Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 27. Kinh Lăng Già giải nghĩa

27/04/201911:21(Xem: 4192)
Bài 27. Kinh Lăng Già giải nghĩa

KINH LĂNG GIÀ

GIẢI NGHĨA

Toàn Không

(Tiếp theo)

 

MỤC 7:

PHÁP TÁNH KHÔNG:

 

     Khi ấy, Đại Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng: Cúi xin Thế Tôn vì chúng con thuyết tất cả pháp tánh không, lìa tướng tự tánh vốn Vô Sinh bất nhị, khiến chúng con và chư Bồ Tát giác ngộ, lìa hai thứ vọng tưởng Có và Không, Vô Sinh, bất nhị và lìa tướng tự tánh.

1). BẢY THỨ KHÔNG:

     Đức Thế Tôn bảo:

- Đại Huệ! Nói sơ lược có bảy thứ không là: Tướng không (1), tự tánh không (2), hành không, vô hành không, tất cả pháp lìa ngôn thuyết không, Đệ Nhất Nghĩa Thánh Trí Đại không và Bỉ bỉ không.

1- Thế nào là TƯỚNG KHÔNG? Ấy là tự tướng cộng tướng của tất cả pháp không, vì tướng tự tha và cộng đều chẳng thể sinh, do vọng tưởng phân biệt đối đãi với nhau tích tụ mới có. Nếu quán sát phân tích thì cứu cánh là vô tánh, vì vô tánh nên tánh chẳng trụ, nên nói tất cả tánh tướng không, gọi là Tướng Không.

2- Thế nào là TÁNH TỰ TÁNH KHÔNG? Ấy là tự tánh của chính mình vốn Vô Sinh, tức là tự tánh của tất cả pháp không, nên nói Tánh của Tự Tánh Không.

3- Thế nào là HÀNH KHÔNG? Ấy là hành ấm lìa ngã, Ngã sở, do tác nghiệp sở thành, nghĩa là từ nhân duyên hòa hợp mà sinh, ấy gọi là Hành Không.

4- Thế nào là VÔ HÀNH KHÔNG? Duyên nhau sinh khởi theo Hành Không như thế này, tự tánh vốn vô tánh, ấy gọi là Vô Hành Không.

5- Thế nào là TẤT CẢ PHÁP LÌA NGÔN THUYẾT KHÔNG? Vì vọng tưởng tự tánh chẳng có ngôn thuyết nên tất cả pháp lìa ngôn thuyết, ấy gọi là Tất Cả Pháp Lìa Ngôn Thuyết Không.

6- Thế nào là TẤT CẢ PHÁP ĐỆ NHẤT NGHĨA THÁNH TRÍ ĐẠI KHÔNG? Vì người đắc Tự Giác Thánh Trí thì tất cả kiến chấp tập khí đều không, ấy gọi là Tất Cả Pháp Đệ Nhất Nghĩa Thánh Trí Đại Không.

7- Thế nào BỈ BỈ KHÔNG? Nghĩa là ở nơi kia chẳng có cái không kia, gọi là Bỉ Bỉ Không. Đại Huệ! Ví như người mẹ của Lộc Tử là nữ cư sĩ Tỳ Xá, vì xây dựng Tịnh xá cho Tỳ Kheo ở, chẳng nuôi voi, ngựa, trâu, dê v.v... Nay nói Bỉ Không, chẳng phải nơi kia không có chúng Tỳ Kheo, cũng chẳng phải Tịnh xá trống rỗng không, cũng chẳng phải Tỳ Kheo tánh không, cũng chẳng phải chỗ khác không có voi, ngựa, nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, cái kia, ở nơi kia chẳng có cái kia, ấy gọi là Bỉ Bỉ Không. Nói chung trong bảy thứ Không, Bỉ Bỉ Không là cái không rất thô, ngươi nên xa lìa.

GIẢI NGHĨA:

(1) Tướng không:  Vô tướng: S, P: animitta; Sự vô tướng, tính Không (s: śūnyatā) của tất cả các Pháp (s: dharma), dấu hiệu của tuyệt đối không phân biệt.

(2) Tánh không: Không tính:  S: śūnya (tính từ), śūnyatā (danh từ), nghĩa là trống rỗng; một quan niệm quan trọng cao siêu và trừu tượng nhất của đạo Phật, trong đó mọi sự vật đều là giả hợp, coi như không có nên trống rỗng.

 

     Đức Phật giảng 7 thứ Không, đại ý là:

1. TƯỚNG KHÔNG:

     Là bản thể của tất cả các pháp tướng riêng và chung (tự tướng cộng tướng) đều không, vì hình dạng của các pháp chẳng thể tự nó sinh, chẳng thể sinh ra bởi cái khác, chẳng thể cùng với cái khác sinh ra (tướng tự, tha và cộng đều chẳng thể sinh), mà do vọng tưởng phân biệt đối đãi với nhau tích tụ mới có. Nếu quán sát phân tích tướng thì rốt cuộc (cứu cánh) là tính chẳng thật (vô tánh), vì tính chẳng thật nên tính chẳng hiện diện (chẳng trụ), nên nói tất cả tính tướng không, gọi là “Tướng Không”.

2. TÁNH TỰ TÁNH KHÔNG:

     Là bản thể tâm của chính mình vốn Không sinh, là bản thể của pháp có vật hoặc không vật, tự thể tướng chân thật; là bản thể của tất cả các pháp vốn Không sinh, tức là bản thể (tự tánh) của tất cả pháp đều Không, nên nói “Tánh Tự Tánh Không”.

3. HÀNH KHÔNG:

     Là Hành ấm lìa cái ta và cái của ta (ngã, ngã sở), vì nương vào nhân tạo tác của nghiệp mà khởi, do nghiệp lực tác động mà có hành (tác nghiệp sở thành), nghĩa là nghiệp gây nên nhân duyên hòa hợp mà sinh, chứ không phải do hành mà có tạo tác, đây gọi là “Hành Không”.

4. VÔ HÀNH KHÔNG:

     Chẳng phải có hành hay không hành, vì tất cả đều do nghiệp gây nên nhân, duyên nhau sinh khởi Hành Không hoặc Vô Hành Không, vì bản thể tâm (tự tánh) vốn Không tính, Niết Bàn vốn không tạo tác (không hành), đây gọi là “Vô Hành Không”.

 

5. TẤT CẢ PHÁP LÌA

NGÔN THUYẾT KHÔNG:

 

     Vì bản thể tâm vọng tưởng (vọng tưởng tự tánh) chẳng có ngôn thuyết, tức là các pháp chẳng phải từ ngôn thuyết hay không ngôn thuyết, nên tất cả pháp lìa ngôn thuyết, đây gọi là “Tất Cả Pháp Lìa Ngôn Thuyết Không”.

 

6. TẤT CẢ PHÁP ĐỆ NHẤT

NGHĨA THÁNH TRÍ KHÔNG:

 

     Vì người đắc Tự Giác Thánh Trí thì tất cả kiến chấp thói quen (tập khí) đều không, nghĩa là tự thân chứng Thánh trí pháp không, lìa khỏi các tà kiến huân tập, đây gọi là “Tất Cả Pháp Đệ Nhất Nghĩa Thánh Trí Đại Không”.

7. BỈ BỈ KHÔNG:

     Nghĩa là ở nơi kia chẳng có cái không kia, tức là ở nơi kia pháp kia Không pháp này Có, hoặc pháp kia Có pháp này Không, vì vậy nên nói là Bỉ Bỉ Không. Đức Phật nêu ví dụ người mẹ của Lộc Tử là nữ Cư sĩ Tỳ Xá, vì xây dựng Tịnh xá cho Tỳ Kheo ở, chẳng nuôi voi, ngựa, trâu, dê v.v... Nay nói Bỉ Không, chẳng phải nơi kia không có chúng Tỳ Kheo, cũng chẳng phải Tịnh xá trống rỗng không, cũng chẳng phải Tỳ Kheo tính không, cũng chẳng phải chỗ khác không có voi, ngựa; nghĩa là bản chất (tự tướng) của tất cả pháp, cái kia, ở nơi kia chẳng có cái kia, ấy gọi là Bỉ Bỉ Không. Tóm lại, ý Đức Phật dạy là bản tính (tự tánh) của tất cả các Pháp đều là Không; nói chung trong bảy thứ Không, Bỉ Bỉ Không là cái không thô, ngưi tu nên xa lìa chấp Có chấp Không.

 

2). PHÁP VÔ SINH, BẤT NHỊ,

    LÌA TƯỚNG TỰ TÁNH.

 

     Sao gọi Pháp Vô Sinh (1), pháp Bất Nhị (2), pháp lìa tướng tự tánh?

- Đại Huệ! Nói CHẲNG TỰ SiNH chẳng phải Vô Sinh, ngoài trụ chính định ra, gọi là Vô sinh, nghĩa là lìa tự tánh tức là Vô Sinh. Sự lưu chú (3) tương tục từng sát na vốn lìa tự tánh và tánh dị thục (lúc sau chín mùi) hiện ra tất cả tánh đều lìa tự tánh, cho nên nói tất cả tánh lìa tự tánh.

- Sao nói BẤT NHI? Vì tất cả pháp như âm, dương, dài, ngắn, trắng, đen v.v... đều là nhị, vì các tướng làm nhân với nhau mới có, chẳng phải ngoài Niết Bàn có sanh tử, chẳng phải ngoài sanh tử có Niết Bàn, sanh tử Niết Bàn chẳng có tướng trái nhau: tất cả pháp cũng như thế, nên gọi là Bất Nhị. Cho nên pháp Không, pháp Vô Sanh, pháp Bất Nhị, pháp lìa tướng tự tánh cần nên tu học.

     Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ:

Ta thường nói pháp Không,

Xa lìa nơi đoạn thường.

Sanh tử như mộng huyễn,

Mà nghiệp tánh chẳng hoại.

Hư không và Niết Bàn,

Tịch diệt cũng như thế.

Phàm phu chấp vọng tưởng,

Bậc Thánh lìa hữu vô.

     Khi ấy, Thế Tôn lại bảo Đại Huệ rằng:

- Đại Huệ! pháp Không, pháp Vô Sanh, pháp Bất Nhị, pháp lìa tự tánh v.v... đều có ghi vào kinh giáo của Phật, tất cả kinh điển đều thuyết nghĩa này; vì tùy thuận tâm hy vọng của chúng sanh mà phương tiện phân biệt thuyết để hiển bày nghĩa lý chẳng phải ở nơi ngôn thuyết có sự chân thật. Như bầy nai khát nước, mê hoặc đuổi theo dương diệm (ánh nắng mặt trời phản chiếu) cho là nước, nhưng dương diệm chẳng phải nước thật; các pháp sở thuyết của Phật ghi trong kinh điển cũng như thế. Vì muốn khiến phàm phu phát tâm hoan hỷ, tinh tấn tu hành, chẳng phải có Thánh Trí thật ở nơi ngôn thuyết; cho nên phải nương theo nghĩa, chớ chấp ngôn thuyết.

GIẢI NGHĨA:

(1) Pháp vô sinh: Vô sinh tức vô thủy, vô thủy tức vô sinh, như con gà với trứng gà đều chẳng có sự bắt đầu, tức là hiển bày nghĩa vô sinh, có hai nghĩa:

1. Thật tướng của các pháp không có sinh diệt, đồng nghĩa với vô sinh diệt, hoặc vô sinh vô diệt.

2. Sự tồn tại của các pháp vốn không có thật thể, do nhân duyên mà thành, là không, nên có thể nói rằng không có sinh diệt. Tuy nhiên, hạng phàm phu mê lầm lý vô sinh này, nên khởi lên phiền não về sinh diệt, vì vậy bị lưu chuyển sinh tử; nếu nương theo kinh luận, quán lý vô sinh thì có thể trừ được phiền não sinh diệt. 

(2) Bất nhị: S: advaya: Không hai, cũng là nghĩa vô trụ, chẳng có cái “hai” của tương đối mà cũng chẳng phải là “một”. Trong thế giới hiện tượng này sinh khởi đủ loại sự vật, hiện tượng, như âm dương, dài ngắn, trắng đen v.v... đều là hai, vì các tướng làm nhân với nhau mới có, chẳng phải ngoài Niết Bàn có sinh tử, chẳng phải ngoài sinh tử có Niết Bàn, sinh tử Niết Bàn chẳng có tướng trái nhau, tất cả pháp cũng như thế, nên gọi là “Bất Nhị”. Tuy nhiên, các cặp phạm trù đối lập này không có thực thể tồn tại độc lập, không cố định, mà trên cơ sở của Không (s: śūnya, p: suñña), Vô Ngã (s: nirātman, nairātmya, p: anattan), Bất Nhị là cách nói khác của Không về mặt quan hệ. 

(3) Lưu chú tương tục: Là dòng nước chảy chẳng ngừng, để nói pháp hữu vi sinh diệt từng sát na không dứt, hoặc phiền não vọng tưởng liên tục bất tận. Chỉ cho thế giới chủ quan khách quan biến hóa vô thường, âm thầm trôi chảy theo nhau không dứt; nếu có thể nhìn thẳng vào dòng thác tư duy suy nghĩ ấy mà cắt đứt được thì chứng đắc “trí viên minh”, đạt đến cảnh giới tự tại.

 

     Đoạn 2, Mục 7, Quyển 1 này, đại ý Đức Phật giảng về:

 

1. PHÁP VÔ SINH:

     Đức Phật giảng: “Sao gọi Pháp Vô Sinh? Nói CHẲNG TỰ SINH chẳng phải Vô Sinh, ngoài trụ chính định ra, gọi là Vô sinh, nghĩa là lìa tự tánh tức là Vô Sinh. Sự lưu chú (3) tương tục từng sát na vốn lìa tự tánh và tánh dị thục (lúc sau chín mùi) hiện ra tất cả tánh đều lìa tự tánh, cho nên nói tất cả tánh lìa tự tánh”. Nghĩa là các pháp chẳng phải không sinh mà là chẳng tự sinh, ngoài thiền quán chân chính để giữ tâm khỏi tán loạn, kiên cố nhiếp trì, lặng ngưng an trụ, nhất tâm tam muội, gọi là không sinh, tức là dứt bặt tâm (lià tự tánh) là Không Sinh. Pháp hữu vi sinh diệt từng sát na liên tục không ngừng vốn lià tâm và tính của qủa báo (tánh dị thục), cho nên nói tất cả tính lià tâm. 

 

2. PHÁP BẤT NHỊ:

     Ngài giảng tiếp: “- Sao nói BẤT NHI? Vì tất cả pháp như âm dương, dài ngắn, trắng đen v.v... đều là nhị, vì các tướng làm nhân với nhau mới có, chẳng phải ngoài Niết Bàn có sanh tử, chẳng phải ngoài sanh tử có Niết Bàn, sanh tử Niết Bàn chẳng có tướng trái nhau: tất cả pháp cũng như thế, nên gọi là Bất Nhị. Cho nên pháp Không, pháp Vô Sanh, pháp Bất Nhị, pháp lìa tướng tự tánh cần nên tu học”. Ở đây, Ngài giảng pháp đối đãi Không Hai (Bất Nhị), pháp lià tướng của tâm (tướng tự tánh) đã rõ ràng, xin miễn giải nghĩa.

 

     Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa mà thuyết kệ:

1. Ta thường nói pháp Không,

Xa lìa nơi đoạn thường.

Sanh tử như mộng huyễn,

Mà nghiệp tánh chẳng hoại.

2. Hư không và Niết Bàn,

Tịch diệt cũng như thế.

Phàm phu chấp vọng tưởng,

Bậc Thánh lìa hữu vô.

     Đại ý nói Đức Phật thường nói tất cả các pháp đều Không chân thật, nên xa lià chấp hai bên đối đãi như chấp đoan diệt thường hằng, chấp sinh tử, tất cả chỉ là giả như ảo mộng, nhưng tính của nghiệp thì chẳng hoại. Hư không và Niết Bàn cùng tịch diệt cũng như thế, phàm phu chấp thật sinh vọng tưởng, còn bâc Thánh không chấp nên lià bỏ có không

 

     Khi ấy, Thế Tôn lại bảo Đại Huệ rằng: “- Đại Huệ! pháp Không, pháp Vô Sanh, pháp Bất Nhị, pháp lìa tự tánh v.v... đều có ghi vào kinh giáo của Phật, tất cả kinh điển đều thuyết nghĩa này; vì tùy thuận tâm hy vọng của chúng sanh mà phương tiện phân biệt thuyết để hiển bày nghĩa lý chẳng phải ở nơi ngôn thuyết có sự chân thật. Như bầy nai khát nước, mê hoặc đuổi theo dương diệm (ánh nắng mặt trời phản chiếu) cho là nước, nhưng dương diệm chẳng phải nước thật; các pháp sở thuyết của Phật ghi trong kinh điển cũng như thế. Vì muốn khiến phàm phu phát tâm hoan hỷ, tinh tấn tu hành, chẳng phải có Thánh Trí thật ở nơi ngôn thuyết; cho nên phải nương theo nghĩa, chớ chấp ngôn thuyết”.

 

     Nghĩa là, tất cả pháp không sinh (Vô Sanh), tránh chấp đối đãi hai bên (bất nhị), lià tâm dính mắc (lià tự tánh); tất cả đều đã được Đức Phật nói trong Kinh giáo. Người tu không nên chấp lời, mà chỉ nên hiểu nghĩa theo đó tinh tấn tu hành, thì sẽ đạt Thánh trí vậy.

 (Còn tiếp)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com