Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 40. Kinh Lăng Già giải nghĩa

24/07/201920:31(Xem: 4152)
Bài 40. Kinh Lăng Già giải nghĩa

KINH LĂNG GIÀ

GIẢI NGHĨA

Toàn Không

(Tiếp theo)

7). TÁNH VÔ SINH:

     Đại Huệ Bồ Tát lại bạch Phật rằng:

- Như Thế Tôn sở thuyết, tất cả tánh Vô Sinh như huyển, vậy chẳng phải pháp sở thuyết của Thế Tôn trước sau trái nhau ư; sao nói Vô Sinh tánh như huyển?

     Phật bảo Đại Huệ:

- Chẳng phải ta nói "Vô Sanh tính như huyển" có lỗi trước sau trái nhau, tại sao nói sinh mà vô sinh? Là dùng để giác hiện lượng nơi tự tâm, nói hữu phi hữu, ngoài tánh phi tánh, là phương tiện để hiện pháp Vô Sinh, chẳng phải cái thuyết của ta có lỗi trước sau trái nhau, vì bác bỏ cái thuyết nhân sinh của ngoại đạo, nên Ta thuyết tất cả tánh vô sinh. Đại Huệ! Ngoại đạo si mê muốn cho hữu và vô hữu đều thật, vì chẳng biết do tự tâm vọng tưởng chấp trước đủ thứ nhân duyên mà sinh.

- Đại Huệ! Ta dùng cái thuyết Vô Sinh để thuyết, vì phá cái chấp hữu và vô. Đại Huệ! Ta thuyết tánh âm thanh (thanh giáo), là vì đệ tử Ta tạo đủ thứ nghiệp mà nhiếp thọ sinh tử, và phá những người chấp vô kiến, đoạn kiến. Đại Huệ! Vì phàm phu đọa ác kiến hy vọng, chẳng biết tự tâm hiện lượng, vì khiến họ lìa các tướng tánh của tự tánh, nên thuyết tướng các pháp như huyển; vì phá tướng chấp trước do nhân duyên sinh khởi của họ, nên nói tất cả pháp tướng tự tánh như mộng huyễn, là khiến lìa bỏ chấp trước ác kiến hy vọng tất cả pháp tự và tha, được thấy chỗ như thật, chẳng lập tà luận. Đại Huệ! Chỗ thấy tất cả pháp như thật là siêu việt tự tâm hiện lượng.

     Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Vô tác, tánh vô sinh,

Chấp tánh nhiếp sinh tử.

Quán sát pháp như huyễn,

Nơi tướng chẳng khởi vọng.

- Lại nữa, Đại Huệ! Đại Bồ Tát khéo quán danh thân, cú thân, hình thân. Vì Đại Bồ Tát khéo quán danh, cú, hình, nên thuyết tướng danh, cú, hình, theo đó vào nghĩa cú thân, hình thân, chóng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; tự giác như thế rồi, lại giác cho tất cả chúng sinh. Đại Huệ! Nói "DANH THÂN" là y sự lập danh, gọi là danh thân; nói "CÚ THÂN" là trong cú có nghĩa thân, để quyết định nghĩa cứu cánh của tự tánh, gọi là cú thân; nói "HÌNH THÂN" là hiển thị nghĩa của danh cú, gọi là hình thân. Lại, nói HÌNH THÂN, còn có nghĩa là dài ngắn cao thấp; nói CÚ THÂN, còn có nghĩa đường đi dấu vết, như đường đi dấu vết của voi, ngựa, người và thú v.v... Đại Huệ! Nói danh và hình, là dùng danh để hiển bày bốn ấm Vô Sắc (1) nên nói danh, vì hiện tự tướng nên nói hình, gọi chung là danh cú thân hình. Đối với ngằn mé của tướng danh cú thân hình cần nên tu học.

     Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

Danh thân với cú thân,

Và hình thân sai biệt,

Phàm phu vọng chấp trước,

Như voi mắc đầm lầy.

- Lại nữa, Đại Huệ! Người trí đời vị lai thông đạt nghĩa ta thuyết, dùng nghĩa lìa kiến chấp tướng nhất, dị, đồng, chẳng đồng v.v... hỏi người vô trí, thì họ đáp rằng : "Sự hỏi này chẳng đúng. Nói các sắc tướng thường hay vô thường, khác hay chẳng khác, ấy là chư hạnh của Niết Bàn, lập tướng sở tướng, y sở y, kiến sở kiến, tạo sở tạo, trần và vi trần, tu và kẻ tu v.v... tướng lần lượt so sánh". Thật ra, những câu của người trí hỏi kể trên, là vô ký và chỉ hý luận của Phật thuyết, có nghĩa thâm sâu, người si mê như họ chẳng thể biết, vì họ không đủ trí huệ nghe pháp vậy. Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác, vì khiến họ lìa sự kinh sợ, nên nói pháp Vô Ký và Chỉ Ký, cũng vì phá nhị kiến luận của ngoại đạo, chứ chẳng phải không thuyết.

- Đại Huệ! Cái thuyết của ngoại đạo, nói mạng tức là thân, những lời nói như thế mới là Vô Ký luận. Đại Huệ! Các ngoại đạo ngu si, nơi nhân lập Vô Ký Luận, chứ chẳng phải sở thuyết của Ta. Đại Huệ! Sở thuyết của Ta lìa năng nhiếp, sở nhiếp, chẳng sinh vọng tưởng, chỉ để phá những kiến chấp của họ; Đại Huệ! Vì họ chấp trước năng nhiếp, sở nhiếp, chẳng biết tự tâm hiện lượng, nên phá sự chấp trước của họ; Đại Huệ! Như Lai Ứng Cúng Đảng Chánh Giác, dùng bốn thứ ký luận vì chúng sanh thuyết pháp; Đại Huệ! Ta thường thuyết Chỉ Ký Luận, là vì người căn chưa thuần thục mà thuyết, chẳng phải vì người căn đã thuần thục thuyết.

- Lại nữa, Đại Huệ! Tất cả pháp lìa nhân duyên sở tác, nghĩa là Vô Sinh, vì chẳng có kẻ tác, nên tất cả pháp Vô Sinh; tại sao tất cả pháp lìa tự tánh? Vì lúc tự khởi giác quán thấy tướng của tự tánh cộng tánh đều bất khả đắc, nên nói tất cả pháp Vô Sinh; tại sao tất cả pháp chẳng thể đem lại chẳng thể đem đi? Vì tự tướng cộng tướng bất khả đắc, nên muốn đem lại không có gì để đem lại, muốn đem đi không có gì để đem đi, do đó nói tất cả pháp lìa đem lại đem đi; tại sao tất cả pháp chẳng diệt? Vì chẳng có tánh tướng của tự tánh, thì tất cả pháp bất khả đắc, nên tất cả pháp chẳng diệt; Đại Huệ! Tại sao tất cả pháp vô thường? Vì tướng sinh khởi chẳng có tánh thường, nên nói tất cả pháp vô thường; tại sao nói tất cả pháp thường? Vì tánh vô sinh chẳng có tướng sinh khởi, nên vô thường là thường, do đó nói tất cả pháp thường.

     Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:

1. Ký luận có bốn thứ (2):

Nhất hướng, phản cật vấn.

Phân biệt và chỉ luận,

Để đối trị ngoại đạo.

2. Thầy Số Luận (3) Thắng Luận

Hiển thị như thế này:

Pháp hữu và phi hữu,

Tất cả đều vô ký.

3. Nếu chánh giác phân biệt,

Tự tánh bất khả đắc.

Vì lìa nơi ngôn thuyết,

Nên nói lìa tự tánh.

 

GIẢI NGHĨA:

(1) Bốn thứ vô sắc: Thân là sắc, tâm thì vô sắc gồm bốn thứ là: Thụ, Tưởng, Hành, Thức.

(2) KÝ LUẬN (Chỉ ký luận) Có 4 thứ: Phật Thích Ca vì phá chấp của ngoại đạo, có bốn cách đáp sự vấn nạn họ:

1- Nhất Hướng: Khẳng định đáp.
2- Phản Cật Vấn: Hỏi ngược lại.
3- Phân biệt: Bất định đáp: Đáp cả hai mặt.
4- Chỉ Luận: Im lặng đáp, tức là lương cửu.

(3) SỐ LUẬN : Do môn đồ của ngoại đạo Tóc Vàng kiến lập, nói Số là số lượng để đo lường trí huệ, từ Số mà sinh khởi Luận, luận cũng hay sinh ra Số, nên gọi là Số Luận; người tạo ra Số Luận và người học Số Luận gọi là Số Luận Sư.

 

     Đoạn 7, Mục 8, Quyển 2, Bồ Tát Đại Huệ hỏi Phật rằng: “Như Thế Tôn thuyết tất cả tánh Vô Sinh như huyển, vậy chẳng phải pháp thuyết của Thế Tôn trước sau trái nhau sao? Tại sao nói Vô Sinh tánh như huyển?

 

     Đức Phật giải thích đại ý rằng: Chẳng phải Ngài nói "Vô Sinh tính như huyển" có lỗi trước sau trái nhau, tại sao nói sinh mà vô sinh? Là dùng để nhận thức tâm nhận biết chưa suy xét đã nhận thức đối tượng (giác hiện lượng) nơi tự tâm; nói Có Chẳng Có (hữu phi hữu), ngoài ý niệm một bản tính cố hữu là một nhận thức sai lầm (ngoài Tánh phi Tánh), là phương tiện để hiện pháp Vô Sinh. Chẳng phải cái thuyết của Ngài có lỗi trước sau trái nhau, mà vì bác bỏ cái thuyết “Nhân sinh” của ngoại đạo, nên Ngài thuyết tất cả tính không sinh. Ngoại đạo si mê, vì họ chẳng biết do tự tâm vọng tưởng chấp thật các nhân duyên sinh, nên họ muốn cho Có và Không đều thật, là chẳng đúng.

 

     Đức Phật dùng cái thuyết “Không Sinh” để nói, vì phá cái chấp Có và Không, phá chấp vô kiến, đoạn kiến; Ngài thuyết tính âm thanh (thanh giáo), là vì đệ tử tạo đủ thứ nghiệp mà phải thu nhận (nhiếp thọ) sinh tử. Vì phàm phu rơi vào (đọa) ác kiến mong muốn (hy vọng), chẳng biết nhận thức tâm nhận biết chưa suy xét đã nhận thức đối tượng (tự tâm hiện lượng). Vì khiến họ lìa các tướng tính của bản tâm (tự tánh), nên thuyết tướng các pháp như huyển; vì phá tướng chấp thật do nhân duyên sinh khởi của họ, nên nói tất cả pháp tướng tự tính như mộng huyển. Ngài muốn khiến họ lìa bỏ chấp thật thấy sai (ác kiến) và tất cả pháp tự và tha, chẳng lập tà luận, được thấy chỗ như thật; chỗ thấy tất cả pháp như thật là chỗ vượt khỏi (siêu việt) tâm nhận biết chưa suy xét đã nhận thức đối tượng (tự tâm hiện lượng) để được thấy sự vật đúng như chúng là.

     Khi ấy, Đức Phật lập lại nghĩa này nên nói kệ đại ý rằng: Không tạo tác thì không sinh sự việc, không sinh sự việc thì không có tính của sự việc sinh, chấp tính thật sẽ nhận sinh tử; hãy quán sát các pháp đều như huyển, và nơi các tướng chẳng nên khởi vọng.

     Đức Phật giảng tiếp rằng hàng Bồ Tát nên khéo quán Danh Thân, Cú Thân, Hình Thân như sau:

1- DANH THÂN:

     Danh là tên gọi, Thân là thân thể, một vật, một sự việc; Danh Thân là y nơi sự việc mà lập tên, là tên khác biệt các sự vật sai biệt, nương theo các pháp để tạo tác thì gọi là Danh Thân.

2- CÚ THÂN:

     Cú là câu trong một đoạn, Cú Thân là quyết định cứu cánh thấy nghĩa như vậy, trong cú có nghĩa thân, để quyết định nghĩa cứu cánh rốt ráo của bản tâm (tự tánh); còn có nghĩa đường đi dấu vết, như đường đi dấu vết của voi, ngựa, người và thú v.v...  gọi là Cú Thân.

3- HÌNH THÂN:

     Là hiển thị nghĩa của Danh Cú, còn có nghĩa là dài ngắn cao thấp v.v... gọi là Hình Thân.

     Nói Danh và Hình, là dùng Danh để hiển bày bốn ấm Thọ, Tưởng, Hành, Thức (Vô Sắc) nên nói Danh, vì hiện tự tướng nên nói Hình, gọi chung là Danh Cú Hình Thân.

     Đức Phật muốn hàng Bồ Tát khéo quán “Danh, Cú, Hình”, nên thuyết “Tướng Danh, Cú, Hình”, theo đó vào nghĩa Danh Thân, Cú Thân, Hình Thân, chóng đắc Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Tự giác như thế rồi, lại giáo hóa tất cả chúng sinh cho được giác ngộ (giác tha), đối với giới hạn (ngằn mé) của “Tướng Danh, Cú, Hình Thân” cần nên tu học.

     Khi ấy, Thế Tôn lập lại nghĩa này mà nói kệ đại ý rằng: Phàm phu vì phân biệt vọng tưởng chấp thật sai biệt “Danh thân, Cú thân, và Hình thân”, giống như voi mắc đầm lầy không ra khỏi.

     Đức Phật giảng rằng: “Người trí đời vị lai thông đạt nghĩa ta thuyết, dùng nghĩa lìa kiến chấp tướng nhất, dị, đồng, chẳng đồng v.v... Hỏi người vô trí, thì họ đáp rằng: "Sự hỏi này chẳng đúng. Nói các sắc tướng thường hay vô thường, khác hay chẳng khác, ấy là chư hạnh của Niết Bàn, lập tướng sở tướng, y sở y, kiến sở kiến, tạo sở tạo, trần và vi trần, tu và kẻ tu v.v... tướng lần lượt so sánh". Nghĩa là người trí đời vị lai thông đạt nghĩa Ngài thuyết, hiểu nghĩa xa lìa chấp tướng một hay khác, giống hay chẳng giống (nhất, dị, đồng, chẳng đồng) v.v... Nếu hỏi người vô trí về những sự việc này, thì họ đáp rằng: “Sự hỏi này chẳng đúng; nói các sắc tướng thường hay vô thường, khác hay chẳng khác, đây là hạnh của Niết Bàn, lập tướng nơi tướng (sở tướng), dựa vào chỗ dựa (y sở y), thấy nơi chỗ thấy (kiến sở kiến), tạo tác ch tạo tác, trần và vi trần, tu và kẻ tu v.v...”, đây là lần lượt so sánh tướng. Thật ra, những câu của người trí là không xác quyết (vô ký) và có nghĩa sâu xa của Phật thuyết, người si mê chẳng thể biết, vì họ không đủ trí huệ nghe pháp vậy. Đức Phật vì muốn khiến họ lìa bỏ sự sợ hãi, nên nói pháp không xác quyết (Vô Ký) và xác định đáp, hỏi ngược lại đáp, đáp 2 mặt, im lặng đáp (Chỉ Ký), cũng vì phá chấp hai bên (nhị kiến luận) của ngoại đạo, chứ chẳng phải không thuyết.

     Đức Phật lại giảng đại ý rằng: Cái thuyết của ngoại đạo, nói mạng tức là thân, những lời nói như thế mới là Vô Ký luận. Các ngoại đạo si mê, nơi nhân lập Vô Ký Luận, chứ chẳng phải sở thuyết của Ngài. Sở thuyết của Ngài lìa sự thu nhận nơi chỗ thu nhận (năng nhiếp, sở nhiếp), chẳng sinh vọng tưởng, chỉ để phá những chấp của họ; vì họ chấp thật chẳng biết nhận thức tâm nhận biết chưa suy xét đã nhận thức đối tượng (tự tâm hiện lượng), nên phá sự chấp thật của họ. Ngài dùng bốn thứ ký luận vì chúng sinh thuyết pháp, đặc biệt Ngài thường nói xác định đáp, hỏi ngược lại đáp, đáp hai mặt, và im lặng không nói để đáp (Chỉ Ký Luận), là vì người căn chưa thuần thục mà thuyết, chẳng phải vì người căn đã thuần thục vậy.

 

     Đức Phật giảng tiếp: Tất cả các pháp lìa chỗ tạo tác của nhân duyên, vì chẳng có kẻ làm ra, nên tất cả pháp Không Sinh (Vô sinh). Ngài đặt một số câu hỏi và giảng như sau:

1- Tại sao tất cả pháp lìa tự tánh?

     Vì lúc khởi giác quán thấy tự tâm vọng tưởng chấp có cái thể tướng đặc thù bản tính cộng thông với tính các pháp khác (tướng của tự tánh cộng tánh) đều không thể được (bất khả đắc), nên nói “tất cả pháp Vô Sinh”.

2- Tại sao tất cả pháp chẳng thể đem lại, chẳng thể đem đi?

     Vì tướng riêng cộng thông với các tướng khác chẳng thể đạt (tự tướng cộng tướng bất khả đắc), nên muốn lấy (đem lại) không có gì để lấy, muốn bỏ (đem đi) không có gì để bỏ, do đó nói “tất cả pháp lìa lấy bỏ (thủ xả: đem lại đem đi).

3- Tại sao tất cả pháp chẳng diệt?

     quan sát tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp không có thể tướng, bản tâm (tự tánh) chẳng có tính cũng chẳng có tướng, nên chẳng có tất cả pháp (tất cả pháp bất khả đắc), do đó tất cả pháp chẳng diệt”.

4- Tại sao tất cả pháp vô thường?

     Do tất cả các pháp vô thường mà tưởng là thường, vì tướng sinh khởi nhờ nhân duyên chẳng có tính thường, nên nói “tất cả pháp vô thường”.

5- Tại sao nói tất cả pháp thường?

     tướng chẳng sinh, do tính vô sinh chẳng có tướng sinh khởi, không có tướng sinh khởi thì không diệt, nên là thường, do đó nói tất cả pháp thường”.

     Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói kệ với ý rằng: Ký luận dùng để đối trị ngoại đạo, gồm có bốn thứ:

1. Khẳng định đáp.

2.  Hỏi ngược lại đáp.
3. Đáp cả hai mặt.

4. Im lặng đáp.

     Số Luận, Thắng Luận hiển thị pháp có và không, tất cả đều vô ký; nếu bậc Chính Giác phân biệt thì Tâm (Tự tánh) chẳng thể đạt (bất khả đắc), vì lìa nơi ngôn thuyết, nên nói lìa tâm vậy.

 (Còn tiếp)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com