Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

110. Tiểu Kinh Mãn Nguyệt

19/05/202011:27(Xem: 9485)
110. Tiểu Kinh Mãn Nguyệt

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập IV
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


110. Tiểu Kinh MÃN NGUYỆT

( Cùlapunnama sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Thiện Thệ       

          Sa-Vát-Thí – Xá-Vệ – trú qua

              Đông Viên – Púp-Bá-Ra-Ma,

       Mi-Ga-Ra-Má-Tú-Pa-Sá-Đà, 

          Cũng chính là Giảng đường Lộc Mẫu

          Lúc bấy giờ vào dạo trăng tròn

              Trong ngày Bố-tát trời trong,

       Thế Tôn ngồi giữa rất đông Tăng-Già

          Đang đoanh vây quanh tòa Đại Giác

          Giữa trời mát, trên bãi cỏ dày.

 

              Phật nhìn Chúng Tỷ Kheo đây

       Đang rất yên lặng, tâm đầy tịnh thanh.

          Đấng Trọn Lành Thế Tôn liền bảo :

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Bất hảo một người

              Có thể biết được một người

       Tâm hành bất chánh, tức thời nói ngay :

         ‘Chính vị này là người bất chánh’

          Có xảy ra cái cảnh đó không ? ”.

 

       – “ Y không biết, bạch Thế Tôn ! ”.  

 

 – “ Lành thay ! Này các Sa-môn ! Đúng vầy !  

          Không thể có việc này, sự kiện

          Người bất chánh phát hiện, biết ngay

             ‘Người bất chánh là người này’,

       Nhưng các Phích-Khú ! Điều này có chăng :

          Một người hằng bất chánh, hạ liệt

          Có thể biết người chân chánh không ? ”.

 

       – “ Y không biết, bạch Thế Tôn ! 

 

 – “ Lành thay ! Này Chúng Sa-môn ! Đúng vầy !

          Không thể có việc này, sự kiện

          Các Tỷ Kheo ! Về chuyện như vầy

              Người bất chánh có đủ đầy

       Các pháp bất chánh, chẳng ngay – mọi đàng,

          Giao du toàn với người bất chánh,

          Nói như người bất chánh, hay là

              Suy tư, hành động làm ra

       Như người bất chánh, có tà kiến hư,

          Bố thí như hạng người bất chánh.

 

          Các Tỷ Kheo ! Bất chánh người này  

              Thế nào là có đủ đầy

       Các pháp bất chánh, chẳng ngay thẳng vầy ?

          Hạng người này vô tàm, vô quý,

          Bất tín, chỉ biếng nhác, không nghe

              Thất niệm, liệt tuệ mọi bề

       Đầy pháp bất chánh nói về là đây.

 

          Các Tỷ Kheo ! Người đầy vô hạnh

          Người nào kẻ vô hạnh kết giao ?

              Các ông ! Những Bàn-môn nào

       Vô tàm, vô quý, không sao tin lời,

          Nghe ít và biếng lười, liệt tuệ

          Hay những kẻ thất niệm… vân… vân…

              Thời người bất chánh kết thân.

       Còn người bất chánh trong phần suy tư

          Thế nào như người bất chánh vậy ?

          Những người ấy suy nghĩ hại mình,

              Làm hại người khác, sinh linh,

       Suy nghĩ làm hại cả mình, người ta.

 

          Thế nào là tư lường bất chánh ?

          Người bất chánh tư lường hại mình,

              Làm hại người khác, sinh linh

       Tư lường làm hại cả mình, người ta.

 

          Thế nào là nói năng bất chánh ? 

          Người bất chánh nói ác, dối gian,

              Hai lưỡi, phù phiếm lăng nhăng,

       Những người bất chánh nói năng như vầy.

 

          Các Tỷ Kheo ! Hằng ngày cuộc sống 

          Người bất chánh hành động sao đây

              Như người bất chánh sống vầy ?

       Người bất chánh ấy thường bày sát sanh,

          Thường thực hành tà hạnh trong dục,

          Thường nhiều lúc lấy của không cho.

              Biết người bất chánh là do

       Hành động bất chánh nhỏ to kể vào     

          Các Tỷ Kheo ! Thế nào là chuyện

          Người bất chánh tà kiến như là

              Những người bất chánh xấu xa ?

       Những người bất chánh có tà kiến như :

          Không long từ bố thí, tế tự,

          Không mọi thứ lễ hy sinh nào,

              Không có quả dị thục nào,

       Các nghiệp thiện ác & đời sau không hề !

          Không có về đời khác, các cõi,

          Không có loại hóa sinh, mẹ cha,

              Ở đời cũng không có ra           

       Những Sa-môn hay những Bà-la-môn

          Có chánh hạnh đáng tôn, chánh hướng,

          Tự chứng đạt với thượng trí ngay,

              Các đời khác và đời này

       Và truyền dạy lại tương lai nối truyền.

 

          Các Tỷ Kheo  Sao liền được chỉ

          Kẻ bố thí như bất-chánh-nhân ?

              Ở đây, kẻ ấy mọi phần

       Bố thí một cách không cần kể ai,

          Vô lễ, không tự tay bố thí,

          Không suy nghĩ cặn kẻ, buông lung,

              Bố thí vật không cần dùng,

       Bố thí không nghĩ đến chừng tương lai.

          Và người này bố thí như thể

          Là những kẻ bất chánh, chẳng ngay.

 

              Các Tỷ Kheo ! Những người này

       Nhiều pháp bất chánh trên đây thực hành,

          Nghiệp quả dành sau khi thân hoại :

          Sinh vào cõi địa ngục, bàng sanh,

              Là những cảnh giới sẵn dành

       Cho người bất chánh chẳng lành thọ sanh.

 

          Các Tỷ Kheo ! Người lành, chân chánh

          Biết được người chân chánh hay không ? ”.

 

       – “ Thưa biết được, bạch Thế Tôn ! ”.

!

 – “ Lành thay ! Này Chúng Sa-Môn ! Đúng vầy ! 

          Sự tình này có thể sẽ có

          Người chân chánh biết rõ điều này :

             ‘Người bất chánh là vị đây !’ 

       Có thể xảy đến như vầy hay không ? ”.      

 

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Có thể biết được ! ”.   

 

    – “ Các Tỷ Kheo ! Sau trước thẳng ngay   

              Người chân chánh có đủ đầy

       Về chánh pháp, giao du ngay mọi thời

          Với những người cao thượng, chân chánh

          Suy nghĩ như chân chánh các vì,

              Tư lường như những vị ni,

       Nói năng như bậc hành trì chánh chân,

          Hành động như bậc chân chánh đó,

          Chánh kiến có như bậc chánh chân,

              Bố thí như bậc chánh chân.

       Các ông ! Sao là bậc chân chánh này

          Có đủ đầy chánh pháp như vậy ? 

 

          Những vị ấy thật có lòng tin   

              Có lòng tàm, quý phân minh,

       Nghe nhiều, có chánh niệm, tinh tấn hoài,

          Có trí tuệ, miệt mài cần mẫn.

          Các Tỷ Kheo ! Viện dẫn như vầy

              Thời những người chân chánh này

       Những điều chánh pháp đủ đầy, thanh cao.

 

          Các Tỷ Kheo ! Thế nào là việc

          Người chân chánh giao thiệp thẳng ngay

              Với các bậc chân chánh vầy ?

       Ở đây, các Phạm-chí hay những vì

          Sa-môn chi có tàm, có quý,

          Nghe nhiều, có tuệ trí, tinh cần,

              Chánh niệm… thì mới kết thân

       Là bạn hữu của vị chân chánh này.

 

          Thế nào điều vị đây suy nghĩ ?  

          Người ấy không suy nghĩ mọi thời    

              Tự làm hại mình, hại người,

       Không suy nghĩ hại đồng thời cả hai.

          Các Tỷ Kheo ! Vị đầy chân chánh

          Cũng tư lường nhằm tránh hại mình,

              Không làm hại người, sinh linh,

       Không làm hại cả hai : mình, người ta.

 

          Thế nào là nói năng như thể

          Người chân chánh được kể ở đây ?

              Người chân chánh từ bỏ ngay

       Nói láo, hai lưỡi, lời đầy ác gian,

          Lời phù phiếm, chuyện toàn vô ích.

          Người chân chánh chỉ thích nói năng

              Những lời chân thật hiền nhân.

 

       Thế nào hành động người chân chánh làm ?

          Người chân chánh không làm điều ác,

          Bỏ sự sát, trộm cướp, tà dâm.

              Các Tỷ Kheo ! Sao là phần

       Có chánh kiến như chánh chân các vì ?

          Người chân chánh mọi thì chánh kiến :

         ‘Có bố thí, có chuyện lễ nghi

              Lễ hy sinh, tế tự vì

       Có quả dị thục, nghiệp chi ác & lành,

          Có tái sanh đời này, đời kế,

          Hóa sanh loại, có mẹ, có cha,

              Ở đời có những vị là

       Sa-môn, Phạm-chí trải qua rthực hành

          Chánh hướng, chánh hạnh lành, an lạc

          Tự chứng đạt với thượng trí vầy

              Đời này, đời khác, truyền lai.

       Vị ấy có chánh kiến ngay như là              

 

 

          Người chân chánh sống qua như thế.

          Các Tỷ Kheo ! Còn thế nào là

              Bố thí chân chánh như là

       Người chân chánh đã trải qua mọi phần

          Bố thí bằng một cách lễ độ,

          Tự tay mình làm bố thí ni,

              Có sự kỹ lưỡng nghĩ suy,

       Bố thí toàn những vật chi cần dùng.

          Nghĩ đến tương lai cùng bố thí.

          Người chân chánh bố thí như là

              Những người chân chánh, thật thà,

       Các Tỷ Kheo ! Lược kể ra như vầy. 

          Người chân chánh đủ đầy Chánh pháp

          Và thực hành với khắp các điều

              Chân chánh mà đã được nêu,

       Sau khi thân hoại, có nhiều thiện duyên :

          Sanh cảnh giới Chư Thiên các cõi,

          Hay cảnh giới Nhân loại lành này ”.

 

              Nghe Phật thuyết giảng như vầy

       Chúng Tăng tín thọ, lòng đầy hân hoan ./-

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*  *

 

(  Chấm dứt Kinh 110 :  Tiểu Kinh MÃN NGUYỆT –

            CÙLAPUNNAMA  Sutta  )

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/08/2018(Xem: 6363)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
06/08/2018(Xem: 7707)
Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được nhiềuchư thiền Tổ ghé bước hoằng hóa và chư tôn thiền đức bản địa xây dựng mạnh mạch Phật đạo từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên hình ảnh Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi nhiều kinh điền có giá trị để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường hoằng
05/08/2018(Xem: 3576)
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ, mới đó mà đã mấy chục năm theo bốn mùa thay lá thay hoa và đời riêng của mỗi người có quá nhiều đổi thay. Ngồi nhớ lại những kỷ niệm thời còn đi dạy trường Sương Nguyệt Anh, biết bao nhiêu vui buồn lẫn lộn ngập tràn làm xao xuyến cả tâm tư! Hình ảnh buổi lễ bế giảng năm học 1978 bỗng rõ lên trong ký ức tôi như một đóm lửa nhóm trong vườn khuya. Năm đó tôi dạy tới ba bốn lớp 12, lớp thi nên cả Thầy trò mệt nhoài. Không đủ giờ ở lớp nên nhiều khi tôi phải vừa dạy thêm vào sáng Chủ Nhật, vậy mà các em vẫn đi học đầy đủ. Tới ngày bế giảng Cô trò mới tạm hoàn tất chương trình, như trút được gánh nặng ngàn cân ! Hôm đó, tôi lại được Ban Giám Hiệu phân công trông coi trật tự lớp 12C1, có nghĩa là phải quan sát bắt các em ngồi ở sân trường phải yên lặng chăm chú theo dõi chương trình buổi lễ, nghe huấn từ của ban Giám Hiệu.
03/08/2018(Xem: 3530)
ĐA TẠ VÀ TRI ÂN Những nhà dịch thuật kinh sách Nam Tông, Bắc Tông và Mật Tông Không hiểu từ bao giờ khi đã bước vào thế giới triết học, khoa học và tôn giáo của Đạo Phật, mặc dù nghe rất nhiều pháp thoại đủ mọi trình độ tôi vẫn không tin có THỜI MẠT PHÁP. Vì sao vậy? Có lẽ lý do tôi biện minh sẽ không được nhiều người chấp nhận, nhưng theo thiển ý của tôi, từ khi nền công nghệ văn minh vi tính hiện đại phát triển, ta không cần chờ đợi một quyển sách được in ra và chờ đợi có phương tiện thích nghi để giữ nó trong tủ sách gia đình, ta vẫn có thể theo dõi qua mạng những bài kinh luật luận được dịch từ tiếng Pali hay Sankrit hoặc những bản Anh Ngữ, Pháp ngữ mà người đọc dù có trình độ học vấn vào mức trung trung vẫn không tài nào hiểu rõ từng lời của bản gốc.
03/08/2018(Xem: 11558)
Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử, tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 – từ trần ngày 11 tháng 11 năm 1940 là nhà thơ nổi tiếng, khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam, là người khởi xướng ra Trường thơ Loạn. Hàn Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định gọi là Bàn thành tứ hữu, Bốn người bạn ở thành Đồ Bàn. Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa. Ông cố là Phạm Chương vì liên quan đến quốc sự, gia đình bị truy nã, nên người con trai là Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên – Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh. Sinh ra ông Nguyễn Văn Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy (con cụ Nguyễn Long, ngự y có danh thời vua Tự Đức), Hàn Mạc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần là các bút danh khác của ông. Ông có tài năng làm thơ từ rất sớm khi mới 16 tuổi. Ông đã từng gặp gỡ Phan Bội Châu và chịu ảnh hưởng khá lớn của
29/07/2018(Xem: 4010)
Nhà văn Hoàng Mai Đạt --cũng là Chủ Bút Nhật Báo Viễn Đông -- cho biết số báo ra mắt đã mất nhiều tháng mới làm xong, nhưng hy vọng tương lai sẽ được chư tôn đức Tăng Ni và quý cư sĩ hỗ trợ để thuận lợi cho việc hoằng pháp. Số ra mắt Tinh Tấn Magazine in trên giấy láng, nhiều màu, dày 90 trang, khổ báo tạp chí. Trong số ra mắt Tinh Tấn Magazine, có nhiều bài tập trung chủ đề Quan Thế Âm Bổ Tát hoặc chủ đề từ bi, trong đó có bài: Hạnh Nguyện Cứu Độ Chúng Sanh của Đức Quán Thế Âm (tác giả HT Thích Tịnh Từ);
21/06/2018(Xem: 3476)
Phần này bàn về các cách gọi thời gian như giờ, ngày, tháng trong tiếng Việt vào thời LM de Rhodes sang An Nam truyền đạo. Tài liệu tham khảo chính của bài viết là các tác phẩm Nôm của LM Maiorica và Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), Phép Giảng Tám Ngày (PGTN) và từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là từ điển Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false.
14/06/2018(Xem: 10879)
Khoảng tháng 3 vừa rồi, Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương Trượng Chùa Viên Giác (Đức Quốc) gởi cho chúng tôi bản final cuốn Mối Tơ Vương Của Huyền Trân Công Chúa với lời dặn dò: viết Lời cuối sách. Đọc thư Thầy, chúng tôi vô cùng băn khoăn, lo lắng và hơi bị “ngộp” dưới cái bóng quá lớn và ảnh hưởng rộng khắp của Thầy. Chúng tôi “ngại” vì biết Thầy có nhiều mối quan hệ thân thiết với các bậc tài danh khắp nơi. Ngược lại, chúng tôi chỉ là kẻ sơ học nhiều mặt mà lại dám chắp bút viết Lời cuối sách này? Chúng tôi rất đắn đo trước cái vinh dự to lớn ấy, trước cái trách nhiệm nặng nề này. Nhưng rồi anh Văn Công Tuấn nhiều lần “trấn an”, khích lệ. Và rồi, lại nghĩ rằng, Thầy Như Điển có lòng ưu ái, thương tưởng và muốn tạo điều kiện cho chúng tôi trong bước đầu tập tễnh học Phật. Xin cung kính niệm ân Thầy; và cũng qua đây kính mong quý vị độc giả thông cảm và lượng thứ cho những thiếu sót và non nớt không sao tránh khỏi, dù đã có nhiều
09/06/2018(Xem: 6849)
Tóm lược Khác với hầu hết những cộng đồng sắc tộc tại Úc Châu, người Việt đã đến đây thật đông đảo trong một thời gian tương đối ngắn, khi xã hội văn hóa đa nguyên của đất nước định cư nầy hãy còn trong tình trạng non trẻ. Sự hiện diện của một cộng đồng thiểu số Châu Á mà hình dáng bên ngoài dễ nhìn thấy, dễ nhận dạng, đã là một thách đố lớn lao cho giới lãnh đạo chính trị tại Úc, và sự bao dung của công chúng Úc nóí chung.
21/05/2018(Xem: 13121)
Một Cõi Đi Về Thơ & Tạp Bút Tập 3_Thích Phước Thái
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]