Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

51. Kinh Kandaraka

19/05/202010:23(Xem: 9460)
51. Kinh Kandaraka

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



51. Kinh KANDARAKA
( Kandaraka sutta)
 
Như vậy, tôi nghe :
 
Một thời, đức Thế Tôn Giác Giả
          An trú tại Chăm-Pá (1), không xa
              Trên bờ hồ Gáp-Ga-Ra  (2)
       Cùng với Đại Chúng tịnh, hòa Tỷ Kheo.
 
          Người đi theo thanh niên Pết-Sá  (3)
          Là du-sĩ Kanh-Đá-Ra-Ka  (4)
Đi đến chỗ ở Phật Đà.
       Con người huấn luyện voi là Pết-Sa
          Liền đảnh lễ Phật Đà thành kính
          Rồi an tịnh ngồi xuống một bên,
              Kanh-Đá-Ra-Ka nói trên
Là một Du-sĩ, nói lên lời chào
          Lời thân hữu hướng vào Thiện Thệ  (5)
          Rồi du-sĩ đứng kế Phật Đà (5)
              Du-sĩ Kanh-Đá-Ra-Ka
       Nhìn quanh Đại Chúng tịnh, hòa Tỷ Kheo
          Tất cả đều trang nghiêm yên lặng.
          Du-sĩ liền bạch Đấng Phật Đà :
    _______________________________
 
   (1) : Địa phương Campa – Chiêm-Bà  . (2) : Hồ Gaggara .
  (3) :  Con trai người huấn luyện voi tên Pessa .
  (4) :  Du sĩ ngoại đạo tên Kandaraka  .
  (5) : Mười danh hiệu người đời xưng tụng Đức Phật : Araham (Ứng Cúng), Sammàsambuddho (Chánh Biến Tri hay Chánh Đẳng Chánh Giác) , Vijjàcaranasampanno (Minh Hạnh Túc) , Sugato (Thiện Thệ), Lokavidù (Thế Gian Giải), Anuttaro (Vô Thượng Sĩ), Purisadammasàrathi (Điều Ngự Trượng Phu), Satthàdevamanus-sànam (Thiên Nhân Sư), Buddha (Phật-Đà), Bhagavà (Thế Tôn) .
 Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA        *  MLH  –   186
 
        – “ Thưa Tôn-giả Gô-Ta-Ma !
       Thật là hy hữu ! Thật là diệu vi !
          Chúng Tỷ Kheo uy nghi tĩnh lặng
Được Tôn-giả hướng dẫn trải qua.
              Thưa Tôn-giả Gô-Ta-Ma !
       Các vị Chánh Giác, A-La-Hán này
          Thời quá khứ các ngài có được
          Chúng Tỷ Kheo mực thước như vầy
              Như tuyệt diệu Đại Chúng đây
       Đã được hướng dẫn bởi ngài Thích Ca ?
          Tôn-giả Gô-Ta-Ma ! Mặt khác
          Các vị Chánh Đẳng Giác tương lai
              Có Chúng Tỷ Kheo như vầy
       Tịnh, hòa, tuyệt diệu như ngài Thích Ca
          Đã hướng dẫn từ hòa, nhuần nhã ? ”.
 
    – “ Này Kanh-Đa-Ka-Rá ! Việc này
Thật sự là đúng như vầy.
       Chánh Đẳng Chánh Giác các ngài đã qua
          Thời lâu xa thuộc về quá khứ
          Đã có Chúng Phích-Khú tuyệt vời
              Được sự hướng dẫn từ nơi
       Vị Chánh Đẳng Giác của nơi đương thời.
          Chánh Đẳng Giác những thời sau đó
          Về tương lai, cũng có Chúng Tăng
              Tuyệt diệu, tịnh, hòa vô ngần
       Do hướng dẫn của chánh chân Phật Đà
          Như Chúng Tăng được Ta hướng dẫn
          Giữ giới luật, tinh tấn, tịnh hòa.
 
              Này ông Kanh-Đá-Ka-Ra !
       Chúng Tỷ Kheo có A-La-Hán nhiều
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   187
 
          Đã lậu tận, tu đều thành mãn
          Việc nên làm cơ bản hoàn thành
              Đã đặt gánh nặng xuống nhanh
       Thành đạt lý tưởng tịnh thanh, an từ
          Đã tận trừ về hữu kiết sử
Giải thoát tự nhờ chánh trí này.
 
              Kanh-Đa-Ka-Rá ! Ở đây
       Chúng Tỷ Kheo ấy đêm ngày thanh tu
          Cũng có những Phích-Khu hữu học
          Cố trừ diệt tam độc mọi thì
              Đức hạnh, giới luật kiên trì
       Sáng suốt, hạnh nghiệp, sống vì quán ngay
          Vị hữu học ở đây tu tập
      *  Phải như thật “ Quán Thân trên thân ”   
              Chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần
       Tham ưu chế ngự, muôn phần tịnh yên.
      *  Rồi đến ‘Quán Thọ trên các thọ’
          Luôn tỉnh giác và có tinh cần
              Chế ngự tham ưu tự thân.
* ‘Quán Tâm trên chính tâm’, cần nhiệt tâm
          Luôn tỉnh giác và thầm chánh niệm
Để chế ngự, dứt điểm ưu tham.
 
          * ‘Quán Pháp trên các pháp’ trần
       Chánh niệm, tỉnh giác, tinh cần, nhiệt tâm 
Để chế ngự ưu tham các thứ.
          Bốn Niệm Xứ này phải hành qua ”.
 
              Nghe Phật nói vậy, Pết-Sa
       Thưa rằng : “ Bạch Phật ! Thật là diệu vi !
          Hy hữu thay ! Trải đi tuần tự
          Bốn Niệm Xứ đã được Thế Tôn
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   188
 
              Thật khéo trình bày Pháp môn
       Để chúng sinh sẽ không còn sầu bi,
          Được thanh tịnh, diệt đi ưu khổ,
          Để chánh lý đạt ngộ tựu thành,
              Để chứng ngộ Niết Bàn nhanh.
       Chúng con áo trắng tâm lành, tại gia
          Thỉnh thoảng qua những thời quán niệm
          Là thời điểm khéo an trú tâm
              Vào Bốn Niệm Xứ diệu thâm,
       Chúng con chánh niệm chú tâm vào phần
          Sống ‘quán thân trên thân’ thường có,
          Sống ‘quán thọ trên cảm thọ’ ngay
              Sống ‘quán tâm trên tâm’ này
       Sống ‘quán pháp trên các pháp’ đây âm thầm.
          Luôn chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác,
Nhiếp phục các tham ưu trên đời.
 
              Bạch Thế Tôn ! Thật tuyệt vời 
       Thật là hy hữu ! Ở nơi pháp này
          Thế Tôn hiểu được ngay hạnh phúc,
Hay bất hạnh thế tục chúng sinh.
              Trong khi loài người tự mình 
       Sống trong rối rắm vô minh sớm chiều,
          Trong xảo quyệt, trong điều cặn bã.
          Bạch Thế Tôn ! Đối trả điều này
              Loài thú vật cởi mở thay !
       Chính con có thể hàng ngày luyện voi
          Nhiếp phục voi, khiến voi tuân lệnh
          Mỗi khi đi hay đến Chăm-Pa
              Trình bày mọi việc gian ngoa
        Giả dối, xảo quyệt trải qua đủ điều.
 
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   189
 
          Nhưng phần nhiều những người đầy tớ   
          Người giúp đỡ, phục dịch chúng con
              Trong khi họ cứ ví von,
       Thân hành một cách, khẩu còn khác đi,
Ý hành thì họ làm cách khác.
 
          Vi diệu thay ! Đại Giác tuệ minh
              Biết được hạnh phúc chúng sinh
       Biết sự bất hạnh chúng sinh thấp hèn.
          Trong khi người rối ren buông thả
          Trong xảo quyệt, cặn bã như vầy,
              Loài thú vật cởi mở thay !
       Bạch Phật ! Điều đó hằng ngày xảy ra ”.
 
    – “ Thật như vậy ! Pết-Sa ! Thật vậy !
          Rối rắm thay , như thấy ở người !
              Còn loài thú vật vui tươi
       Phóng khoáng, cởi mở khác người ta xa.
          Này Pết-Sa ! Hạng người có bốn
          Sao là bốn ?  –  Có người bình sinh
              Vẫn luôn tự hành khổ mình
       Chuyên tâm tự hành khổ mình cầm canh.
      –  Có người hành khổ người cho khổ   
          Chuyên tâm cố hành khổ chúng sinh.
           –  Có người vừa hành khổ mình 
       Chuyên tâm tự hành khổ mình tối đa,
          Vừa hành khổ người ta cho khổ
          Chuyên tâm cố hành khổ chúng sinh.
          –  Vừa không tự hành khổ mình 
       Không chuyên tâm hành khổ mình cầm canh,
          Vừa không hành khổ người cho khổ
          Không chuyên tâm hành khổ người ta.
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   190
 
              Ngay trong hiện tại xảy ra
       Không có tham dục, thật là tịnh yên,
          Mát lạnh liền, cảm giác lạc thọ,
Tự ngã họ trú Phạm thể ngay.
              Pết-Sa ! Bốn hạng người này
       Hạng nào con thích ý ngay thật tình ? ”.
 
– “ Bạch Thế Tôn ! Tự mình hành khổ
          Chuyên tâm tự hành khổ cho mình
Tâm con không thích, bất bình.
   *  Còn hạng hành khổ tận tình người ta
           Chuyên tâm hành người ta phải khổ
           Hạng người đó, con chẳng thích gì.
          *  Còn về hạng  người ngu si
       Vừa tự hành khổ trải đi cho mình
          Chuyên tâm tự hành khổ mình như vậy,
          Họ vừa lại hành khổ người ta,
              Chuyên tâm hành khổ người ta
       Con không thích ý, tránh xa hạng này.
      *  Còn ở đây, hạng người thứ bốn
          Họ vừa vốn không hành khổ mình,
              Không chuyên tâm hành khổ mình,
       Vừa không hành khổ tận tình người ta,
Không cố hành người ta phải khổ.
          Ngay trong chỗ hiện tại, hiện tiền
              Không có tham dục, tịnh yên
       Cảm giác lạc thọ, mát liền, thanh cao,
          Tự ngã họ trú vào Phạm thể
          Hạng như thế, con thích ý ngay ”.
 
        – “ Pết-Sa ! Vì sao con đây 
       Không thích ba hạng người này kể trên ? ”.
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   191
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Nêu lên bốn hạng
          Thì ba hạng con thật bất bình
          -  Hạng người tự hành khổ mình,
       Chuyên tâm tự hành khổ mình xiết bao,
          Trong khi mình tự ao ước lạc,
          Nhàm chán khổ, khao khát vui vầy !
Tâm con không thích hạng này.
    -  Hạng người hành khổ với ngay mọi người,
          Chuyên tâm hành khổ người khác trước,
          Khi người khác ao ước lạc an,
              Người khác nhàm chán khổ oan.
       Tâm con không thích hạng toàn bất minh.
       -  Hạng người vừa tự mình hành khổ,
          Chuyên tâm tự hành khổ cho mình,
              Vừa hành khổ người tận tình,
       Chuyên tâm hành khổ tận tình người ta.
          Trong khi mình cùng là người khác
Ao ước lạc, nhàm chán khổ ngay.
              Tâm con không thích hạng này !
       Bạch Chánh Đẳng Giác ! Con đây hài lòng
       -  Người vừa không tự mình hành khổ,
          Không chuyên tâm hành khổ tự mình,
              Không hành khổ người tận tình,
       Không cố hành khổ tận tình người ta.
          Ngay hiện tại rất là tịch tịnh
          Không tham dục, chân chính thẳng ngay
              Cảm giác lạc thọ, vui thay !
       Tự ngã trú Phạm thể ngay chẳng chầy,
          Hạng người này tâm con thích ý !
          Bạch Thế Tôn ! Hoan hỷ lắm thay !
              Nhưng nay công việc còn đầy,
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   192
 
       Con phải từ giã, xin Ngài thứ cho ! ”.
 
     – “ Này Pết-Sa ! Hãy lo những việc
          Mà con nghĩ cần thiết, hợp thời ”.
 
              Pết-Sa liền từ chỗ ngồi
       Đứng dậy, đảnh lễ, đoạn rời nơi đây.
          Sau khi thanh niên này đi khỏi
          Phật liền nói với Chúng Tỷ Kheo :
 
– “ Hãy nghe, này các Tỷ Kheo !
       Con trai người dạy voi theo cách mình
          Pết-Sa rất thông minh, có trí,
Đại trí tuệ vốn dĩ có qua.
              Các Tỷ Kheo ! Nếu Pết-Sa
       Ngồi thêm chút nữa nghe Ta giảng bày
          Bốn hạng này phân tích rộng rãi
          Thì anh ta gặt hái được nhiều
              Thâu đạt lợi ích bao điều !
       Tuy vậy, y vẫn có nhiều lợi sinh ”.
 
    – “ Bạch Thế Tôn ! Phát sinh chuyện ấy
          Nay xin Ngài giảng giải điều đây
              Phân tích rộng rãi, trình bày
Bốn hạng người đó. Nghe vầy, tường tri
          Chúng con sẽ thọ trì như vậy ”.
 
    – “ Các Tỷ Kheo ! Vậy hãy nghe đây !
              Hãy khéo tác ý đủ đầy ! ”.
 
– “ Chúng con nghe kỹ, lời Ngài khắc ghi ”.     
 
          Các Tỷ Kheo tức thì vâng đáp
          Đấng Đại Giác thuyết giảng an bình :
 
    –  * “ Hạng người tự hành khổ mình
 
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   193
 
       Chuyên tâm tự hành khổ mình là sao ?
 
          Sống lõa thể với bao phóng túng
          Các lễ nghi họ cũng bỏ trôi
              Hoặc cách đứng ăn không ngồi
       Đứng đại tiểu tiện , ăn rồi liếm tay
Đi khất thực, đứng ngay chẳng bước
          Không nhận thức ăn trước khi đi
              Không nhận thức ăn riêng chi
Mời ăn không nhận, sợ vì dành riêng
          Hai người đang hiện tiền ăn uống
          Một người cho không muốn nhận quà
 
              Không nhận từ những đàn bà
       Đang cho con bú hoặc là có thai
          Sợ đứa trẻ thiệt thòi dinh dưỡng
          Không nhận phần từ hướng đi quyên
              Khi có nạn đói trong miền
       Sợ rằng xén bớt phần tuyền nạn nhân     
 
          Không nhận, sợ mất phần gia súc
Khi chó , mèo… đang chực thức ăn
              Không ăn cá, thịt  lộn chen
       Không uống rượu nấu, rượu men sa đà
          Chỉ nhận ăn mỗi nhà một miếng
Hoặc hai nhà hai miếng, dùng qua
              Hoặc nhận ăn tại bảy nhà
       Chỉ ăn bảy miếng cho qua đói lòng
          Hoặc nuôi sống chỉ mong một bát
Hoặc hai bát… bảy bát thí phần
              Chỉ ăn mỗi ngày một lần
Hai ngày một bữa, một tuần mới ăn
          Hoặc vị ấy tinh cần tiết chế
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   194
 
Nửa tháng lệ một bữa ăn qua.
              Thực hành khổ hạnh tối đa
       Những phương thức khác trải qua, như là :
          Thức ăn họ chỉ là cỏ lúa,
Ăn hạt cải, lúa tắc, bột vừng
Ăn gạo xấu, ăn trấu dừng
Ăn nước bột gạo, măng rừng, rễ cây
Ăn phân bò, trái cây rụng xuống
Ăn da vụn, ăn cỏ qua ngày.
 
              Vị ấy mặc áo thô gai
       Hoặc vải liệm xác ở ngoài tha ma
          Ti-ta-ca  vỏ cây làm áo
Da sơn dương, phấn tảo mặc thường
              Bện bằng nhiều mảnh sơn dương
       Hoặc áo bằng cỏ cát tường kết chung
Áo vỏ cây, áo từng miếng gỗ
          Áo tóc bện gia cố thành mền                 
              Đuôi ngựa bện thành áo bền
Không cạo râu tóc, nhổ liền tóc râu
Hạnh không ngồi, bao lâu vẫn đứng
Ngồi chò hỏ, giữ vững kiểu này
              Thường nằm ngủ trên đống gai,
Bạ đâu nằm đó, người đầy bụi dơ
          Ngủ ngoài trời, vật vờ nằm đất
Ăn uế vật, nước tiểu trâu bò
Ăn phân bò, ăn đất tro
       Nước lạnh không uống, tắm cho ba lần
          Xuống dưới nước đầm thân tắm gội
Mong sạch tội, cổ tục vâng theo.
 
              Như vậy, này các Tỷ Kheo !
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   195
 
       Tự mình hành khổ, cố đeo khổ mình.
 
      *  Còn thế nào tự mình hành khổ &
          Hành khổ người, luôn cố thực hành ?
              Các Tỷ Kheo ! Ví dụ nhanh :
       Như Sát-Đế-Lỵ vua lành hoàng gia
          Đã trải qua làm lễ quán đảnh,
          Hay cường thạnh triệu phú Bàn-môn,
              Vị này xây tại Đông môn
       Một giảng đường lớn, hãy còn mới nguyên.
          Vị này liền tóc râu đều cạo
          Dùng da thô làm áo mặc vào
              Toàn thân bôi thục tô, dầu
       Dùng sừng nai để gãi đầu, gãi lưng.
 
          Vào giảng đường với người vợ chính, 
          Cùng giám tỉnh tế tự Bàn môn,
              Vua nằm dưới đất trống trơn
       Chỉ có lót cỏ, lót rơm quây tròn.
          Vua sống với vú con bò cái,
          Có con bê cùng loại màu này.
              Hoàng hậu dùng vú thứ hai
Để mà nuôi sống hình hài bà ta.
          Vú thứ ba dành cho Phạm-chí
          Tức là vị tế tự chuyên lo.
              Sữa vú thứ tư của bò
Dùng để tế lửa, là do tục truyền,
Còn bê con dành riêng vú khác.
 
          Vua ra lệnh : “Hỡi các cận thần !  
              Hãy giết một số thú cần :
       Bò đực, nghé đực, một phần cừu to
Một số dê, nhiều bò nghé cái
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   196
 
          Để tế lễ ; và hãy chặt sang
              Nhiều cây làm cột Tế đàn
       Trải cỏ đáp-phá quanh đàn cho tươi.
          Những nô tỳ, những người phục vụ
Kẻ làm công… tuân dụ vua ban,
              Mặt tràn nước mắt, khóc than
       Vì sợ đòn gậy, gặp toàn hiểm nguy
          Nên phải làm việc tuy không thích.
 
          Các Tỷ Kheo ! Chướng nghịch, vô minh !
              Hạng vừa tự hành khổ mình
       Chuyên tâm tự hành khổ mình chẳng lơi,
          Vừa hành khổ cho mình mọi lúc
Cố tiếp tục hành khổ cho người.     
 
         *  Chúng Tăng ! Còn có hạng người 
       Không tự hành khổ mình & người cả hai,
          Không chuyên tâm cả hai hành khổ,
          Được mến mộ vì hiện tại đang
              Sống khôngtham dục, tịnh an,
       Cảm nhận lạc thọ trải sang đêm ngày,
Tự ngã họ trú ngay Phạm-thể.
 
          Các Tỷ Kheo ! Cõi thế gian này
              Đêm ngày triền phược phủ vây
       Vô minh che kín, họa tai dẫy đầy
          Bỗng xuất hiện bậc Thầy quảng đại
Thế Gian Giải, Điều Ngự Trượng Phu,
Phật, Thế Tôn, Thiên Nhân Sư,
Chánh Đẳng Chánh Giác đại từ uy linh
Vô Thượng Sĩ  hay Minh Hạnh Túc,
Bậc Thiện Thệ, Ứng Cúng, Như Lai,
             Do sự chứng ngộ tự Ngài
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   197
 
       Rồi lại tuyên thuyết, hoằng khai Pháp mầu
          Thuyết Sơ Thiện, rồi sau Trung Thiện
Thuyết Hậu Thiện, văn nghĩa đủ đầy
             Truyền dạy Phạm hạnh từ đây
       Pháp thân thanh tịnh, bậc Thầy Nhân Thiên.
 
       * Có gia trưởng trong miền thôn ấp
          Hoặc một người giai cấp tiện dân
             Duyên lành nghe pháp thậm thâm
Sinh lòng ngưỡng mộ, kiếm tầm chân như
Tự suy nghĩ : ‘Đời như cát bụi
          Sống dẫy đầy trói buộc não phiền
             Luân hồi sinh tử triền miên
       Đời sống xuất thế lụy phiền tránh xa.
 
          Ta nay phải xuất gia viên mãn
          Đời xuất gia phóng khoáng hư không
             Cuộc sống thế gian chất chồng
       Phạm hạnh thanh tịnh thật không dễ gìn’.
 
          Y trưởng dưỡng đức tin vững chắc
Cạo râu tóc, thân đắp ca-sa
Biệt gia quyến, bỏ cửa nhà
Ba y một bát, xuất gia tu hành.
 
Sống chế ngự, thực hành phạm hạnh
Giữ oai nghi, tự tánh sáng lòa
             Giới bổn Pa-Tí-Mốc-Kha  (1)
       Thọ trì nghiêm mật, tránh xa điều tà
Thân, khẩu, ý  từ hòa thanh tịnh
Giới cụ túc, thức tĩnh nhiếp tâm
    _______________________________
(1) : Patimokkhasanvarasìla : Biệt biệt giải thoát thu thúc giới 
         ( trong Tứ Thanh Tịnh Giới của Luật Tỷ Kheo ).
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   198
 
Biết tri túc, giữ các căn
       Là Sa-môn hạnh, pháp đăng soi đường.
 
           Các Tỷ Kheo ! Sao tường thuần thục
          Là Tỷ Kheo cụ túc giới điều ?
             Phải thấy nguy hiểm mọi chiều
       Lỗi lầm nhỏ nhặt triệt tiêu dần dần
Bỏ trượng kiếm, sát sanh tránh hẳn      
          Đại từ tâm, bình đẳng, nhẫn kham
             Có tâm hổ thẹn là Tàm
Ghê sợ là Quý, không làm nghiệp sai
          Hành phạm hạnh, bản lai thanh tịnh
          Không trộm cướp, chẳng tính so đo
             Quyết không lấy của không cho
Đó là giới hạnh, thước đo Giới điều.
         Vị Tỷ Kheo mong điều giải thoát
          Không tà hạnh. dâm ác thấp hèn
             Không nói dối trá đua chen
       Không nói hai lưỡi chê khen dối lòng
          Không lường gạt cũng không ly gián
          Sống hòa hợp giữa nạn rẽ chia
             Sống đời chân thật sớm khuya
       Tránh lời độc ác nọ kia lỗi lầm.
          Là giới hạnh trong tầm Giới Luật
          Vị Tỷ Kheo thuần thục thọ trì.
 
             Cả đến hạt giống, cỏ cây
       Cũng đều thấm nhuận đức dày Sa-Môn
Chỉ ăn ngọ, sống tồn tri túc
          Không múa hát, trang sức, kịch ca
             Sống thanh đạm, tránh xa hoa
       Không dùng hương liệu, dầu thoa thơm nồng
 
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   199
 
          Lại cũng không giường nằm cao rộng    
          Cũng không nhận thịt sống, bạc vàng
Nô tỳ trai, gái – từ nan
Đàn bà, con gái – không màng lưu tâm
          Cừu, dê, heo, gia cầm, voi, ngựa,
          Ruộng, đất, vườn, nhà cửa không cần
             Từ bỏ gian lận bằng cân
       Từ bỏ môi giới, không phần gian tham
          Không áp bức, không làm thương tổn
          Không câu thúc, vây khổn, cừu thù.
 
Hãy tường tri, các Phích-Khu !
Uy nghi, vị ấy toàn chu, vô cầu.
          Vị ấy sống thanh cao, biết đủ
          Hạnh Tri Túc luôn giữ chỉnh tề
             Bằng lòng ba  y  để che
       Bình bát khất thực dễ bề cúng dâng
          Y và bát  luôn gần bên cạnh
Cũng như chim, đôi cánh luôn mang
             Đạt Thánh Giới Uẩn nghiêm trang
       Nội tâm lạc thọ, hoàn toàn thanh cao.
 
          Mắt thấy sắc nhưng nào giữ tướng
          Tướng chung, riêng chẳng nắm giữ gì
             Mắt không chế ngự tại chi
       Khiến bất thiện pháp ưu bi khởi vào
          Nên tham ái dâng trào đủ thứ
          Vị Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân
             Hộ trì tích cực nhãn căn
       Cũng như hộ trợ nhĩ căn cũng cần
          Tai nghe tiếng hay thân cảm xúc
Mũi ngửi hương, nhận thức : Ý căn
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   200
 
             Tỷ Kheo hộ trì các căn
Nên hưởng lạc thọ, nội tâm sáng ngời.
 
  –  Các Tỷ Kheo ! Thời thời tỉnh giác
Giữ chánh niệm, an lạc tự tâm
             Tỷ Kheo đi, đứng, ngồi, nằm
Đều giữ tỉnh giác, trong tâm biết liền
          Khi tới, lui ; biết mình lui, tới
          Khi nhìn quanh, biết bởi mình làm
             Hay khi co duỗi tay chân
       Mặc y, đi bát  hay cần uống ăn
          Khi nhai, nuốt, nói năng : Tỉnh giác
          Đại, tiểu tiện, nhổ khạc : Biết mình
             Như vậy vị ấy tâm minh
       Chánh niệm tỉnh giác, an bình, tịnh thanh.
 
          Thánh Giới Uẩn tựu thành cao quý
          Với các căn nhiếp kỹ, hộ trì
             Chánh niệm tỉnh giác trí tri
Thêm hạnh tri túc, còn gì quý hơn.
          Trang bị đủ những gì cao quý
          Vị ấy lựa vị trí lặng yên
Như rừng tĩnh mịch, lâm viên,
       Gốc cây, khe núi hoặc liền tha ma.
.Thời ngọ thực đã qua, rửa bát
          Ngồi kiết già, an lạc, thẳng lưng
             An trú chánh niệm, lâng lâng
Tham ái từ bỏ, thoát dần ái tham
Bỏ sân hận, từ tâm thương xót
          Chúng hữu tình mỗi một cảnh riêng
             Từ bỏ hôn trầm, thụy miên
       Thoát ly khỏi chướng thụy miên, hôn trầm
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   201
 
Giữ tịnh tâm, hướng về ánh sáng
          Cùng chánh niệm, tỉnh giác, tâm yên
Gột rửa chúng, được an nhiên
Từ bỏ trạo cử  thì liền tịnh thân
          Hết nghi ngờ, phân vân lưỡng lự
Gột rửa hết  trạo cử, hôn trầm
Gột rửa tham ái, hận sân
Đối với thiện pháp, tinh cần hành theo.
 
          Năm Triền Cái (1) nếu đều chưa diệt
          Thì vị ấy mãi miết tinh cần
.         Chừng nào khi quán tự thân
       Với năm triền cái  đã cần xả ly
Do xả ly, tức thì hoan hỷ
Do hoan hỷ, tâm được khinh an
             Lạc thọ sinh do khinh an
       Đạt được như thế, tâm an định liền.
Ly ác pháp, Tỷ Kheo ly dục
          Chứng và trú vào mục Nhất Thiền
             Trạng thái hỷ lạc tự tâm
Sinh do ly dục, với Tầm, Tứ chuyên.
 
          Các Tỷ Kheo ! Tiếp liền theo nữa
          Vị ấy lại vào cửa Định thiền
             Diệt Tầm, diệt Tứ được yên
       Thì chứng và trú vào Thiền thứ Hai
          Một trạng thái ra ngoài Tầm, Tứ
Do Định sinh, nội tỉnh nhất tâm.     ___________________________
 
x(1) : Năm Triền Cái  (Nivarana ) :  a/ Tham dục – Kàmacchanda .   
 b/ Oán hận – Vyàpàda .  c/ Hôn trầm, dã dượi  ( Thina – middha ).
 d/ Phóng dật, lo âu  ( Uddhacca – Kukkucca )      e/ Hoài nghi 
                                                                                    ( Vicikicchà ).
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   202
 
              Ly hỷ trú xả âm thầm
Chánh niệm tỉnh giác, thì thân cảm liền
Sự lạc thọ, thánh hiền gọi đủ
Là ‘xả niệm lạc trú’ tâm chuyên
Chứng và an trú Tam Thiền.
       Xả lạc, xả khổ, diệt liền hỷ ưu
          Đã cảm thọ ; chứng Thiền Đệ Tứ
          Không khổ & lạc, không giữ niệm nào,
              Thanh tịnh, an lạc, tiêu dao
       Thanh tịnh, định tĩnh, thanh cao dứt phiền
          Vị ấy liền hướng tâm đến với
Túc Mạng Trí, nhớ tới nhiều đời
Quá khứ  với một, hai đời
Năm chục, ba bốn trăm đời đã qua
          Một ngàn đời hay là hơn nữa
          Một trăm ngàn đời thuở lâu xa
             Hoại kiếp, thành kiếp trải qua
Vị ấy nhớ lại như là mới đây.
 
          Tại nơi ấy, tên này ta có
          Thuộc giai cấp, giòng họ thế này
Uống, ăn, thọ khổ, lạc  rày
Tuổi thọ như thế, chết ngày ra sao
Ta tái sinh, nhằm vào làng đó
          Có tên tuổi, giòng họ thế nào…
Cứ thế, nhớ lại biết bao
       Tiền kiếp, tái kiếp  không sao đếm rày.
          Chính vị này tinh tường hiểu biết
Quá khứ cả chi tiết, đại cương.
 
              Hướng về Sinh Tử Trí thường,
       Thiên Nhãn thuần tịnh như gương, thấy liền :
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   203
 
          Vị ấy biết mối giềng Nghiệp quả
Người hạ liệt, kẻ cả giàu sang
Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn
       Đều do hạnh nghiệp trắng đen họ làm.
 
          Gieo ác hạnh về thân, khẩu, ý
          Hoặc phỉ báng các vị Thánh Hiền
             Người này thân hoại, tận duyên     
Do nghiệp tà kiến, đọa liền súc sinh,
Các cõi dữ, như sinh địa ngục
Hoặc đọa xứ, thằng thúc nạn tai.
 
             Còn bậc hiền giả, những ai
Làm những thiện hạnh  ý và lời, thân
          Không phỉ báng Hiền nhân, Thánh hiển
          Tạo nghiệp lành, chánh kiến vô cùng
             Sau khi thân hoại mạng chung 
       Được sinh thiện thú, nhân trung, cõi trời
Do thiên nhãn, biết đời sống chết
          Người hạ liệt  hay kẻ giàu sang
Người đẹp đẽ, kẻ thô hèn
       Người này bất hạnh, kẻ bèn gặp may
          Do hạnh nghiệp kẻ này hành động
          Có kết quả chẳng giống nhau này,
              Vị ấy thuần tịnh, thẳng ngay
       Thanh tịnh, trong sáng, không hay ưu phiền.
          Vị  ấy liền hướng tâm đến với
LẬU TẬN THÔNG, dẫn tới biết rành
Lậu Tận Trí, biết ngọn ngành
Đây là sự Khổ, nguyên nhân đưa vào
Đây Khổ Diệt, đường nào diệt khổ
          Biết như thật lậu-hoặc loại này  
Trung Bộ (Tập 2) Kinh 51 :   KADARAKA         *  MLH  –   204
 
             Nguyên nhân lậu-hoặc là đây
Diệt trừ lậu-hoặc, biết ngay con đường.
 
          Nhờ hiểu biết, tận tường nhận thức
          Tâm vị ấy rất mực sáng trong
Dục-lậu, hữu-lậu  thoát xong
Thoát vô-minh-lậu, khỏi vòng trói trăn
          Liền hiểu rõ : Tự thân giải thoát
Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành
Việc cần làm, đã thực hành
Sau đời hiện tại, Vô sanh hiển bày.
 
          Chúng Tăng này ! Hạng người đơn cử
          Vừa không tự hành khổ cho mình
              Không chuyên tâm hành khổ mình,
       Vừa không hành khổ hãi kinh cho người,
          Không chuyên tâm hành người ta khổ.
          Ngay hiện tại không có Dục tham,
              Tịch tịnh, mát lạnh, nghiêm trang
       Trú vào Phạm thể, lạc an vô cùng ”.
 
          Nghe Thế Tôn ung dung giảng thuyết
          Bốn hạng người chi tiết rõ ràng
              Chư Tỷ Kheo trong đạo tràng
       Hoan hỷ, tín thọ lời vàng Thế Tôn ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
*
*     *
 
 
 
(  Chấm dứt  Kinh số 51 : KANDAKARA
KANDAKARA  Sutta  )
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2018(Xem: 6363)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
06/08/2018(Xem: 7707)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3576)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3530)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11559)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4010)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3476)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10882)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6849)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13121)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]