Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 78. Kinh Lăng Già giải nghĩa

16/04/202018:43(Xem: 3905)
Bài 78. Kinh Lăng Già giải nghĩa

KINH LĂNG GIÀ

GIẢI NGHĨA

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

     Đoạn 2, Mục 3, Quyển 4 này, Bồ Tát Đại Huệ lại thỉnh Phật giảng tướng thứ lớp tiếp nối (tương tục) tu thiền định diệt tâm thụ tưởng (Diệt Tận Định) của Ý thức Thức thứ sáu và diệt ngã chấp của Thức thứ bảy để đạt định sâu trong vô tâm, sẽ xuất ly 3 cõi: Dục, Sắc và Vố Sắc (Tam giới), khiến người tu hành xả sự vui của pháp môn Diệt Tận Định, cuối cùng chẳng rơi vào sự ngu si của ngoại đạo. 

 

     Đức Phật giảng rằng: “1- Từ Sơ Địa đến Lục Địa Bồ Tát đắc nhân Vô Ngã, nhập Diệt Tận Định với Thanh Văn, Duyên Giác chẳng khác; vì nơi định có xuất có nhập, chưa thể niệm niệm nhập. Thất Địa Bồ Tát nhập Diệt Tận Định lìa tất cả tướng hữu vô. Dù có tánh Niết Bàn mà chẳng trụ, chẳng như Nhị Thừa có nhiếp thọ sự vui của chánh định, cho chánh định là thiện, duyên theo hữu vi (2) nhập Diệt Tận Định, đọa cảnh giới năng nhiếp sở nhiếp và có hành có giác. Cho nên Thất Địa Bồ Tát niệm niệm nhập Diệt Tận Định mà chẳng nghĩ Diệt Tận Định là thiện, đắc tất cả pháp tướng chẳng sai biệt, chẳng phân biệt pháp hữu, pháp vô, pháp thiện, pháp bất thiện”.

 

     Nghĩa là hàng Bồ Tát từ bậc 1 (Sơ Địa) đến bậc 6 (Lục Địa) đạt không chấp thật con người có cái ta (đắc nhân Vô Ngã) nhập Diệt Tận Định với hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng khác; vì nơi định có xuất có nhập, chưa thể niệm niệm nhập. Bồ Tát bậc 7 (Thất Địa) nhập Diệt Tận Định lìa tất cả tướng Có Không, dù có tính Niết Bàn mà chẳng trụ, chẳng như Nhị Thừa (Thanh Văn và Duyên Giác) có thụ nhận (nhiếp thọ) sự vui của chính định, cho chính định là thiện, duyên theo sự chấp ba cõi Dục, Sắc, Vô Sắc (hữu vi) nhập Diệt Tận Định, đọa cảnh giới thu nhận và chỗ nhận (năng nhiếp sở nhiếp) và có tác ý (hành) có biết (giác). Nên Bồ Tát bậc 7 niệm niệm nhập Diệt Tận Định mà chẳng nghĩ Diệt Tận Định là thiện, đắc tất cả pháp tướng chẳng sai biệt, chẳng phân biệt pháp có pháp không, pháp lành pháp ác.

 

     Ngài giảng tiếp: “2- Đại Huệ! Bát Địa Bồ Tát xả lìa Tạng thức chẳng những đối với tất cả pháp mỗi mỗi tướng diệt, cho đến tâm, ý, ý thức hư vọng phân biệt của Thanh Văn, Duyên Giác cũng diệt. Từ Sơ Địa cho đến Thất Địa Bồ Tát sở tu quán hạnh, thấy tất cả các pháp nơi tam giới chỉ do tâm, ý, ý thức sở hiện tâm lượng, lìa ngã và ngã sở v.v... cũng chuyển diệt luôn, chẳng thấy ngoài pháp có mỗi mỗi các tướng. Ngoại đạo ở nơi tự tâm khởi vọng tưởng phân biệt, hư vọng tu tập, thấy ở ngoài pháp có tướng để đắc, thì đọa mỗi mỗi tướng ngoài tánh. Ấy là hai thức chấp trước của phàm phu ngoại đạo, dùng tự tâm nhiếp tự tâm, thấy có pháp năng nhiếp sở nhiếp bèn nói tất cả đoạn diệt, chẳng biết do tập khí hư ngụy từ vô thỉ sở huân mà đoạn diệt chủng tánh Phật”.

 

     Nghĩa là hàng Bồ Tát bậc 8 xả lìa Thức thứ 8 (Tạng thức) chẳng những đối với tất cả các pháp hình tướng diệt, mà cho đến các hiện tượng vạn vật thế giới (tâm), khởi niệm liên tục (ý), so đo phân biệt tương tục (ý thức) của Thanh Văn, Duyên Giác cũng diệt. Bồ Tát t bậc 1 đến bậc 7 tu quán, thấy tất cả các pháp nơi ba cõi (tam giới) chỉ do tướng các hiện tượng vạn vật thế giới, khởi niệm liên tục, so đo phân biệt tương tục hư vọng (tâm, ý, ý thức) mà lià tất cả suy lường vọng tưởng của tâm (sở hiệntâm lượng), lìa cái ta và cái của ta (ngã và ngã sở) v.v... Thì tướng các hiện tượng vạn vật thế giới, khởi niệm liên tục, so đo phân biệt tương tục hư vọng (tâm, ý, ý thức) cũng chuyển diệt luôn, chẳng thấy ngoài pháp có các tướng. Còn ngoại đạo ở nơi tự tâm khởi vọng tưởng phân biệt hư vọng tu tập, thấy ở ngoài pháp có tướng để đắc, thì rơi vào (đọa) tướng ngoài tánh; đây là hai thứ chấp của phàm phu, ngoại đạo. Họ dùng tự tâm nhận (nhiếp) tự tâm, thấy có pháp thu nhận và cái để nhận (năng nhiếp sở nhiếp) bèn nói tất cả đoạn diệt, chẳng biết do tập khí hư ngụy từ vô thủy huân tập mà đoạn diệt mầm giác tuệ (chủng tánh Phật).

 

Ngài bảo: “3- Đại Huệ! Bát Địa Bồ Tát sở đắc Tam muội với Thanh Văn, Duyên Giác dù hơi giống nhau, nhưng Bồ Tát có chánh giác gia trì, nên dù có sự vui của Tam muội mà chẳng nhập Niết Bàn. Nếu chẳng có chánh giác gia trì thì như Nhị Thừa tự yên ổn, chẳng thể trọn vẹn bằng Đại Như Lai, mà tự chứng Niết Bàn, xả bỏ tất cả chúng sanh, chẳng vì chúng sanh thuyết pháp hữu vi để dần dần dẫn dắt chúng sanh vào tri kiến Như Lai (3) thì Phật chủng ấy phải đoạn dứt. Chư Phật Thế Tôn vì muốn khiến Nhị Thừa nối tiếp Phật Chủng, nên hiển thị vô lượng công đức bất khả tư nghì của Như Lai, nhưng hàng Thanh Văn, Duyên Giác ham trụ sự vui của Tam muội chẳng chịu hồi tâm tiến lên Đại thừa, lại tự cho là đã chứng Niết Bàn”.

 

     Nghĩa là Bồ Tát bậc 8, ch đạt định (đắc Tam muội) so với Thanh Văn, Duyên Giác dù hơi giống nhau, nhưng Bồ Tát có sự thấu suốt hướng dẫn (chính giác gia trì), nên dù có sự vui của Tam muội mà chẳng nhập Niết Bàn. Nếu chẳng có chính giác gia trì thì như Nhị Thừa tự yên ổn, chẳng thể trọn vẹn bằng Chư Phật (Đại Như Lai), mà tự chứng Niết Bàn, rời bỏ tất cả chúng sinh. Chẳng vì chúng sinh thuyết pháp tất cả các dính mắc về nhân duyên tạo tác trong dục giới, sắc giới, vô sắc giới, đều sinh diệt, đều vô thường và khổ (hữu vi) để dẫn dắt chúng sinh vào cái thấy biết thuần tịnh hằng soi sáng (tri kiến Như Lai), thì hạt mầm Phật (Phật chủng) ấy không sinh khởi (đoạn dứt). Chư Phật vì muốn khiến Nhị Thừa nối tiếp Phật chủng, nên hiển thị vô lượng công đức không thể nghĩ bàn (bất khả tư nghì) của Như Lai, nhưng hàng Thanh Văn, Duyên Giác ham sự vui của định (Tam muội) chẳng chịu hồi tâm tiến lên, lại tự cho là đã chứng Niết Bàn.

 

     Ngài bảo tiếp: “4- Đại Huệ! Ta sở dĩ nhấn mạnh bộ phận "Thất Địa" là muốn hành giả khéo tu phương tiện, xa lìa các tướng tâm, ý, ý thức và kiến chấp ngã, ngã sở, nhiếp thọ nhơn vô ngã, pháp Vô Ngã và Biện tài Tứ vô ngại (4), đắc sức quyết định nơi Tam Muội Môn, từ những đạo phẩm tương tục từ trước đến đây lần lượt tiến lên Bát Địa cho đến Thập Địa. Vì e sợ các Bồ Tát chẳng khéo liễu tri tự tướng cộng tướng (5) và sự thứ lớp tương tục của chư Địa mà đọa nơi ác kiến (6) của ngoại đạo, nên kiến lập thứ lớp của chư Địa. Đại Huệ! Ngoại trừ tự tâm hiện lượng (7), thật chẳng có pháp sanh pháp diệt, chư Địa thứ lớp tương tục và đoạn đứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc rơi vào tam giới, chỉ vì phàm phu chẳng giác ngộ, nên Ta và chư Phật thuyết chư Địa thứ lớp tương tục và thuyết pháp đoạn dứt mỗi mỗi hạnh mê hoặc nơi tam giới”.

 

     Nghĩa là Đức Phật sở dĩ nhấn mạnh hàng Bồ Tát bậc 7 là muốn hành giả khéo tu phương tiện, xa lìa các tướng các hiện tượng vạn vật thế giới (tâm), diệt khởi niệm liên tục (ý), trừ so đo phân biệt tương tục (ý thức) hư vọng và dứt chấp thật cái ta (ngã), cái của ta (ngã sở). Thụ nhận (nhiếp thọ) con người không có chủ thể thường hằng (nhân vô ngã), vạn vật vạn pháp không có thực thể của cái ta, không có thực tính của nó, tất cả do nhân duyên sinh và tồn tại (pháp Vô Ngã). Và thọ nhận Bốn Biện tài vô ngại, đạt sức định nơi chính định (Tam Muội), từ những đạo phẩm tương tục từ trước đến đây lần lượt tiến lên Bồ Tát bậc 8 cho đến bậc 10 (Thập Địa). Vì e sợ các Bồ Tát chẳng hiểu thấu (khéo liễu tri) tướng chung, tướng không giới hạn ở tự tướng, mà còn cộng thông với các pháp khác (tự tướng cộng tướng) và sự thứ lớp tương tục của các bậc (Địa) mà đọa nơi năm kiến chấp (ác kiến) của ngoại đạo, nên kiến lập thứ lớp của các bậc. Ngoại trừnhận biết chưa suy xét đã nhận thức đối tượng (tự tâm hiện lượng), thật chẳng có pháp sinh pháp diệt, các bậc thứ lớp tương tục và đoạn đứt mê lầm hoặc rơi vào Ba cõi (tam giới) Dục, Sắc, Vô sắc. Chỉ vì phàm phu chẳng giác ngộ, nên Ngài và chư Phật thuyết các bậc thứ lớp tương tục và thuyết pháp đoạn dứt mê lầm hoặc dính mắc nơi ba cõi.

 

Đức Phật dạy: “5- Lại nữa, Đại Huệ! Bồ Tát Đệ Bát Địa vì muốn diệt ham trụ sự vui nơi Tam muội của Thanh Văn, Duyên Giác, biết họ chẳng khéo giác tự tâm hiện lượng của tự tướng cộng tướng, bị rươu tập khí say mê sở chướng, đọa kiến chấp nhiếp thọ nhân pháp Vô Ngã, vọng tưởng cho là Niết Bàn, chẳng phải trí huệ tịch diệt của tự giác. Đại Huệ! Bồ Tát thấy sự vui của Tam Muội Môn tịch diệt, do bổn nguyện đại bi thành tựu thương xót chúng sanh, phân biệt liễu tri Thập Vô Tận Cú (8), chẳng trụ vọng tưởng Niết Bàn. Vì bậc họ biết vốn đã Niết Bàn, nên vọng tưởng chẳng sanh, lìa năng nhiếp sở nhiếp của vọng tưởng, giác liễu tự tâm hiện lượng nơi tất cả các pháp, vì vọng tưởng chẳng sanh nên chẳng đọa nơi tâm, ý, ý thức và tướng vọng tưởng chấp trước ngoài tánh của tự tánh. Đối với Phật pháp chẳng có cái nhân bất sanh, là tùy theo trí huệ mà sanh, nên chứng đắc Như Lai Tự Giác Địa”.

 

     Nghĩa là Bồ Tát bậc 8 vì muốn diệt ham trụ sự vui nơi định (Tam muội) của Thanh Văn, Duyên Giác, biết họ chẳng khéo nhận biết chưa suy xét đã nhận thức đối tượng (giác tự tâm hiện lượng) của tướng không giới hạn ở tự tướng, mà còn cộng thông với các pháp khác (tự tướng cộng tướng). Bị rượu thói quen (tập khí) do tham sân si làm cho say mê gây buồn khổ (phiền não chướng) và những gì học hỏi ngoài đời (sở tri chướng) (sở chướng), rơi vào kiến chấp nhiếp thọ nhân pháp Vô Ngã, vọng tưởng cho là Niết Bàn, chẳng phải trí huệ tịch diệt của tự giác. Bồ Tát thấy sự vui củađịnh tĩnh (Tam Muội) tịch diệt, do bản nguyện đại bi thành tựu thương xót chúng sinh, phân biệt đ hiểu rõ mười điều không hai của Chư Phật (liễu tri Thập Vô Tận Cú), chẳng trụ vọng tưởng Niết Bàn. Vì bậc họ biết vốn đã Niết Bàn, nên vọng tưởng chẳng sinh, lìa thu nhận và cái thu nhận (năng nhiếp sở nhiếp) của vọng tưởng, bỏ nhận biết phân biệt sai của khái niệm chưa suy xét (giác liễu tự tâm hiện lượng) nơi tất cả các pháp. Vì vọng tưởng chẳng sinh nên chẳng rơi vào dính mắc nơi tướng các hiện tượng vạn vật thế giới (tâm), chẳng khởi niệm liên tục (ý), chẳng so đo phân biệt tương tục (ý thức) hư vọng và tướng vọng tưởng chấp thật ngoài tính của bản th tâm (tự tánh), đối với Phật pháp chẳng có cái nhân bất sinh, là tùy theo trí huệ mà sinh, nên chứng đạt tri kiến bậc Phật (đắc Như Lai Tự Giác Địa).

 

Ngài dạy tiếp: “6- Như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, nhưng chưa qua đã thức, thức rồi suy nghĩ là chánh hay tà, hoặc phi chánh phi tà. Người ấy do tưởng nhớ mỗi mỗi tập khí của kiến văn giác tri (9) từ vô thỉ, nên ở mỗi mỗi hình xứ đọa tướng hữu và vô, thành có giấc mơ hiển hiện nơi tâm, ý, ý thức nên suy nghĩ như thế”.

 

     Đức Phật nêu ví dụ như người trong mộng dùng phương tiện qua sông, nhưng chưa qua sông đã thức, thức rồi suy nghĩ là thật hay giả (chính hay tà), hoặc chẳng thật chẳng giả. Người ấy do tưởng nhớ mỗi thói quen (tập khí) của thấy, nghe, tỉnh, biết (kiến, văn, giác, tri) từ vô thủy, nên ở mỗi hình tướngchấp (đọa) tướng có và tướng không, thành có giấc mơ hiển hiện nơi tướng các hiện tượng vạn vật thế giới (nơitâm), khởi niệm liên tục (nơiý), so đo phân biệt tương tục (nơiý thức) hư vọng, nên suy nghĩ như thế.

 

     Ngài kết luận: “7- Đại Huệ! Như thế, Đại Bồ Tát nơi Đệ Bát Địa thấy chỗ vọng tưởng sanh, từ Sơ Địa tiến đến Thất Địa, thấy tất cả pháp như huyễn, dùng phương tiện độ thoát cái tâm vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp xong, dùng phương tiện của Phật pháp khiến người chưa chứng đắc được chứng đắc. Đại Huệ! Đây là phương tiện chẳng đoạn đứt nơi Niết Bàn của Bồ Tát, lìa tâm, ý, ý thức, đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn. Đại Huệ! Nơi Đệ Nhất Nghĩa chẳng có thứ lớp tương tục, nói "Vọng tưởng Vô Sở Hữu" là pháp tịch diệt”.

 

     Nghĩa là như thế, Đại Bồ Tát bậc 8 (Đệ Bát Địa) thấy chỗ vọng tưởng sinh, Bồ Tát từ bậc 1 (Sơ Địa) tiến đến bậc 7 (Thất Địa) thấy tất cả pháp như huyễn, dùng phương tiện độ thoát cái tâm vọng tưởng năng nhiếp sở nhiếp xong, dùng phương tiện của Phật pháp khiến người chưa chứng đắc được chứng đắc. Đây là phương tiện chẳng đoạn đứt nơi Niết Bàn của Bồ Tát, lìa tướng các hiện tượng vạn vật thế giới (liàtâm), lià khởi niệm liên tục (liàý), lià so đo phân biệt tương tục (liàý thức) hư vọng, thể nhập lý vô sinh vô diệt (đắc Vô Sinh Pháp Nhẫn); nơi chân đế cao nhất, chân lí tuyệt đối (Đệ Nhất Nghĩa) chẳng có thứ lớp tương tục, nên nói “Vọng tưởng không chỗ trụ (Vô Sở Hữu) là pháp tịch diệt”.

 

3). NÓI KỆ VỀ DIỆT TẬN ĐỊNH:

(Còn tiếp)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com