệ tuyên bố : “ Vị đây
              An trú Chánh Trí sâu dày ”.
       Khi nghe về Tôn-giả này như sau :
        ‘ Có giới hạnh thanh cao như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Tỷ Kheo này mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
       Của vị Tôn-giả, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Tỷ Kheo sống lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Vị Tỷ Kheo có nghe qua như vầy :
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  444
 
         ‘Một Tỷ Kheo mới đây đã mất
          Có tên thật được biết rõ ràng .
              Phật nói về vị này rằng :
     “ Diệt kiết sử năm hạ phần đích danh,
          Vị ấy đã hóa sanh, nhập diệt,
          Không có việc trở lại đời này ”.
          *  Lại có Tỷ Kheo ở đây
       Mệnh chung, được đức Như Lai nói là :
        “ Sau khi đã diệt ba kiết sử,
          Sau khi tự làm nhẹ bớt đi
             Cả ba độc : Tham, sân, si,
       Chứng Nhất Lai, phải trải đi một lần
          Sinh trở lại cõi trần, tu tiếp
          Rồi mãn nghiệp, diệt tận khổ đau ”.
          *  Lại nữa, vị Tỷ Kheo nào
       Mệnh chung, Phật dạy với câu nói là :
        “ Sau khi đã diệt ba kiết sử,
          Quả Dư Lưu đã tự chứng vào
           ( Cũng gọi Thất Lai thanh cao )
       Bảy lần vị ấy sinh vào thế gian,
          Không còn nữa con đàng đọa lạc,
          Chắc chắn chứng Chánh Giác sau này ”.
              Khi Chúng Tỷ Kheo ở đây
       Được nghe các Tôn-giả này như sau :
        ‘ Có giới hạnh thanh cao như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Chúng Tỷ Kheo mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  445
 
       Của các Tôn-giả, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Chúng Tỷ Kheo lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nậu-Lâu-Đà !
       Về phần Ni Chúng tịnh, hòa – cũng y .
          Khi có Tỷ Kheo Ni nào mất
          Được Đức Phật tuyên bố đặc thù :
             “ Vị ấy đã chứng an như 
       Bốn tầng Thánh quả - từ Tu-Đà-Hoàn,
          Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm quả,
          A-La-Hán - bậc đã Vô Sanh ”.
 
              Đức Phật tuyên bố đành rành .
       Tỷ Kheo Ni đó phong thanh nghe là :
        ‘ Tôn Ni giới hạnh bà như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Chúng Ni này mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
       Của Tôn Ni ấy, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Chúng Ni ấy lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Cũng vậy, đối với Nam và Nữ nhân
          Là Cư Sĩ – mãn phần, quá cố
          Phật cũng có tuyên bố lên rằng :
           “ Một số Cư Sĩ tinh cần,
       Chuyên tu, cũng chứng như Tăng, Ni vầy ”.
          Chính điều này, Nữ, Nam Cư Sĩ
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  446
 
          Nhớ những vị tín, giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn .
       Chú tâm trên ‘như thật’ –  hằng trú an .
          Và như vậy, bốn hàng đệ tử  
          Cũng được dự bậc Thánh uy nghi .
              Này các ông ! Phải nhớ ghi :           
       Như Lai thuyết giáo không vì lợi riêng,
          Không hề chuyên gạt lừa quần chúng,
          Không sử dụng nịnh hót lấy lòng,
              Mục đích tài lộc cũng không,
       Không vì trọng vọng, chẳng mong lợi quyền .     
          Không phan duyên theo ý nghĩ quấy :
       ‘ Làm như vậy, quần chúng biết ta ’.
              Nên Như Lai giải thích ra
       Tái sinh đệ tử đã qua từ trần,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
              Có những Thiện-nam-tử đây
       Tín thọ cao thượng do đầy lòng tin
          Với hoan hỷ thật tình cao thượng
          Sau  khi nghe, sẽ hướng tâm qua
              Sự ‘như thật’ – Ta-tha-ta .    
 
       Này các A-Nú-Rút-Tha ! Như vầy     
          Là hạnh phúc và đầy an lạc,
          Hưởng lâu đời cho các vị này ”.
              Thế Tôn thuyết giảng như vầy
       Chúng Tăng tín thọ , lời Ngài khâm tuân .
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 68  :  NALAKAPÀNA  – 
NALAKAPÀNA  Sutta  )
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2018(Xem: 6363)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
06/08/2018(Xem: 7707)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3576)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3530)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11557)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4009)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3475)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10879)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6849)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13121)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]