Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Luận 02. Bát Nhã Với Những Biều Thị

05/04/202109:00(Xem: 6876)
Luận 02. Bát Nhã Với Những Biều Thị

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-556

 

III. PHẦN THỨ III TỔNG LUẬN:

 

TÁNH KHÔNG BÁT NHÃ

(Với những nguyên lý chỉ đạo của nó)

 

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

LUẬN #2.
BÁT NHÃ VỚI NHỮNG BIỀU THỊ hay

NHỮNG PHÁP NGHĨA HIỂN HIỆN CỦA NÓ.

 

 

 

Quyển 597, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI, ĐBN lại nói: “Bát nhã Ba la mật sâu xa không thể giảng nói, không thể trình bày, không thể hý luận. Bát nhã Ba la mật sâu xa không năng giảng nói, không năng trình bày, không năng hý luận. Nếu có thể dùng phương tiện biểu thị được như vậy tức là trình bày Bát nhã Ba la mật”.

Đạo không phải là tuyệt đối vô ngôn: Mặc dù không thể tuyên thuyết, mặc dù không thể trình bày, nhưng Bát Nhã vẫn chiếu soi, vẫn hiển bày nếu hành giả Bát Nhã biết tuân theo những chỉ dẫn của nó. Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 596, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo: “Ví như ánh sáng dù có trình bày rõ ràng nhưng không phải là thật pháp để nắm bắt. Tuy không thể nắm bắt nhưng vẫn có chiếu soi. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật tuy giả mượn văn cú nói ra nhiều cách, nhưng không phải là pháp chơn thật để nắm bắt. Tuy không thể nắm bắt nhưng vẫn chiếu soi các pháp”.

Bát Nhã thường xuyên nhắc nhở: Bát Nhã không phải là pháp khá hiển, khá chỉ rõ, không thể giảng nói luận bàn, không thể trình bày... trong toàn bộ ĐBN như đã nói ở trên. Nhưng nếu có thể “dùng phương tiện biểu thị được như vậy: Không thể hiển bày, không thể chỉ rõ, không thể diễn thuyết, không thể nói năng luận bàn. Nếu biểu thị được như vậy tức là trình bày, là giảng nói Bát Nhã.

 

Một đoạn Kinh khác phẩm “Tham Hành”, quyển 562, Hội thứ V, ĐBN. Phật bảo:

 “Thiện Hiện nên biết! Nghĩa xứ tương ưng với Bát Nhã sâu thẳm, đó là không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, chẳng phải có, tịch tĩnh, lìa nhiễm, Niết bàn, là pháp nghĩa hiển hiện”.

Tuy nói Bát Nhã không phải là pháp khá hiển, khá chỉ rõ, không thể giảng nói luận bàn, không thể trình bày v.v... Nhưng khi hiểu ra rằng Bát Nhã sâu thẳm là “không, vô tướng, vô nguyện, v.v... cho đến tịch tịnh, lìa nhiễm, Niết bàn”. Đó chính là pháp nghĩa hiển hiện của Bát Nhã. Khi hiểu tất cả pháp với các đặc tánh ấy tức là hiểu nghĩa xứ tương đương với Bát Nhã.

Vậy, vấn đề được đặt ra là nếu không hiểu rõ trực tiếp Bát Nhã, thì chỉ cần hiểu các biểu thị, hiểu các pháp nghĩa hiển hiện qua ngôn từ thí dụ như “không, vô tướng, vô nguyện, v.v... cho đến tịch tịnh, lìa nhiễm, Niết bàn” thì hiểu được các biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của Bát nhã Ba la mật. Muốn hiểu như thế thì tự mình phải đào xới bới dỡ để tìm hiểu các biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện đó. Nếu không hiểu chúng thì không thể học Bát Nhã.

 

1. Vũ trụ quan và Nhân sinh quan:

 

Để hiểu biết nhân sinh quan và vũ trụ quan Bát Nhã nói riêng và Đạo Phật nói chung, chúng tôi giới thiệu một đoạn Kinh mở đầu trong phẩm “Duyên Khởi”, quyển 01, ĐBN để chúng ta có thể hình dung thế giới và vũ trụ của chúng ta đang sống, dưới mắt của Thế Tôn trong 26 thế kỷ trước:

“... Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn ở trên tòa Sư tử, phóng hào quang đặc biệt, oai đức lớn lao, ánh sáng phủ khắp tam thiên đại thiên thế giới và cả vô số cõi Phật trong mười phương. Đức Phật dùng thần lực, hiện thân Phật cho tất cả hữu tình đều thấy được. Khi ấy, vô lượng vô số các vị trời ở cõi Tịnh Cư, trong thế giới tam thiên đại thiên này, đến các trời trong cõi Tứ Đại Thiên Vương ở cõi Dục và tất cả loài người chẳng phải người… đều thấy Như Lai ngồi trên tòa Sư tử, oai quang sáng rực như núi vàng lớn, vui mừng, khen chưa từng có; rồi cầm vô số các loại hoa trời, hương xoa, hương bột, y phục, ngọc anh lạc, tràng phan, lọng báu, nhạc cụ, các thứ ngọc, vô lượng các loại hoa sen trời đủ màu: Xanh, đỏ, trắng, hồng, và các hoa vàng bạc cõi trời, cõi người trên đất dưới nước, mang đến chỗ Phật, dâng rải lên Phật. Do thần lực Phật, các tràng hoa kia lần lượt tung lên không kết thành đài hoa, lọng hoa trời rũ xuống, nào là chuông quí, phan ngọc thêu dệt tỉ mỉ, đầy cả tam thiên đại thiên thế giới, rất dễ ưa thích. Khi ấy, cõi Phật này, trang nghiêm mầu nhiệm, giống như thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Hào quang của Phật chói sáng khắp mọi loài, hư không đều cùng một màu vàng rực. Các cõi trong vô số cõi Phật mười phương, cũng lại như thế.

Khi đó chư thiên thuộc 25 cảnh giới từ cõi Dục cho tới cõi Vô sắc, trong tam thiên đại thiên thế giới, mỗi vị đều có cảm tưởng như chính thân Phật ngồi trước mặt thuyết pháp cho riêng mình.

Bấy giờ, ở thế giới sau cùng của hằng hà sa số thế giới về phương Đông tên là Đa Bảo, đức Phật hiệu là Bảo Tánh, đang thuyết Đại Bát Nhã Ba La Mật cho chúng Bồ Tát. Trong hội đó có Bồ Tát tên là Phổ Quang thấy ánh sáng lớn, đại địa biến động và thân tướng của Phật Thích Ca Mâu Ni, trong lòng phân vân, nên đến chỗ Phật (Bảo Tánh) thưa: Bạch đức Thế Tôn! Do nhân duyên gì, mà có điềm lành này?

Khi ấy, đức Phật Bảo Tánh trả lời đại Phổ Quang Bồ Tát: Nầy Thiện nam tử! Ở phía Tây của cõi này, trải qua vô số thế giới, có thế giới tận cùng, tên là Kham Nhẫn, có Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni, Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác… hiện an trú tại đó, sắp nói pháp Đại Bát Nhã Ba La Mật cho chúng Bồ Tát. Do thần lực của Phật đó, mà hiện ra điềm lành này.

Phổ Quang nghe rồi, rất đỗi vui mừng, lại bạch Phật Bảo Tánh: Bạch Thế Tôn! Nay con xin đến thế giới Kham Nhẫn, để chiêm ngưỡng, lễ bái cúng dường đức Như Lai Thích Ca Mâu Ni và các chúng đại Bồ Tát, những vị đã đạt được sự hiểu biết thông suốt, thành thục các pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa, thần thông tự tại, lại ở thân sau cùng, bất cứ lúc nào cũng có thể kế thừa ngôi vị Phật. Cúi xin rũ lòng thương xót, chấp thuận cho!

Khi ấy, Phật Bảo Tánh bảo Bồ Tát Phổ Quang: Hay thay! Hay thay! Nay đã đúng lúc. Được, ông cứ đi!”

Ở đây không phải chúng tôi thuyết về duyên khởi, nguyên nhân của việc mở đầu cho cuộc thuyết pháp trường kỳ 22 năm về Bát nhã Ba la mật mà ở đây chúng tôi dùng đoạn Kinh này để giải thích về vũ trụ quan như sau:

 

1- Vũ trụ quan:

 

1/. Vũ trụ và thế giới:

Theo sự trần thuật của kinh thì từ thế giới tận cùng của “tất cả các cõi Phật ở phương Đông”, nghĩa là tất cả thế giới tận cùng phương Đông nằm trong cùng một thái dương hệ của Phật Bảo Tánh, có một vị Bồ Tát tên là Phổ Quang xin phép Phật của cõi mình đến thế giới ở phía Tây của cõi này, có thế giới tận cùng, tên là Kham Nhẫn, có đức Phật tên là Thích Ca Mâu Ni Như Lai để nghe thuyết Bát nhã Ba la mật. Theo sự mô tả này thì thế giới của Phật Thích Ca Mâu Ni lại nằm trong một thái dương hệ ở tận phương Tây của thế giới của Phật Bảo Tánh, và giữa hai thái dương hệ này, có hằng sa thảy các cõi nước khác. Kinh lại tả tỉ mỉ: “Quyến thuộc của Bồ Tát Phổ Quang” khi du hành từ Đông sang Tây có ghé qua các cõi nước hằng sa thảy giữa hai phương: “...mỗi mỗi chỗ Phật ở đều cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, không bỏ qua một cõi nào”. Đó là chỉ nói phương Đông, 9 phương khác cũng lại như thế.

Chúng ta có thể hình dung vũ trụ mà Phật đang sống thời bấy giờ (cùng một vũ trụ như chúng ta đang sống) theo sự trần thuật của Kinh, có không biết bao nhiêu là thế giới. Mỗi thế giới đó phải hiểu là nằm trong các thái dương hệ khác nhau trong 10 phương. Vũ trụ theo quan niệm của Phật giống như hình khối có 10 mặt, mỗi mặt là một phương và có cái trục chính giữa. Nhưng lấy gì làm chuẩn để nói đây là phương Đông, đây là phương Tây, đây là phương Trên, phương Dưới. Sở dĩ Phật Bảo Tánh nói cõi Phật Thích Ca Mâu Ni nằm ở hướng Tây vì Phật Bảo Tánh lấy phương Đông của cõi mình làm điểm gốc. Phật Thích Ca nói thế giới Phật đang giáo hóa chúng sanh nằm ở phía Nam Thiệm Bộ Châu trong thái dương hệ của chúng ta, không phải là phương Tây của vũ trụ. Nên chúng ta có thể suy luận thế giới chúng ta nằm trong một thái dương hệ và thế giới của Phật Bảo Tánh nằm trong một thái dương hệ khác. Cũng như vậy đối với thế giới 10 phương, giữa các phương có vô vàn thế giới không thể nói hết.

Vì vậy, theo Kinh có thể nói phương hướng của vũ trụ theo quan niệm nhà Phật vẫn còn nằm trong vòng bí mật đối với việc định hướng của chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là Phật thấy có nhiều thế giới ở khắp 10 phương khác nhau trong vũ trụ.

Thật khó có thể tưởng tượng nổi, cách đây hơn 26 thế kỷ khi thiên văn học chưa thành hình mà Phật có cái thấy biết như thế!

Tầm vóc vũ trụ rộng lớn như thế nào thì ngày nay không ai có thể ước định nổi và vũ trụ hình thành như thế nào cũng chưa có câu giải đáp thỏa mãn. Còn thế giới ra sao? Theo đạo Phật: Thế giới là đợn vị nhỏ của vũ trụ, là môi trường sinh hoạt hay còn gọi là sanh địa của hữu tình hay vô tình. Thế giới chỉ là hạt bụi trong vũ trụ vô biên. Một ngàn thế giới thì bằng một tiểu thiên, một ngàn tiểu thiên thì bằng một trung thiên, và một ngàn trung thiên hợp lại mới được một đại thiên. Hợp cả ba Tiểu, Trung và Đại thiên với nhau thì có tam thiên đại thiên thế giới. Vậy, một tam thiên đại thiên thì bằng 1 tỷ thế giới hợp lại. Vũ trụ không phải có chỉ có một tam thiên đại thiên thế giới mà có vô vàn tam thiên đại thiên thế giới trong tất cả 10 phương. Không ai có thể đếm nổi con số này kể cả sự tiến bộ của khoa học hôm nay!

Tốc độ của phi thuyền hôm nay(1a) so với tốc độ của ánh sáng (299.792,458 km/giây) quá kém. Khoảng cách giữa các ngân hà, thiên hà với quả địa cầu mà chúng ta đang sống cách nhau hằng trăm năm, hàng ngàn năm ánh sáng hay hơn nữa. Vậy, biết chừng nào nhân loại mới có thể chế tạo các phi thuyền không gian với tốc độ ánh sáng để có thể du hành quan sát các hành tinh ở phương khác trong vũ trụ hay các viễn vọng kính khổng lồ có thế thấy cái không gian vô tận này. Đó chỉ là ước mơ. Phải nói vũ trụ bao la, không gian vô tận, không thể nào tưởng tượng nổi! Kinh Phật bảo vũ trụ vô biên vô cùng rộng lớn không thể tưởng tượng nổi!

Còn Thế giới như thế nào? Với những khí cụ không gian rất giới hạn, nhân loại biết Thế giới là đơn vị nhỏ chẳng khác nào hạt cát trong vũ trụ. Kinh Phật bảo có hằng hà sa số thế giới như cát sông Hằng. Thế giới này bị hủy diệt thì có thế giới khác được thành lập. Hiện các học gia nghiên cứu không gian cho rằng các lỗ đen(black holes)trong dải thiên hà là nơi tạo thành những hành tinh mới.

Thế giới cũng như bất cứ pháp hữu vi đều phải chịu qui luật đào thải của những thành trụ hoại không, bởi các trận đại thủy, đại hỏa, đại phong tiêu diệt… Các thế giới bị hủy diệt tan ra từng mảnh vụn sẽ bị hấp lực của các lỗ đen thu hút vào trong cái gọi là “chân trời sự kiện” và từ đó tạo thành những vùng đất để cuối cùng có thể tạo thành các hành tinh mới. Hiện nay với các kính viễn vọng khổng lồ cho phép các khoa học gia tiên đoán có từ mười triệu đến một tỷ lỗ đen như vậy chỉ riêng trong dải Ngân hà.

 

2/. Phương hướng:

Vũ trụ dưới cái nhìn của Phật rộng lớn vô cùng tận, có 10 phương. Giữa các phương có hằng hà sa số thế giới như thế giới của chúng ta đang sống như đã nói ở trên. Nhưng phương hướng ở đây không giống với quy ước về phương hướng của thế giới chúng ta đang sống.

Phương hướng của thế giới trong thái dương hệ như chúng ta đang sống dĩ nhiên là khác với phương hướng của các thái dương hệ khác trong vũ trụ. Vì phương hướng của chúng ta tùy thuộc vào mặt trời(trong cùng một thái dương hệ).

Người thế gian lấy mặt trời trong thái dương hệ của mình làm phương hướng, nên nói mặt trời mọc ở phương Đông và lặn ở phương Tây. Lấy địa bàn hay sao Bắc đẩu để chỉ hướng Bắc. Nhưng nếu vượt ra khỏi thái dương hệ chúng ta đang sống, có không biết bao nhiêu mặt trời ở các thái dương hệ khác, do đó có biết bao là phương hướng khác nhau, vì ở các thái dương hệ khác làm gì có mặt trời mọc ở hướng Đông và lặn ở hướng Tây, làm gì có sao Bắc đẩu ở phương Bắc?

Trái đất xoay quanh mặt trời trong thái dương hệ. Thái dương hệ nằm trong hệ Ngân hà, Ngân hà nằm trong hệ Thiên hà và có vô số Thiên hà trong vũ trụ luôn di chuyển và biến dịch.

Với sự phát triển kỹ thuật về hỏa tiễn, các con thuyền không gian, các trạm không gian cũng như các viễn vọng kính tinh vi khổng lồ nằm trên quỹ đạo của trái đất, hay quỹ đạo của các hành tinh khác, ngành Thiên Văn Học hiện đại đã phát hiện ra số lượng vô cùng, vô cùng lớn các vì tinh tú nằm trong các dải ngân hà hay thiên hà v.v... Vậy, làm sao tả nổi phương hướng của những thế giới khác trong dải ngân hà hay thiên hà này?

Phật giáo cho phép ta hình dung vũ trụ như một khối thập giác. Tám mặt là 8 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông nam, Tây nam, Đông bắc, Tây bắc, thêm hai mặt nữa là mặt trên và mặt dưới tạo thành hai phương nữa là phương Trên và phương Dưới. Tổng cộng là 10 phương.

Nhưng lấy đâu làm chuẩn cho Đông, Tây, Nam, Bắc... trong cái không gian vô tận đó. Và dĩ nhiên, không ai có thể tìm ra qui ước trong cái vô tận này. Phật nói đến 10 phương của vũ trụ vì Phật lấy điểm tựa là cõi Nam Diêm Phù Đề(hay Nam Thiệm Bộ Châu nơi chúng ta đang sống)làm điểm gốc để từ đó suy ra các phương cõi khác. Chúng ta chỉ có thể suy đoán như vậy, chứ không thực chứng như vậy!

Còn không gian có bốn chiều hay tám chiều là điều chỉ thấy trên giấy trắng mực đen nên không bàn cãi ở đây. Đó là nói về không gian và vũ trụ với phương hướng của quả địa cầu mà chúng ta đang sống.

 

3/. Còn về thời gian thì sao?

Thời gian trong Phật đạo lại vô cùng phức tạp. Vì thời gian của Phật đạo không phải để chỉ cho sao, giây, phút, giờ, ngày, tháng, năm, kỷ nguyên v.v... như qui ước ngày nay. Khái niệm thời gian trong đạo Phật gắn liền với “ý nghĩa của sự sống”.

- Ở thời đại của chúng ta, thời gian là qui ước, bắt nguồn từ khi tia sáng mặt trời chiếu vào khe của viễn vọng kính Greenwich đặt tại một làng hẻo lánh bên Anh. Ngay lúc tia nắng chiếu thẳng góc vào kính viễn vọng, người ta thỏa thuận với nhau là 12 giờ GMT (Greenwich Mean Time, giờ quốc tế, dân Anh thỏa thuận thống nhất từ năm 1.855). Quả cầu được chia làm 15 độ giữa hai kinh tuyến tạo thành 24 múi giờ, mỗi múi tương đương một giờ. Gốc giờ GMT bắt đầu từ Greenwich. Trái đất xoay từ trái sang phải theo kim đồng hồ, cứ qua một múi, thì có một giờ. Trái đất quay hết một vòng chung quanh cái trục của chính nó, thì được 1 ngày (24 giờ), được các quốc gia trên thế giới áp dụng vào thế kỷ XIX. Trái đất xoay chung quanh nó và quay trên quỹ đạo chung quanh mặt trời hết 30 ngày, thì được một tháng.

Trái đất quay trên quỹ đạo theo hình bầu dục (oval) chung quanh mặt trời cứ 3 tháng: Chỗ gần mặt trời nóng nhất thì gọi là mùa Hạ, chỗ xa mặt trời nhất lạnh lẽo thì gọi là mùa Đông. Xen kẽ giữa Đông và Hạ người ta có mùa Xuân mát mẻ, cây cỏ đơm hoa kết trái. Xen kẽ giữa mùa Hạ và Đông người ta có mùa Thu, cây cỏ héo úa, rụng rời.

Khi trái đất quay hết một vòng trên quỹ đạo mặt trời và trở về đúng với vị trí khởi hành thì hết 365 ngày, ta có 1 năm. Hợp 10 năm lại gọi là thập niên, hợp 10 lần thập niên thì được thế kỷ. Để đánh dấu thời gian cổ đại và cận đại, người ta lấy ngày Chúa giáng sinh làm cái mốc.

Ngày 1 Tháng 1, Năm 1972, một hội nghị quốc tế về thời gian đã thay giờ GMT bằng Giờ Phối hợp Quốc tế (UTC), được ghi bởi nhiều đồng hồ nguyên tử quanh thế giới. UT1 được dùng thay GMT, để tuợng trưng cho “thời gian Trái Đất quay”. Giây nhuận được thêm hay bớt vào UTC để giữ nó không khác UT1 quá 0.9 giây. Nên biết rằng UTC không phải là một từ viết tắt mà nó là từ thỏa hiệp giữa viết tắt tiếng Anh “CUT” (Coordinated Universal Time) và viết tắt tiếng Pháp “TUC” (Temps Universel Coordonné). Nó được dựa trên chuẩn cũ là giờ trung bình Greenwich hay GMT do hải quân Anh đặt ra vào thế kỷ thứ XIX, sau đó được đổi tên thành giờ quốc tế (UT, tiếng Anh: Universal Time). Múi giờ trên thế giới được tính bằng độ lệch âm hay dương so với giờ quốc tế. Đó là qui ước được các quốc gia trên thế giới ký kết và áp dụng. Nên nói thời gian chỉ là qui ước, không phải là thật!

Để biểu thị thời gian người ta dùng một đường thẳng hình học nằm ngang chân trời giữa hai ký hiệu bất tận âm(-) và dương(+). Bất cứ chỗ nào trên đường thẳng được đánh bằng cái ngoặc chéo, chỗ đó được gọi là hiện tại, bên phải của ngoặc chéo là tương lai và bên trái của ngoặc chéo là quá khứ. Nên nói thời gian chỉ là qui ước, không phải là thật!

 

1. Phan III Tong Luan. Tanh Khong Bat Nha-2 

 

             

 Thời gian trong đạo Phật theo tôi hiểu như một vòng tròn, nó không phải là qui ước mà nó biểu thị cho sanh tử và luân hồi. Không có quá khứ, hiện tại hay tương lai nào có thể đánh dấu trên cái vòng tròn đó cả. Nó là một cái vòng tròn không kẽ hở đối với lục đạo luân hồi.

 

 1. Phan III Tong Luan. Tanh Khong Bat Nha

 

 

 

 

Vì vậy, Kinh Đại Bát Nhã nói ba thời đều bất khả đắc: Quá khứ bất khả đắc, Vị lai Bất khả đắc và Hiện tại cũng bất khả đắc! Đối với bậc chứng đạo, thoát sanh tử thì không nói đến thời gian hay số kiếp nữa, vì vòng luân hồi đã bị đập vỡ tan tành rồi. Các Ngài giải thoát mọi ràng buộc thế gian. Không gian, thời gian hay số kiếp, không còn là mối hệ lụy đối với các Ngài. Còn chúng sanh quanh quẩn trong sáu ngõ luân hồi, như vòng lửa quay, không chỗ nào là quá khứ, không chỗ nào là hiện tại và không chỗ nào là vị lai trên cái vòng tròn đó. Vì vòng luân hồi là cái vòng tròn bất tận không có cái khởi đầu cũng không có điểm chấm dứt, chỉ trừ giác ngộ.

 

Đây là thí dụ về thời gian trong đạo Phật:

Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Võ Tắc Thiên thỉnh Sư Tung Nhạc Tuệ An đến Kinh lấy lễ thầy mà đãi. Hậu hỏi Sư:

 - Tuổi tác bao nhiêu?

Đáp:

- Không nhớ!

Hậu nói:

- Tuổi sao lại không nhớ?

Sư đáp:

- Cái thân sống chết như cái vòng tròn xoay dần. Vòng tròn thì không có khởi điểm mà cũng không có chỗ chấm dứt thì nhớ làm gì, huống chi cái tâm này lưu chuyển liên miên chẳng dứt. Kẻ thấy bọt nước nổi lên rồi biến mất thì đâm ra vọng tưởng. Từ thức đầu tiên cho đến lúc động cùng diệt đều như vậy. Vậy, có năm tháng gì đâu mà nhớ chứ.

Võ Hậu nghe vậy cúi đầu đảnh lễ tin nhận.

 

- Chúng ta trở lại câu chuyện về thời gian trong đạo Phật. Nếu chia cắt thời gian làm một đơn vị nhỏ nhất gọi là sát na thì sát na đó theo đạo Phật, không phải để chỉ cho một khoảng thời gian nào cả mà ở đây sát na được mang ý niệm về cái “tíc tắc” của sống hay chết, khổ đau hay hạnh phúc... Phật đã từng hỏi các đệ tử đời sống con người dài chừng nào, thì có người bảo là dài bằng một bữa ăn, có người nói là dài bằng hơi thở, có người bảo là dài bằng một nháy mắt. Phật bảo chỉ dài bằng một sát na. Đó là sát na sanh diệt, của thành trụ hoại không, của “giây phút vô thường” hay “hiện tại vĩnh hằng” nào đó. Nó mang tánh chất của sống hay chết, của khổ đau hay hạnh phúc. Nên trong phần khảo luận khái niệm thời gian trong đạo Phật trong sự hiểu biết ý nghĩa của cuộc sống (From studying the concept of time in Buddhism toward understanding the meaning of life), tác giả của thiên khảo luận, viết: Cuối cùng, từ chính những kinh nghiêm cá nhân của chúng tôi và sự hiểu biết thông qua việc tìm hiểu về khái niệm thời gian trong kinh điển Phật giáo, chúng tôi hiểu ra rằng, sát-na (kṣaṇa) là một khoảng thời gian rất ngắn, thậm chí ngắn hơn cả khoảng thời gian mà một ý niệm sinh khởi. Tuy nhiên, nó là khoảng thời gian cần thiết để cho các pháp vận hành. Rõ ràng là dù cho mạng sống của chúng ta thọ hay yểu thì đều được cấu thành bởi những sát na đơn lẻ. Bởi vì chỉ có sát-na hiện tại là có thực, cho nên chúng ta không nên lo lắng về quá khứ hay tương lai, hãy sống trọn vẹn với giây phút hiện tại với tâm chánh niệm. Làm được như thế thì trong tương lai, nhiều điều tuyệt vời, đầy hứa hẹn sẽ đến với chúng ta”. Đó là khái niệm của sát na, một khoảng thời gian quá ngắn, ngắn hơn một cái nháy mắt, nó không phải là biểu thị thời gian mà nó biểu thị về nhân sinh quan của Phật đạo trong từng sát na của sanh và tử, của hạnh phúc hay khổ đau!

 

- Để tính thời gian trong Phật đạo, theo thuyết nhất thiết hữu bộ tính 120 kṣaṇa (sát-na) = 1 tatkṣaṇa; 60 tatkṣaṇa = 1 lava; 30 lava = 1 muhūrta. Vì thế, 1 kṣaṇa = 0,013333 giây, chúng ta làm gì được trong một khoảng thời gian quá ngắn này? Chỉ ngành điện tử có thể hoàn thành công việc với thời gian quá ngắn ngủi trên.

 

- Còn đối với một khoảng thời gian dài thì sao? Theo Kinh ĐBN hay nhiều Kinh Phật khác thường nói đến kiếp người. Kiếp sống của chúng sanh có khác nhau tùy theo chủng loại là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh. Loài người thuộc thai sanh, trong cõi Dục thọ mệnh một kiếp nhiều nhất là trăm năm. Bậc tiên thiên thì thọ mệnh cao hơn, còn chư Phật Bồ Tát thì thọ mệnh khó có thể nói.

 Nếu tính theo mạng sống của con người thì một kiếp là 100 năm. Nhưng trong đạo Phật lại tính khác. Có quá nhiều thuyết, có thuyết phân chia thời gian làm nhiều loại gọi là tiểu kiếp hoặc trung kiếp hoặc đại kiếp; có thuyết phân chia thời gian theo sự cấu tạo của vũ trụ, là: Thành Kiếp, Trụ Kiếp, Hoại Kiếp và Không Kiếp. Khái niệm thời gian dù chỉ là một kiếp trong đạo Phật, nếu tính đếm theo qui ước của con người, cũng là một khoảng thời gian thật lâu dài:

1).- Một đại kiếp (sanskrit Mahakalpa) là 1.334.000.000 năm, một trung kiếp là 336.000.000 năm, và một tiểu kiếp là 16.800.000 năm.

Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ tư: “Vãng Sanh”, tập 2, quyển 38, có đặt câu:

Hỏi:Thế nào gọi là Phi Bạt Đà Kiếp?

Đáp: Phi Bạt Đà Kiếp là vô số kiếp, chẳng thế tính được.

Trong kinh có chép mẫu chuyện sau đây:

Có một vị Tỷ-kheo hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! Thời gian bao nhiêu lâu gọi là một kiếp?”

Phật dạy: “Trước đây ta đã nói nhiều rồi, mà các ngươi chưa hiểu rõ. Nay ta lấy các thí dụ để làm sáng tỏ vấn đề.

- Nhỏ nhất là 60 niệm hợp lại thành một đại niệm. Đại niệm đó cũng gọi là một kiếp...

- Còn nói về đại kiếp, thì chẳng có toán số thí dụ nào ở thế gian có thể tính được. Ví như có một cái thành hình vuông, mỗi bề 100 do tuần; lại có một người sống lâu 100 tuổi, đập nát thành ấy thành bụi, rồi suốt đời đếm các hạt bụi ấy, thì người ấy cũng chẳng sao đếm hết được. Thế nhưng, nếu lấy một hạt bụi dụ cho một kiếp, thì thời gian của vô số kiếp ấy họp lại cũng chẳng sao so sánh được thọ mạng của một đại kiếp.

Phân biệt đại kiếp và tiểu kiếp, như đã nói trên đây, cho thấy rằng thọ mạng của một đại kiếp là vô lượng vô biên”.

Phân biệt tiểu kiếp, đại kiếp như thế rất mơ hồ đối với sự hiểu biết theo qui ước hiện tại. Chúng ta chỉ mường tượng đại khái thời gian ngắn nhất trong đạo Phật là một sát na và thời gian dài nhất gọi là Phi Bạt Đà kiếp, nhưng không thể đo lường một đại kiếp là bao nhiêu, nên nói là vô lượng vô biên.

2).- Hơn nữa, một chu kỳ thành, trụ, hoại, không của vũ trụ, mỗi thời kiếp được chia ra làm 20 tiểu kiếp, mỗi tiểu kiếp lại được chia ra làm hai thời “tăng” và “giảm”. Thời “tăng” được cai trị bởi “tứ thiên vương”, trong thời đó tuổi thọ của con người cứ tăng một tuổi cho mỗi một trăm năm cho đến 84.000 năm, và thân người cũng cao tới 84.000 bộ. Kế đó là thời “giảm” lại được chia làm ba giai đoạn chướng ngại là nạn dịch, chiến tranh và đói khát, lúc mà tuổi thọ của con người giảm từ từ đến lúc chỉ còn 10 tuổi thọ và chiều cao chỉ còn một bộ.

Đây nói về thời gian. Nhưng không cần phải biết đích xác về kiếp số, thời gian làm gì. Vì trong Bát Nhã ba thời đều bất khả đắc. Bồ Tát chẳng ngại thời gian, chẳng nệ kiếp số, qua lại cõi này trong muôn ngàn kiếp dù chỉ độ cho một người nên nói đối với các Ngài thời gian là phi thời gian, số kiếp phi số kiếp.

Đối với Albert Einstein một khoa học gia lừng danh thế giới về thuyết tương đối, tuyên bố về thời gian như sau: “Khi bạn ngồi với một cô gái xinh đẹp trong hai giờ, bạn nghĩ rằng đó là hai phút. Nhưng khi bạn ngồi trên một bếp lò nóng trong hai phút, bạn nghĩ rằng đó là hai giờ. Đó là tương đối tính”. Đây chỉ là cái hài hước dễ thương của một đại khoa học gia! Còn các cụ ngày xưa thì bảo thời gian chẳng khác nào bóng câu qua cửa sổ. Đúng vậy không? Đùa một chút để giúp vui Quý vị!

Vậy khi nói đến phương hướng hay thời gian trong đạo Phật chúng ta có thể tin câu Phật phát biểu trong 26 thế kỷ trước “chẳng có phương hướng hay thời gian”. Tất cả chỉ là qui ước của cuộc sống(1b).

 

4/. Nói về số lượng.

Kinh thường dùng từ A tăng kỳ là số cực kỳ lớn hay vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết. Ngoài ra một số từ khác chỉ số lượng mà dân Ấn thường dùng là:

Lạc xoa = 100.000 = 105

Câu chi = 10.000.000 = 107

A Giu Da = 100.000.000.000.000 = 1014

Na do tha = 10 tỷ tỷ tỷ = 1028

Tần Bà La = 1056

Nhưng những con số này không biểu thị chính xác như các con số theo toán học hiện tại như 1.000, 10.000, 100.000, 1 triệu, 1 tỷ v.v...

Trên đây là những hiểu biết hạn hẹp của chúng tôi về vũ trụ quan của Bát Nhã hay Phật đạo. Tuy khó có thể hiểu biết hết lý thể huyền diệu của vũ trụ nhưng ít nhất nó cũng cho chúng ta cái nhìn khái quát về vũ trụ so với những khám phá mới của khoa thiên văn học hiện tại. Vũ trụ tuy vô biên vô tận, nhưng không phải là tuyệt đối bí mật so với thân phận bé nhỏ của con người. Thế giới cõi này rồi sẽ có những nhà bác học sẽ tiếp tục công việc của một Isaac Newton, Albert Einstein hay Stephen Hawking... trong nỗ lực cống hiến những khám phá mới.

 

2- Nhân sinh quan:

 

Con người và vũ trụ có quan hệ bất khả phân trong mọi sinh hoạt liên quan đến sự sống, chết, hạnh phúc, đau khổ, địa ngục hay Niết bàn v.v... Không có bất kỳ một khoa nhân văn hay tôn giáo nào mà không đề cập đến các vấn đề lớn này. Và từ nghiên cứu các mối quan hệ đó người ta có thể rút ra một số kinh nghiệm để cải thiện cuộc sống trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.

Uẩn xứ giới, các đại chủng (đất nước gió lửa...) cùng các pháp (hữu vi, vô vi) hiện hữu chung quanh con người được xem là thế giới nội hay ngoại trong sự phân tích mối quan hệ của các thành tố về vật chất (vật lý) cũng như tinh thần (tâm lý) giữa con người với ngoại cảnh, mà trong đó tâm và vật, ngã và ngã sở là mối quan hệ về duyên sanh, lại đóng vai trò quyết định cho luân hồi hay giải thoát, địa ngục hay Niết bàn theo đạo Phật.

 

1/. Thân căn và Khí thế gian: 

Nói về mối liên hệ của uẩn, xứ, giới, các đại chủng cùng các pháp hiện hữu chung quanh con người gọi chung là thế giới nội hay ngoại, tạo thành quá trình phát triển tâm thức chúng sanh. Các tâm thức riêng rẽ của mỗi cá nhân được xem như là những quan niệm về lối sống, về cách sống. Quan niệm sống còn gọi là nhân sinh quan và vũ trụ quan, hay nói theo chuyên môn là một thứ văn hóa riêng của mỗi cá thể biểu thị qua các đường tai mắt mũi lưỡi thân ý khi “tâm” tiếp xúc với “vật” hay là trần cảnh, cũng gọi là y báo và chánh báo nếu muốn.

 

1).- Uẩn xứ giới:

 

- Uẩn: Sắc thọ tưởng hành thức: Đây là những “khái niệm” căn bản lập đạo của Phật, thường thấy ở trong bất cứ kinh điển hay trong văn chương Phật học mà bất cứ Phật tử nào cũng đều cần biết. Đó là khái niệm linh động đặc sắc do Phật nghĩ ra. Sắc thọ tưởng hành thức không phải là những khái niệm khoa học hay một trạng thái của khoa Tâm lý học hay Phân tâm học thường nghiệm. Chúng chỉ là những phân tích cốt diễn tả những cảm quan và ý thức sâu kín của con người đối với vạn hữu mà chỉ có Phật, kiến chiếu vào tự thể phát hiện. Nói như vậy có vẻ quá trừu tượng, ẩn mật? Nhưng thật sự uẩn xứ giới là khái niệm chỉ tìm thấy một cách tổng quát trong Phật đạo mà thôi và người nêu lên khái niệm này không ai ngoài Phật trong 26 thế kỷ trước. 

- Sắc hay sắc tướng chỉ chung những biểu hiện cho các quan năng như năm căn (mắt tai mũi lưỡi thân), năm trần (hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc chạm) và những vật hữu hình. 

- Thọ tức cảm thọ sanh ra do sự tiếp xúc giữa tâm và vật và tùy theo sự tiếp xúc đó mà con người có cảm giác vui buồn, sướng khổ...

- Tưởng là tưởng tượng, khái niệm này phát sanh từ đối tượng do sự tiếp xúc giữa căn và trần như đen trắng, lớn nhỏ, dài ngắn...

- Hành là sự tạo tác của ba nghiệp thân, khẩu và ý, đều do tác động của sự tiếp xúc giữa tâm và vật mà khởi tâm ham muốn, thương ghét...

- Thức là khả năng nhận thức, phân biệt. Có sáu thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Trong Duy Thức Học còn thêm 3 thức nữa là Mạt na thức, A lại gia thức và A đà na thức).

Tóm lại, để cho dễ hiểu ta có thể nói năm uẩn tức là thân thể(sắc), cảm giác(thọ), tưởng tượng(tưởng), tạo tác(hành), và nhận thức(thức). Phẩm “Vấn Tướng” và phẩm “Tu Tập đúng”, MHBNBLMĐ nói “...tướng não hoại là tướng của sắc, cảm giác là tướng của thọ, duyên lấy tướng là tướng của tưởng, sanh khởi tạo tác là tướng của hành, liễu biệt là tướng của thức”.

Năm thứ nầy làm cho chúng sanh rơi vào luân hồi sanh tử, năm thứ này cũng đưa đến Niết bàn.

Tổ Bồ Đề Đạt Ma trụ tại chùa Thiếu Lâm 9 năm, nói với đệ tử đầu tiên của mình là Huệ Khả tại đất Trung quốc khi Ngài du hương hóa độ tại xứ này:

 

“Ngoài dứt chư duyên

 

Trong không toan tính

Tâm như tường vách .

Mới là nhập đạo

 

Tu là loại trừ tất cả tưởng niệm và hình tướng của giác quan. Nói theo chuyên môn là muốn tránh tạo tác thì phải kiểm soát, thúc liễm 6 thức năng y, 6 căn sở y và 6 cảnh sở duyên, nghĩa là đừng để căn tiếp xúc với trần mà sanh động niệm. Nếu biết bảo hộ trong ngoài như tường vách, thì mới có thể nhập đạo. Vì vậy, Thiền sư Bá Trượng bảo: “Tâm cảnh không đến với nhau thì giải thoát”.

Trong cuốn “Bước Đầu Phật Học”, HT Thích Thanh Từ bảo:Sáu căn là cội nguồn tội lỗi, cũng chính sáu căn là gốc giải thoát. Cho nên mê lầm sáu căn là “lục tặc”, tỉnh giác 6 căn là “ lục thông”.

 

 - Xứ (2) gồm sáu căn (lục nhập hay lục xứ) là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cộng với sáu trần (ngoại xứ) là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tạo thành 12 xứ. Ý nghĩa quan trọng của 12 xứ là nói lên sự tương quan mật thiết giữa con người và vũ trụ, hay nói một cách dễ hiểu hơn, là cách nhận thức của con người đối với thế giới khách quan, thông qua sáu quan năng khác nhau (còn gọi là sáu tình thức) để trực nhận sáu cảnh giới khác nhau. Mười hai xứ này còn mang ý nghĩa bao hàm tất cả pháp thế gian, không một pháp nào ngoài nó, do vậy chúng được gọi là nhất thiết pháp. Đề cập mười hai xứ này cũng có nghĩa là đề cập đến tất cả pháp mà danh từ mỹ miều gọi là nhất thiết pháp như đã nói ở trên.

 

- Giới (3) gồm 18 pháp là: Sáu thức năng y, 6 căn sở y và 6 cảnh sở duyên. Giới nghĩa là cõi, cảnh giới. Vì 18 chủng loại này đều có tự tính khác nhau cho nên gọi là Thập bát giới. Tức 6 căn, có công năng phát sinh nhận biết (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), 6 cảnh đối tượng của sự nhận biết (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) và 6 thức, có công năng nhận thức vật hay cảm thọ (thức mắt, thức tai, thức mũi, thức lưỡi, thức thân, thức ý).

 

Nên trong phần thứ I, Tổng luận chúng tôi có ghi: “... nhân sinh quan và vũ trụ quan Phật giáo được hình thành ngay trên cơ sở Duyên khởi của 18 giới, với sự điều động của cả danh (tâm lý) và sắc (vật lý). Và do đó, những gì được xây dựng trên và trong cơ sở này đều phải chịu sự chi phối của khổ, vô thường, vô ngã. Ở đây, các quan niệm về thần linh, Thượng đế, huyền học v.v... đều được gác sang một bên. Và tất nhiên, mọi kiến giải nào về nhân sinh quan-vũ trụ quan, nếu không dựa trên cơ sở này, đều không phải là Phật giáo, cho dù có mệnh danh là Phật giáo”.

Phẩm thứ ba, “Tập Tương Ưng”(tiếp theo), tập 2, quyển 36, Đại Trí Độ Luận. Nói:

“Do tâm của chúng sanh chấp tướng của cảnh giới 6 trần là thật có, nên mới khởi sanh vui, buồn, thương, ghét v.v... Mải miết tư duy, tầm cầu các lạc thú ở ngoại cảnh.

Do căn xúc trần khởi sanh thức, lại do thức phân biệt có khổ lạc nên mới sanh tâm đắm chấp các dục lạc ở thế gian. Đây chính là nhân duyên sanh khổ.

Lại vì nhiễm trước dục lạc mà khởi sanh ra ba độc tham, sân, si dẫn đến hành động tội lỗi”.

... “Thân thức chủ động trong việc thọ dụng dục lạc, vì 5 dục nhiếp về sắc ấm. Sắc ấm là căn bản dẫn đầu trong 5 ấm.

Bởi vậy nên trước phải nói về sắc, tức là nói về sắc ấm thân, sau đó mới nói về thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Sau khi nói về 5 ấm xong rồi mới nói về 12 nhập, 18 giới v.v...

Tóm lại, hết thảy các pháp hữu vi đều do 5 ấm thứ lớp sanh ra”.

“... Nếu biết trở về với thiện căn, biết rõ hành và thức là chủ trong sự thọ khổ, thọ lạc, thì sẽ hưởng được thượng diệu lạc. Vì sao? Vì khi quán thân bất tịnh, rõ biết vô thường, khổ không, vô ngã, thì ý thức sẽ được tỉnh giác, sẽ nhập vào cảnh giới vô vi, vô lậu, vô trú, tức là nhập vào trong tánh bình đẳng của pháp giới.

Với pháp tu 4 Thánh Đế, hành giả sẽ được tăng trí huệ, sẽ diệt được thức phân biệt, sẽ thấy rõ 12 nhập, 18 giới... cùng hết thảy các pháp hữu vi đều là như huyễn, như hóa. Do vậy mà chuyển được thức thành vô vi, vô lậu thanh tịnh, lại rõ biết 5 ấm đều do tâm tạo, đều là chẳng thật có, dẫn đến rõ biết hết thảy pháp đều vốn là tự tánh “không” vậy”.

Đó là những ảnh hưởng của ấm nhập giới đối với đời sống tinh thần của con người, hay nói ngắn gọn là tâm và vật, thân căn và khí thế gian, nhân sinh quan và vũ trụ quan nhờ đó chúng ta xác định được vị trí của chúng ta trong cõi sống. Chúng ta cảm ơn đạo Phật đã nêu lên những “khái niệm” sinh động này giúp chúng ta hiểu biết ta là ai, hữu tình hay vô tình, nhơ hay sạch, khổ hay vui, phàm hay Thánh... từ đó rút ra kinh nghiệm sống để tìm lấy hạnh phúc cho chính mình cũng như chia sẻ hạnh phúc đó với các chúng sanh khác!

Không có quyển Kinh nào trong 600 quyển ĐBN nói về tâm và vật siêu xuất như quyển 594, 595 và 596 thuộc phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI. Nếu có thời giờ, Quý vị nên quay lại trì tụng các quyển Kinh này. Thiên Tổng luận này quá dài, không cho phép chúng tôi quản diễn thêm nữa.

 

2).- Các đại chủng:

Gồm đất nước gió lửa gọi chung là tứ đại. Bốn yếu tố lớn nầy hợp lại tạo thành sắc pháp cũng gọi là năng tạo đại chủng. Nếu thêm Không đại thì thành ngũ đại chủng, lại thêm Thức đại thì thành lục đại chủng, cộng với Kiến đại thì thành thất đại chủng. Đại có nghĩa là lớn, trùm khắp pháp giới. Loài vô tình chỉ có 5 đại trước, loài hữu tình thì đủ cả 7 đại. Trong đó, địa đại là tính cứng của muôn pháp, hỏa đại là tính nóng, thủy đại là tính ướt, phong đại là tính động, không đại là tính thông suốt, kiến đại là tính hay biết và thức đại là tính phân biệt. Năm đại trước thuộc về 6 cảnh, kiến đại thuộc về 6 căn, thức đại thuộc về 6 thức, cho nên 7 đại tức 18 giới chỉ con người và vạn hữu hay Tâm và Vật.

 

3).- Các pháp (dharma):

Trong văn học Phật giáo các pháp được chia làm hai thành phần: Sắc pháp và tâm pháp. Sắc pháp gồm tất cả pháp hữu hình, có thể tánh gọi là sắc pháp như sơn hà, đại địa, nhà cửa, xe cộ v.v... tức các pháp thuộc thế giới hiện tượng khách quan thuộc vật lý. Trong khi tâm pháp thuộc về vô hình, không có thể tánh, nó là các chuyển biến của thế giới bên trong, thuộc nội tâm. Sắc pháp, tâm pháp, hữu vi pháp, vô vi pháp... gọi chung là Pháp giới.

Tóm lại, uẩn là tổ hợp của các thành tố là sắc (vật lý); thọ, tưởng, hành và thức là tổ hợp của các thành tố tinh thần (tâm lý). Căn (các quan năng như mắt, tai, mũi, lưỡi...) là phương tiện để tiếp xúc với ngoại cảnh. Xứ (chỗ) hay là điểm tựa, nơi chốn; để qua đó, tri giác hình thành, và Giới (cõi, cảnh giới) tức là cõi sống, là sinh địa của con người. Nói chung, uẩn, xứ, giới, các đại chủng và các pháp hữu vi và vô vi gọi chung là Tâm và Vật, Thân căn và Khí thế gian hay Nhân sinh quan và Vũ trụ quan, được xem là đối tượng khảo cứu của các khoa nhân văn, kể cả tôn giáo. Khổ hay lạc, sinh tử hay Niết bàn, phiền não hay Bồ đề... bắt đầu từ những mối quan hệ vật chất cũng như tinh thần của các tổ hợp này. Đạo Phật lập cước trên các thành tố này. Chúng tôi chỉ có thể nói tóm gọn như thế.

 

Trên đây chỉ là những nét đại cương về vũ trụ quan và nhân sinh quan không những trong Kinh ĐBN mà hầu hết Kinh điển Phật giáo đều đề cập đến. Nó là chủ đề trong tất cả chủ đề lớn liên quan đến vật chất và tinh thần của con người. Trong khuôn khổ thuyết giảng về những biểu thị của Bát Nhã liên quan giữa căn trần xứ giới nghĩa là những liên quan mật thiết giữa TÂM và VẬT, nên chúng tôi phải nói sơ qua nhân sinh quan và vũ trụ quan Phật đạo, nhưng không thể đi sâu hơn nữa.

Sau đây là phần trích dẫn những đoạn Kinh và Luận để chứng minh những quan hệ giữa người và vật hay nói khác là quan điểm của của Đại thừa về những mối quan hệ lớn này.

 

- Phẩm “Phật Mẫu”, quyển 306, Hội thứ I, ĐBN. Như Lai biết như thật: “… Biến ngại là tướng của sắc, lãnh nạp là tướng của thọ, nắm lấy bóng là tướng của tưởng, tạo tác là tướng của hành, liễu biệt là tướng của thức, Như Lai biết như thật là vô tướng; khổ não tích tụ là tướng của uẩn, cửa sanh trưởng là tướng của xứ, nhiều độc hại là tướng của giới”.

Đoạn kinh này giải thích vai trò của các quan năng đối với cảnh giới bên ngoài hay nói khác giữa tâm và vật.

 

- Phẩm thứ nhất, tập 1, quyển 5, “Vượt Qua Hết Ma Sự”. Đại Trí Độ Luận có ghi pháp thoại như sau:

“Hỏi: - Vì sao “5 ấm, 12 nhập, 18 giới” gọi là ma?

Đáp: - Ở núi Mạc Câu La Phật dạy các đệ tử rằng: Sắc là Ấm ma. Nhẫn đến Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như vậy cả.

Lại nữa, ngay ở chỗ muốn có “sắc thân” ở đời sau cũng vẫn là vọng động; nhẫn đến muốn có “Vô sắc thân”, “Hữu tưởng thân”, “Vô tưởng thân”, “phi hữu tưởng phi vô tưởng thân” cũng đều là vọng động.

Nếu là động thì liền bị ma dẫn dắt, bị ma trói buộc. Phải không vọng động mới được tự tại, mới được giải thoát khỏi các ma. Chẳng những chỉ có 5 ấm, 12 nhập, 18 giới… là ma, mà nhẫn đến muốn được thân tự tại như Thiên vương cũng gọi là ma sự.

Hỏi: - Sao gọi là ma?

Đáp: - Vì cướp huệ mạng, phá đạo pháp, làm tổn giảm công đức, làm mất thiện căn, nên gọi là ma”.

Vì 5 ấm, 12 xứ, 18 giới chẳng qua chỉ là những chướng ngại của Đạo tu hành, của giác ngộ hay giải thoát, cướp huệ mạng con người, nên Phật gọi là ma sự. 

 

- Phẩm “Thiên Đế”, quyển 77, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bảo: “Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát Ma ha tát đem tâm tương ưng Nhất thiết trí trí, dùng vô sở đắc làm phương tiện, suy nghĩ sắc vô thường, suy nghĩ thọ tưởng hành thức vô thường. Suy nghĩ sắc khổ, suy nghĩ thọ tưởng hành thức khổ. Suy nghĩ sắc vô ngã, suy nghĩ thọ tưởng hành thức vô ngã. Suy nghĩ sắc bất tịnh, suy nghĩ thọ tưởng hành thức bất tịnh. Suy nghĩ sắc không, suy nghĩ thọ thưởng hành thức không. Suy nghĩ sắc vô tướng, suy nghĩ thọ tưởng hành thức vô tướng. Suy nghĩ sắc vô nguyện, suy nghĩ thọ tưởng hành thức vô nguyện. Suy nghĩ sắc vắng lặng, suy nghĩ sắc thọ tưởng vắng lặng. Suy nghĩ sắc xa lìa, suy nghĩ thọ tưởng hành thức xa lìa”.

Đó là những suy nghĩ trong sáng của ngũ uẩn đối với thế giới chung quanh với sự sọi rọi của Bát Nhã.

Cũng cùng đoạn Kinh trên, cụ thọ Thiện hiện bảo tiếp:

“Suy nghĩ sắc như bệnh hoạn, suy nghĩ thọ tưởng hành thức như bệnh hoạn. Suy nghĩ sắc như ung thư, suy nghĩ thọ tưởng hành thức như ung thư. Suy nghĩ sắc như tên đâm, suy nghĩ thọ tưởng hành thức như tên đâm. Suy nghĩ sắc như mụt nhọt, suy nghĩ thọ tưởng hành thức như mụt nhọt. Suy nghĩ sắc nóng nảy, suy nghĩ thọ tưởng hành thức nóng nảy. Suy nghĩ sắc bức ngặt, suy nghĩ thọ tưởng hành thức bức ngặt. Suy nghĩ sắc bại hoại, suy nghĩ thọ tưởng hành thức bại hoại. Suy nghĩ sắc suy hư, suy nghĩ thọ tưởng hành thức suy hư. Suy nghĩ sắc biến động, suy nghĩ thọ tưởng hành thức biến động. Suy nghĩ sắc chóng diệt, suy nghĩ thọ tưởng hành thức chóng diệt. Suy nghĩ sắc đáng sợ, suy nghĩ thọ tưởng hành thức đáng sợ. Suy nghĩ sắc đáng nhàm, suy nghĩ thọ tưởng hành thức đáng nhàm. Suy nghĩ sắc có tai(tai ương), suy nghĩ thọ tưởng hành thức có tai. Suy nghĩ sắc có hoạnh, suy nghĩ thọ tưởng hành thức có hoạnh. Suy nghĩ sắc có dịch, suy nghĩ thọ tưởng hành thức có dịch. Suy nghĩ sắc như hủi, suy nghĩ thọ tưởng hành thức như hủi. Suy nghĩ sắc tánh chẳng yên ổn, suy nghĩ thọ tưởng hành thức tánh chẳng yên ổn. Suy nghĩ sắc chẳng thể bảo đảm tin cậy, suy nghĩ thọ tưởng hành thức chẳng thể bảo đảm tin cậy”.

Đoạn kinh này lại nói về cái đen tối của ngũ uẩn: Nào sắc như bệnh hoạn, sắc như ung thư, sắc như tên đâm, nào sắc như mụt nhọt, sắc bại hoại, sắc hư suy, nào sắc có tai, sắc có hoạnh, sắc có dịch, như hủi v.v…Thọ tưởng hành thức cũng lại như vậy. Đoạn kinh này nhân bản chỉ rõ bản tánh của thế gian là như thế!

Phần cuối cùng của đoạn Kinh trên lại nói:

“Suy nghĩ sắc vô sanh vô diệt, suy nghĩ thọ tưởng hành thức vô sanh vô diệt. Suy nghĩ sắc vô nhiễm vô tịnh, suy nghĩ thọ tưởng hành thức vô nhiễm vô tịnh. Suy nghĩ sắc vô tác vô vi, suy nghĩ thọ tưởng hành thức vô tác vô vi. Kiều Thi Ca! Đấy là Bồ Tát Ma ha tát Bát nhã Ba la mật”.

Cụ thọ Thiện Hiện bảo ngũ uẩn là vô sanh vô diệt, vô nhiễm vô tịnh, vô vi vô tác. Đó là cái siêu vượt trên các đối đãi tốt xấu của cuộc đời thường, nên những người nào có cái thấy biết siêu vượt như vậy thì được gọi là đại Bồ Tát Bát nhã Ba la mật.

Dùng vô sở đắc với sự tương ưng của Nhất thiết trí trí mà Bồ Tát soi thấy năm uẩn hoặc trong sáng hoặc đen tối hay là siêu vượt trên các đối đãi tốt xấu. Điều đó chứng minh vai trò của năm uẩn trong tương quan giữa con người với thế giới bên ngoài. Nói rộng ra, không những 5 uẩn mà 12 xứ, 18 giới, các đại chủng cũng như tất cả các pháp giữ vai trò quan trọng trong việc tạo dựng quá trình phát triển tâm thức của con người, theo hai hướng Thánh thiện hoặc sa đọa tham ái. Hướng Thánh thiện tức cảnh giới Thánh đế, cảnh giới của các bậc siêu thoát; còn sa đọa tham ái là cảnh giới Phàm phu, tức cảnh giới của tưởng và tình(4) do phàm phu tạo nên.

 

2/. Tưởng và Tình:

Đức Phật thuyết khái quát quá trình phát triển tâm thức chúng sanh, thành hình qua 7 tầng như sau:

Một/.- Thuần là Tưởng bay lên sinh cõi trời, nếu tâm gồm có phúc đức trí tuệ cùng với tịnh nguyện, tự nhiên tâm khai ngộ thấy tất cả tịnh độ thập phương chư Phật, theo nguyện vãng sinh. (Đó là bậc Thánh: Phật, Bồ Tát, A la hán, các chư thiên).

Hai/.- Tình ít, tưởng nhiều, cất lên không xa làm phi Tiên, đại lực Quỷ Vương, phi hành Dạ xoa, địa hành La sát, đi khắp bốn cõi trời, không bị ngăn ngại. Nếu nguyện tâm tốt, hộ trì Phật pháp, hộ trì cấm giới, theo người trì giới, hộ trì thần chú, hộ trì thiền định, giữ yên Pháp nhẫn, thì những hạng đó, chính mình được ở dưới pháp tọa Như lai. (Đó là Tiên thiên, long thần, quỷ vương hộ pháp).

Ba/.- Tình và tưởng cân nhau, không bay lên, không đọa xuống, thì sinh nơi nhân gian; tưởng sáng suốt nên thông minh, tình u ám nên ngu độn. (Cõi người).

Bốn/.- Tình nhiều, tưởng ít, đi vào các loại hoành sinh, nặng làm giống có lông (trâu bò...), nhẹ làm giống có cánh(gia súc).

Năm/.- Bảy phần tình, ba phần tưởng, chìm xuống dưới thủy luân, sinh nơi mê hỏa luân chịu khí phần của lửa hồng, thân làm Ngạ quỷ, thường bị đốt cháy, vì nước có thể hại mình, nên trải trăm nghìn kiếp không ăn, không uống.(Ngạ quỷ)

Sáu/.- Chín phần tình, một phần tưởng, xuống thấu qua hỏa luân, và giữa giao giới phong luân và hỏa luân, nhẹ thì sinh vào hữu gián, nặng thì sinh vào vô gián. (Địa ngục).

Bảy/.- Thuần là tình, chìm sâu vào ngục A tỳ; nếu trong tâm chìm sâu đó, lại có hủy báng Đại thừa, phá cấm giới của Phật, lừa dối nói Pháp để tham cầu tín thí, lạm nhận cung kính hoặc phạm ngũ nghịch, thập trọng thì lại còn sinh vào địa ngục A tỳ thập phương”. (Địa ngục A tỳ, vô gián)

Trong thành phần thứ nhất: Thuần là tưởng nghĩa là 100% (5) tưởng thuộc vào bậc đại Thánh tức từ A la hán đến Phật, gồm các bậc trí. Nên từ “tưởng” ở đây có thể nói là “trí”.

Do bảy tầng tâm thức này mà dẫn đến đạo lộ của 25 thành phần hiện hữu(còn gọi là thập nhị ngũ hữu)sống trong cảnh giới và các cõi như sau:

 

1).- Cảnh giới là thế giới của mỗi chủng loại chúng sanh khác nhau, Phật chia chúng sanh làm 10 loại thế giới mê và ngộ hay còn gọi là thập giới:

 

(1).- Địa Ngục Giới;

(2).- Ngạ Quỷ Giới;

(3).- Súc Sanh Giới;

(4).- Tu La Giới;

(5).- Nhân Gian Giới;

(6).- Thiên Thượng Giới;

(7).- Thanh Văn Giới;

(8).- Duyên Giác Giới;

(9).- Bồ Tát Giới;

(10).- Phật Giới;

 

2).- Cõi: Phật chia chúng sanh trong lục đạo luân hồi làm 3 cõi: Dục, Sắc và Vô sắc giới.

Nói chi tiết cảnh giới là thế giới trong đó có cả phàm và Thánh: Sáu giới đầu: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la, nhân và thiên của ba cõi (Dục, Sắc và Vô sắc giới), hợp thành 25 thành phần hiện hữu, cùng với 10 loại tiên và các chúng sanh thuộc Cõi Âm, đó là những chúng sanh còn nhiều oan nghiệp hay ma chướng, nghĩa là những chúng sanh còn bị chi phối bởi lục đạo luân hồi, nên gọi là Phàm trần. Bốn giới cuối cùng gồm Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát và Phật là những bậc lậu tận phiền não đã dứt, tức bậc giác ngộ, được giải thoát, nên được gọi là Thánh giả.

Sáu giới từ Địa ngục tới Nhân Thiên tức thuộc 25 thành phần hiện hữu và 10 loại Tiên hoặc thuộc người Cõi Âm, được Phật giới thiệu trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm trình bày như sau(6):

a).- Trong cõi Dục có 14 cách hiện hữu, trong cõi Sắc có 7, trong cõi Vô Sắc có 4:

 (a).- Mười bốn hiện hữu thuộc về cõi Dục giới gồm:

 

- Tứ ác đạo:

(1). Địa ngục,

(2). Súc sanh,

(3). Ngạ quỷ,

(4). A tu la.

 

- Tứ châu hay Tứ thiên hạ (Bốn cõi thiên hạ): Mỗi thế giới được chia theo bốn phương của núi Tu di, gọi là Bốn châu hay Bốn cõi thiên hạ, gồm có:

(5). Phương Bắc là Câu lô châu;

(6). Phương Nam là Thiệm bộ châu;

(7). Phương Tây là Ngưu hóa châu;

(8). Phương Đông là Thắng thần châu. 

 

- Lục dục thiên:

(9). Tứ thiên vương xứ;

(10). Tam thập tam thiên xứ(Trời 33);

(11). Diệm ma thiên(Trời Dạ ma);

(12). Đâu suất thiên(Trời Đổ sử đa);

(13). Hóa lạc thiên(Trời Lạc biến hóa);

(14). Tha hóa tự tại thiên.

 

(b).- Bảy hiện hữu thuộc về Sắc giới: Gồm Tứ thiền thiên và Tịnh cư thiên:

 - Tứ thiền thiên (có 4) Gồm:

(15). Sơ thiền: Người tu đắc sơ thiền có thể dạo chơi hay thác sanh lên 3 tầng trời như Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Phạm đại thiên; gọi chung là Tam phạm: Đại phạm là vua, Phạm phụ là quan, Phạm chúng là dân;

(16). Nhị thiền: Người tu đắc nhị thiền có thể dạo chơi hay thác sanh lên 3 tầng trời như: 1. Thiểu quang thiên: Tầng trời này ít ánh sáng nhất nên gọi là thiểu quang. 2. Vô lượng quang thiên: Ánh sáng ở tầng trời này dần dần tăng thêm tới mức khó đo lường được, nên gọi là Vô lượng quang. 3. Cực quang tịnh thiên: Ánh sáng ở tầng trời này sáng hơn 2 tầng trời nói trên, chiếu khắp cõi mình. Lại vì thiên chúng của tầng trời này dùng ánh sáng làm tiếng nói nên còn gọi là Quang âm thiên;

(17). Tam thiền: Người tu đắc tam thiền có thể dạo chơi hay thác sanh lên 3 tầng trời như: 1. Thiểu tịnh thiên: Chư thiên cõi này cảm nhận niềm vui thanh tịnh ít nhất trong cõi trời Tam thiền nên gọi là Thiểu tịnh thiên. 2. Vô lượng tịnh thiên: Sự cảm nhận niềm vui thanh tịnh của chư thiên cõi trời này dần dần tăng thêm đến mức không thể đo lường được, cho nên gọi là Vô lượng tịnh thiên. 3. Biến tịnh thiên: Chư thiên cõi này cảm nhận niềm vui thanh tịnh thù thắng nhất và tràn lan khắp, nên gọi là Biến tịnh;

(18). Tứ thiền: Người tu đắc tứ thiền có thể dạo chơi hay thác sanh lên 3 tầng trời như: 1. Vô vân thiên: Tầng trời này ở trên các tầng mây dày đặc, cho nên bắt đầu từ đây, chỉ có những làn mây mỏng như ánh sao. 2. Phúc sinh thiên: Kẻ phàm phu phải có phúc đức thù thắng mới được sinh lên tầng trời này. 3. Quảng quả thiên: Nơi thù thắng nhất trong các tầng trời cõi Sắc mà phàm phu được sinh đến.

 

- Tịnh cư thiên(có 3) gồm:

(19). Đại phạm vương,

(20). Vô tưởng thiên,

(21). Tịnh cư A na hàm.

 

(c).- Bốn hiện hữu thuộc về Vô sắc giới(Tứ không thiên x):

(22). Không xứ (không vô biên x),

(23). Thức xứ (thức vô biên xứ),

(24). Bất dụng xứ (Vô sở hữu xứ) và

(25). Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

 

b).- Ngoài ra, theo Kinh Lăng Nghiêm còn liệt kê 10 dạng Tiên(72 động, 36 đảo), gồm có:

(1). Địa hành Tiên.

(2). Phi hành Tiên.

(3). Du hành Tiên.

(4). Không hành Tiên.

(5). Thiên hành Tiên.

(6). Thông hành Tiên.

(7). Đạo hành Tiên.

(8). Chiếu hành Tiên.

(9). Tinh hành Tiên.

(10). Tuyệt hành Tiên.

Những chúng sinh tu Tiên thường xa lánh sự ồn ào náo nhiệt, ưa thích nơi thanh vắng yên tĩnh để “Thanh tâm, quả dục”, nhằm từng bước đoạn diệt “Thất tình, lục dục”, “Luyện Tinh hóa khí, luyện khí hóa Thần, luyện thần hoàn Hư”, khi thành công có những hiệu quả phi thường tùy theo pháp môn đã chọn, những vị tu theo Đạo Lão, Yogi có thể liệt trong dạng này, theo nhận định nhà Phật những chúng sinh này gần gũi Đạo Phật nhất.

 

c).- Mật tông Tây Tạng còn liệt kê và xem trọng một cõi nữa là cõi Trung giới hay còn gọi là Cõi Âm, nơi chuyển tiếp các tâm thức sau khi thác và trước khi tái sinh vào các cõi nêu trên.

 

Vì vậy, khi đề cập đến nhân sinh quan, các nhà học thuật thường nói đến các thành phần này. Vì sao? Vì quá trình hoạt động tâm thức của con người bị trở ngại bởi cảm quan và ý thức do tâm tiếp xúc với trần cảnh gây nên. Còn bậc giác ngộ không bao giờ bị chướng ngại hay vướng mắc bởi 6 căn, 6 trần, 6 thức.

Các cảnh giới trên có vẻ huyền bí đối với khoa học hiện nay. Tin hay không là tùy theo con người, chúng tôi không khích lệ cũng không phản đối.

 

Trong Kinh ĐBN quyển Kinh thuyết về danh sắc hay thân căn và khí thế gian cũng như những ảnh hưởng của nó trong đời sống con người có lẽ hay nhất là quyển 595 của phần “Bát Nhã Ba La Mật”. Kinh bảo nó không phải là cảnh sở hành. Vì sao? Vì tất cả pháp tự nó vô tri trong như “như tướng” của nó, nó “không dơ không sạch, không lưu chuyển, không thường, không vô thường, không vui, không khổ, không ngã, không vô ngã, không sạch, không phải không sạch, không trói buộc cũng không lìa trói buộc; tất cả pháp không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si; tất cả pháp chẳng tác giả, chẳng khiến tác giả...; tất cả pháp không tà kiến, không đoạn tà kiến, không ái, không đoạn ái; tất cả pháp không thiện, không phải không thiện v.v...” Nếu tri nhận tất cả pháp như vậy thì gọi là Bát nhã Ba la mật.

 Thấy sắc mê sắc, muốn nắm giữ, rồi sanh tạo tác. Từ đó sanh ra vui buồn, sướng khổ... Chiêu cảm ngũ dục lục trần lúc nào cũng đưa đến mất mát nhiều hơn là được. Đó chính là mối quan hệ nhân quả giữa các uẩn xứ giới trong cuộc đời thường tục. Nhưng nếu thấy thế giới nội và ngoại là “không thể thi thiết có đến có đi, có trụ không trụ; không thể thi thiết có xa có bờ kia; không thể thi thiết có yêu có giận, có sợ có si; không cho không lấy, không giữ giới không phạm giới, không nhẫn không phải không nhẫn, không tinh tấn, không giải đãi, không đẳng trì, không loạn tâm, không diệu tuệ không ác tuệ, không điên đảo không phải không điên đảo, không hữu lượng không vô lượng, không thần thông không phải không thần thông, không phải Không không phải chẳng Không, không hữu tướng không vô tướng, không hữu nguyện không vô nguyện, không hữu vi không vô vi, không hữu lậu không vô lậu, không thế gian không xuất thế gian, không có buộc không lìa buộc, không hữu trước không vô trước, không hữu trí không vô trí, không nắm giữ, không lay động, không hý luận, không có tưởng không vô tưởng, không vắng lặng không phải không vắng lặng, không Niết bàn không phải không Niết bàn...” thì siêu xuất hồng trần tức được tịch tĩnh an nhiên. Vì sao?

Vì tất cả pháp trên là nhị pháp, còn nằm trong nhị pháp là còn khổ, dứt khỏi nhị pháp liền hết khổ, tức được Niết bàn. Tri giác được như vậy tức là trí tuệ, là Bát nhã Ba la mật. Đó là lối nói của Chân đế hay Đệ nhất nghĩa đế. Do đó, trong Tâm Kinh Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát mới bảo Xá Lợi Tử: “Này Xá Lợi Phất! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng lại như thế”. Nếu coi năm uẩn, lục căn sáu trần tức 12 xứ, 18 giới là không, tức tâm không, vật cũng không, trong ngoài rỗng không trong suốt thì không còn quái ngại nữa.

 

Một thầy Bà La môn tên là Móng Tay Đen mang hai cây bông nguyên cành rễ khổng lồ đến cúng Phật. Phật gọi tên liền dạ. Phật bảo “buông xuống đi”. Thầy Bà La Môn bỏ cây hoa bên tay trái xuống. Phật bảo buông xuống nữa, thầy bỏ cây hoa bên tay phải xuống. Phật bảo bỏ hết đi. Thầy Bà La Môn bạch Phật: “Con còn gì đâu mà bỏ. Phật muốn dạy gì?” Phật đáp: “Ta không bảo thầy bỏ mấy cây hoa, Ta bảo thầy bỏ cả 6 căn 6 trần 6 thức. Khi thầy bỏ đựợc không còn gì để bỏ hết, đó là lúc thầy thoát ly tất cả ràng buộc của sanh tử luân hồi”.

 

Đó là những gì chúng tôi nêu ra về uẩn, xứ giới liên hệ đối với sinh hoạt tâm linh của chúng ta. Phật đạo xây dựng cơ đồ trên các thành tố này. Đối thoại giữa Phật và thầy Bà La Môn là một bài học quý báu cho chúng ta. Nếu biết theo chỉ dẫn này tu tập thì cũng có thể thoát ly sanh tử, không cần tu luyện các pháp môn cầu kỳ nào khác!

Đó là lý do tại sao Bồ Tát không tìm gốc rễ của mình trong 6 căn, 6 trần, 6 thức... Vì sao? Vì chúng là những cái lăng xăng, níu kéo chỉ làm khổ con người. Vậy khổ là do sáu căn tiếp xúc với sáu trần sanh ra thức vọng phân biệt chấp đắm làm cho “mất tâm”. Nên, phẩm “Quán Hạnh”, quyển 71, Hội thứ I, ĐBN Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện:

- “Sao gọi là Bát nhã Ba la mật?

Thiện Hiện trả lời:

- Có trí tuệ thắng diệu thì biết chỗ cần phải xa lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Xá lợi Tử hỏi:      

- Trí này đối với pháp nào mà được vĩnh viễn xa lìa?

Thiện Hiện đáp:

- Trí này đối với tất cả phiền não, kiến, thú được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với sáu cõi, bốn loài được vĩnh viễn xa lìa; trí này đối với tất cả uẩn, xứ, giới v.v… được vĩnh viễn xa lìa, nên gọi là Bát nhã Ba la mật”.

 

Sau đây là các đoạn kinh được dẫn chứng, nói lên quan điểm của Bát Nhã về nhân sinh và vũ trụ trong mối quan hệ của uẩn xứ giới trong sinh hoạt tâm linh, mấu chốt của đạo Phật nằm ở chỗ này:

 

- Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 594, Hội thứ XVI, ĐBN. Nói:

“Ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới chẳng phải là Bát Nhã, lìa ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới cũng chẳng phải là Bát Nhã. Vì sao? Vì bờ kia của ngũ uẩn chẳng phải là ngũ uẩn; bờ kia của thập nhị xứ, thập bát giới cũng chẳng phải là thập nhị xứ, thập bát giới. Bờ kia của ngũ uẩn không phải là ngũ uẩn, là nói sắc uẩn lìa buộc; bờ kia của thập nhị xứ, thập bát giới cũng không phải là thập nhị xứ, thập bát giới, là nói thập nhị xứ, thập bát giới lìa buộc.

Như bờ kia ngũ uẩn, ngũ uẩn cũng vậy, nói ngũ uẩn tự tánh như thế, tức nói ngũ uẩn như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Như bờ kia thập nhị xứ, thập bát giới; thập nhị xứ, thập bát giới cũng vậy, nói thập nhị xứ, thập bát giới tự tánh như thế, tức nói thập nhị xứ, thập bát giới như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc.

Như ngũ uẩn như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế. Thập nhị xứ, thập bát giới như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc, phải biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như thế.

Tất cả pháp chẳng phải Bát nhã Ba la mật; lìa tất cả pháp cũng chẳng phải Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì bờ kia của tất cả pháp không phải là tất cả pháp. Như bờ kia tất cả pháp, tất cả pháp cũng vậy. Trong đây, bờ kia của tất cả pháp không phải là tất cả pháp, là nói tất cả pháp lìa buộc.

Như bờ kia tất cả pháp, tất cả pháp cũng vậy. Nói tự tánh tất cả pháp như vậy, tức là nói tất cả pháp như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc.

Như tất cả pháp như sở hữu tánh, bản tánh bất khả đắc. Nên biết Bát nhã Ba la mật cũng lại như vậy.

“Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không nương vào sắc uẩn; cũng không nương vào thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Bát nhã Ba la mật không nương vào 12 xứ, 18 giới. Bát nhã Ba la mật không nương vào tất cả pháp.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bát nhã Ba la mật không ở trong sắc uẩn, không ở ngoài sắc uẩn, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Bát nhã Ba la mật cũng không ở trong thọ, tưởng, hành, thức uẩn, không ở ngoài thọ, tưởng, hành, thức uẩn, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Như vậy, Bát nhã Ba la mật không ở trong thập nhị xứ, thập bát giới, không ở ngoài thập nhị xứ, thập bát giới, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Bát nhã Ba la mật không ở trong tất cả pháp, không ở ngoài tất cả pháp, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ”.

Nếu thấy uẩn xứ giới là bất khả đắc thì có thể lìa buộc hay nói khác là không bị hệ lụy bởi chúng. Quan điểm Bát nhã Ba la mật ở đây là không nương vào uẩn xứ giới, cũng không nương vào tất cả pháp, vì tất cả pháp đều không. Nên, Bát nhã Ba la mật không ở trong tất cả pháp, không ở ngoài, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Bát nhã Ba la mật không trụ tâm, không trụ vật, xa lìa mà trụ. Vì Bát Nhã cũng là không, nên không bị chi phối bởi bởi nội tâm hay ngoại cảnh. Đối với Bát Nhã tất cả đều không hết. Nếu học được như vậy, nếu quán hành được như vậy là học là hành Bát nhã Ba la mật thiện xảo mau được vô thức, vô niệm, vô tâm.

 

- Cho nên, quyển 595, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI, ĐBN nói tiếp: “Này Thiện Dũng Mãnh! Sắc uẩn không phải sở hành sắc uẩn. Sắc uẩn không phải sở hành sắc uẩn nên không biết, không thấy. Nếu đối với sắc uẩn không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn không phải sở hành thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng không phải sở hành thọ, tưởng, hành, thức uẩn nên không biết, không thấy. Nếu đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật. Đối với 12 xứ, 18 giới cũng lại như thế, nên nói tất cả pháp không phải sở hành tất cả pháp. Tất cả pháp không phải sở hành tất cả pháp nên không biết, không thấy. Nếu đối với tất cả pháp không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật.

(...)Ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới cùng với uẩn, xứ, giới không hợp không lìa; không thêm không bớt; không dơ không sạch; không động chuyển, không tới không vào; không trói buộc không lìa trói buộc; không tử không sanh; không có pháp tận không có pháp không tận; không có pháp nhóm không có pháp diệt; không có pháp biến hoại không có pháp chẳng biến hoại; không thường không vô thường, không vui không khổ, không ngã không vô ngã, không sạch không phải không sạch; không có pháp tham, sân, si, không có pháp lìa tham, sân, si; chẳng tác giả, chẳng khiến tác giả, chẳng khởi giả, chẳng đẳng khởi giả, chẳng liễu giả, chẳng khiến liễu giả, chẳng thọ giả, chẳng khiến thọ giả, chẳng tri kiến giả; không đoạn không thường, không hữu biên không vô biên; không tà kiến không đoạn tà kiến, không ái không đoạn ái; không thiện không phải không thiện. Như vậy, ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới không hợp không lìa; không thêm không bớt; không dơ không sạch v.v... cho đến không thiện không phải không thiện, gọi là Bát nhã Ba la mật. Tất cả pháp cùng với tất cả pháp không hợp không lìa; không thêm không bớt; không dơ không sạch v.v... cho đến không thiện không phải không thiện. Tất cả pháp như vậy gọi là Bát nhã Ba la mật”.

Ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới cùng với uẩn, xứ, giới không hợp không lìa; không thêm không bớt; không dơ không sạch, không tới không vào, không trói buộc không lìa trói buộc, không thiện không phải không thiện... có nghĩa bao giờ cảm quan và ý thức của con người đối với vạn pháp còn phân biệt thế giới này là thế giới của sai biệt phân hai thì Bát Nhã không còn ở đó nữa. Vì tất cả pháp không có tự tánh, tất cả pháp như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, như đó là bình đẳng. Bình đẳng đó gọi là thanh tịnh... nên nói là chẳng hư vọng, chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, nên gọi là Bát nhã Ba la mật.

Quan điểm này gọi là chân như quan Bát Nhã. Vì tức cảnh sanh tình, tâm sanh động niệm, nên không được như như. Muốn được như như, Kinh bảo: “Nếu đối với tất cả pháp không biết, không thấy thì gọi là Bát nhã Ba la mật”. Không biết không thấy thì không phân biệt, không phân biệt thì không chấp, không chấp thì không vướng mắc quái ngại. Tâm sẽ được rỗng rang mới có thể lìa trần xa cấu mà được tự tại. Đoạn kinh này cùng một ý với đoạn kinh trên. Chỉ có cách diễn tả hơi khác, ý không khác.

 

- Phẩm “Khi Học”, quyển 520, Hội thứ III, ĐBN. Phật dạy:

- “Lại nữa, này Thiện Hiện! Sắc uẩn cho đến thức uẩn Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Mười hai xứ cho đến mười tám giới Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Nhãn xúc cho đến ý xúc Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát. Địa giới cho đến thức giới Không, là tánh bình đẳng của đại Bồ Tát ”.

Đoạn kinh này Phật bảo uẩn xứ giới không, là tánh bình đẳng của Bồ Tát. Thấy tất cả pháp đều không. Đó là cái thấy siêu việt trên mọi vật thể trần gian. Khi thấy và hiểu tất cả pháp như thế thì được xem là thành xong Đạo tướng trí. Trong không, không có sai khác, nên nói là bình đẳng. Chú ý đến giáo pháp này, toàn thể ĐBN là nói về Tánh không Bát Nhã.

 

- Quyển 293, phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

“Bạch Thế Tôn! Di Lặc Bồ Tát khi đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng những pháp nào? Và thuyết những pháp nào?

Phật bảo: Thiện Hiện! Di Lặc Bồ Tát Ma ha tát khi được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề chứng pháp sắc rốt ráo tịnh, nói pháp sắc rốt ráo tịnh. Chứng pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh, nói pháp thọ tưởng hành thức rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh, nói pháp thập nhị xứ rốt ráo tịnh. Chứng pháp thập bát giới rốt ráo tịnh, nói pháp thập bát giới rốt ráo tịnh. Chứng tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh, nói tất cả pháp Phật rốt ráo tịnh”.

Đoạn Kinh này Phật bảo khi Di Lặc Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì sẽ thuyết uẩn xứ giới và tất cả pháp rốt ráo tịnh.

 

Vì vậy, rốt ráo đoạn kinh sau đây của Phẩm “Chơn Như”, quyển 318, Hội thứ I, ĐBN, Phật bảo các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc:

“Đúng vậy! Đúng như lời các ngươi đã nói! Uẩn, Xứ, Giới cho đến tất cả pháp Phật tức là Nhất thiết trí trí, Nhất thiết trí trí tức là Uẩn, Xứ, Giới cho đến tất cả pháp Phật. Uẩn như, Xứ như, Giới như và tất cả pháp Phật như tức là Nhất thiết trí trí như, Nhất thiết trí trí như tức Uẩn Xứ Giới như cho đến tất cả pháp Phật như đều đồng một như, không hai, không khác, cũng không cùng tận.

Này các Thiên tử! Ta quán nghĩa này, tâm thường hướng đến chỗ vắng lặng, chẳng ưa thuyết pháp. Vì sao? Vì pháp này sâu xa khó thấy, khó biết, chẳng có thể suy tầm, vượt cảnh suy tầm, vi diệu vắng lặng. Người trí tuệ mới có thể hiểu được, chẳng phải hạng người tầm thường trong thế gian có thể tín thọ, đó là Bát nhã Ba la mật sâu xa tức là quả vị Giác ngộ tối cao mà Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã chứng”.

Khi nhập được pháp không, pháp như rồi thì vào được Phật đạo, sống trong đệ nhất nghĩa đế nên thấy tất cả pháp bình đẳng như như, không còn phân biệt chấp đắm nữa, nên tâm bất động mà sanh thật tướng. Vì giác biết tất cả pháp như pháp giới, như pháp tánh, như thật tế... nên nhập được chơn như, pháp giới mà được giác ngộ.

 

Tóm lại, quyển 594, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, nói: Nếu thấy uẩn xứ giới là bất khả đắc thì không nương tựa vào chúng, không nương tựa thì không bị hệ lụy bởi chúng. Bát nhã Ba la mật không ở trong tất cả pháp, không ở ngoài, không ở giữa hai, xa lìa mà trụ. Bát Nhã là vô niệm vô tâm nên không bị chi phối bởi sắc trần hay ngoại cảnh. Quyển 595, cũng của phần “Bát Nhã Ba La Mật”, nói: Ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới cùng với uẩn, xứ, giới không hợp không lìa; không thêm không bớt; không dơ không sạch, không tới không vào, không trói buộc không lìa trói buộc... Vì tất cả pháp không có tự tánh, tất cả pháp như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như, nên nói là chẳng hư vọng, chẳng đổi khác, tánh như sở hữu, nên gọi là Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, quyển 520, phẩm “Khi Học”, nói: Uẩn xứ giới không, là tánh bình đẳng của Bồ Tát. Quyển 293, phẩm “Thuyết Tướng Bát Nhã”, nói: Khi Di Lặc Bồ Tát chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì sẽ thuyết uẩn xứ giới và tất cả pháp rốt ráo tịnh. Quyển 76, phẩm “Tịnh Đạo”, nói: “Các đại Bồ Tát, khi tu hành sáu pháp Ba la mật thấy sắc tịnh; nên thọ, tưởng, hành, thức tịnh; thấy mười hai xứ tịnh, nên mười tám giới tịnh v.v...

Tất cả dẫn chứng trên cho chúng ta kết luận: Rốt ráo rồi tất cả uẩn xứ giới và các pháp đều đưa về không, như như, bình đẳng, thanh tịnh. Nên, quyển 318, phẩm “Chơn Như”, Hội thứ I, ĐBN nói: Uẩn, Xứ, Giới cho đến tất cả pháp Phật tức là Nhất thiết trí trí, Nhất thiết trí trí tức là Uẩn, Xứ, Giới cho đến tất cả pháp Phật”. Hiểu uẩn xứ giới như thế thì có thể chèo thuyền mà qua được bờ kia.

Vì vậy, chẳng cần lìa chẳng cần bỏ cả 6 căn 6 trần 6 thức. Sanh tử luân hồi cũng là nó, giác ngộ chứng Thánh cũng là nó! Nếu chúng sanh làm được như vậy thì trần trần không phải là bụi mà “Trần trần là báu”, “Tất cả thanh sắc đều là mắt tuệ Phật”.

Do đó, trong phẩm “Cầu Bát Nhã”, Kinh nói: “Chẳng phải trong sắc có thể đắc Như Lai, chẳng phải trong Như Lai có thể đắc sắc”. Nhưng rời sắc không có Như Lai, rời Như Lai không có sắc. Sắc cùng Như Lai, không phải một, không phải khác. Tất cả uẩn xứ giới và các pháp cũng đều như vậy. Đây, không phải là lời nói nghịch. Đây là tất cả những gì gọi là biểu thị của Bát nhã Ba la mật về nhân sinh quan và vũ trụ quan trong mối quan hệ giữa người (ngũ uẩn lục căn) và vạn pháp (nhất thiết pháp) mà chúng ta có thể tìm thấy bất cứ phẩm nào, phần nào hay Hội nào trong 600 quyển ĐBN.

 

Các dẫn chứng trên tuy có tham lam, nhưng thật sự rất hữu ích trong việc phân tích tâm thức của con người đối với ngoại cảnh. Con người có được Thánh thiện hay sa đọa đều bắt nguồn từ đó. Nếu biết rõ thì có thể tu, còn không biết thì chẳng khác chiến đấu với kẻ thù “vô hình”, phải sống trong mờ mịt đen tối thôi!

Kinh Lăng Nghiêm Phật bảo: “Thế nên, khi thấy, nghe, hay, biết mà khởi lên vọng niệm phân biệt, đó là gốc rễ của vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn. Ở trong chân tâm thanh tịnh không dung chứa bất cứ thứ nào khác!”

Tất cả những gì mà chúng tôi phân tích trên một phần thuộc Phân Tâm Học. Đó là những biểu thị của Bát Nhã đối với thế giới nội và ngoại mà chúng ta đang đối diện để sống hoặc trong đọa đày đau khổ hay Thánh thiện thanh thoát thôi!

Ở đây chúng tôi chỉ trình bày sơ về Nhân sinh quan và Vũ trụ quan có tánh cách thực dụng chung quanh các biểu thị của Đại Bát Nhã, chứ không viết thành một thể tài riêng. Cuối LUẬN #2 này chúng tôi trích dẫn bài viết của Ban hoằng pháp do HT Thích Thiện Hoa hướng dẫn và biên soạn trong Phật Học Phổ Thông (Khóa thứ V) dưới tựa đề là “Nhân Sinh Quan và Vũ Trụ Quan Thế Giới” có tánh cách “chuyên môn” hơn để Quý vị có cái nhìn rộng rãi về nhân sinh quan và Vũ trụ quan theo đà phái triển của đạo Phật qua không gian lẫn thời gian của 26 thế kỷ trước.

 

Xin trở lại vấn đề: Tất cả thuyết giảng trên không ngoài nói lên vai trò của uẩn xứ giới liên quan đến thế giới nội và ngoại có ảnh hưởng rất thiết thực đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của tất cả chúng sanh mà chúng tôi gói trọn trong đề mục tạm gọi là Nhân sinh quan và Vũ trụ quan hay nói chung là văn hóa theo quan niệm mới. Phần chánh của LUẬN #2 này nói về “các biểu thị của Bát nhã Ba la mật” sẽ tiếp tục thuyết giảng về các vấn đề như tâm và tâm sở, ngã và ngã sở, phân biệt và vô phân biệt, chấp và chẳng chấp cùng pháp môn bất nhị không kém phần quan trọng trong việc cải thiện nếp sống tâm linh.

 

2. Tâm & Tâm sở và Ngã & Ngã sở:

 

Đây là những biểu thị chính không những trong Kinh Đại Bát Nhã, mà chúng còn xuất hiện hầu hết trong tất các Kinh điển của Tiểu thừa lẫn Đại thừa.

 

1- Tâm & Tâm sở:

Chúng ta có thể lấy quyển 598, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, nói về tâm, tâm sở để mở đầu cho các đề mục kế tiếp:

“Phật bảo Thiện Dũng Mãnh:

Bởi đấy chấp đắm tâm tức là ngã, tâm là ngã sở, tâm nương nơi ngã, tâm từ ngã sanh. Sau người kia chấp tâm rồi, lại chấp là thiện, hoặc chấp phi thiện, hoặc chấp là vui, hoặc chấp là khổ, hoặc chấp là đoạn, hoặc chấp là thường, hoặc chấp kiến thú, hoặc chấp các che, hoặc chấp điên đảo, hoặc chấp bố thí xan tham, hoặc chấp trì giới phạm giới, hoặc chấp an nhẫn giận dữ, hoặc chấp tinh tiến lười biếng, hoặc chấp tĩnh lự tán loạn, hoặc chấp Bát Nhã ác huệ, hoặc chấp ba cõi, hoặc chấp duyên khởi, hoặc chấp danh sắc, hoặc chấp tham sân si, hoặc chấp ganh ghét keo rít thảy, hoặc chấp ngã mạn, hoặc chấp khổ tập diệt đạo, hoặc chấp lục đại chủng, hoặc chấp hữu tình pháp giới, hoặc chấp niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi, hoặc chấp tịnh lự giải thoát, đẳng trì đẳng chí, hoặc chấp vô lượng thần thông, hoặc chấp minh và giải thoát, hoặc chấp tận trí, vô sanh trí, hoặc chấp vô tạo tác trí, hoặc chấp Phật Pháp Tăng Bảo, hoặc chấp Thanh văn Độc giác Bồ Tát Phật địa, hoặc chấp Thanh văn Độc giác Bồ Tát Phật, hoặc chấp vô trước trí, hoặc chấp bát Niết bàn, hoặc chấp Phật trí, hoặc chấp tướng hảo, hoặc chấp cõi Phật, hoặc chấp Thanh văn viên mãn, hoặc chấp Độc giác viên mãn, hoặc chấp Bồ Tát viên mãn, hoặc chấp các tạp nhiễm thanh tịnh khác nữa.

Này Thiện Dũng Mãnh! Đối với các pháp môn như vậy mà các Bồ Tát không sanh tâm chấp trước, thấy biết các hữu tình đã tạo ra tâm, tâm sở điên đảo, và trong tất cả hoàn cảnh các Bồ Tát cũng không khởi tâm điên đảo, cũng không nương vào tâm sanh các điên đảo. Vì sao? Thiện Dũng mãnh! Vì các Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, xa lìa tâm, tâm sở điên đảo, chứng bản tánh tâm thanh tịnh trong sáng, trong đó hoàn toàn không phát sanh tâm, tâm sở.

Như vậy, khi hành Bồ Tát không nghĩ: Ta hành Bát nhã Ba la mật, nay ta nương vào đây mà hành Bát nhã Ba la mật, ta do đây mà hành Bát nhã Ba la mật, ta theo đây mà hành Bát nhã Ba la mật.

Hoặc các Bồ Tát nghĩ như vầy: Đây là Bát nhã Ba la mật, đây là do Bát nhã Ba la mật, đây là nương vào Bát nhã Ba la mật, đây thuộc vào Bát nhã Ba la mật. Vì họ nghĩ như vậy nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát nhã Ba la mật, các Bồ Tát không thấy, không đắc mà hành thì đó là hành Bát nhã Ba la mật”.

Tâm và tâm sở nói nôm na cũng bắt nguồn từ ngã và ngã sở mà ra. Tuy nhiên, trên phương diện phân tích tùy theo Pháp tướng, Pháp tánh hay Tam luận tôn (Tánh Không tôn)… mà có sai khác.

Theo Pháp Tướng Tôn hay Duy Thức tôn, Tâm còn gọi là Tâm vương gồm có: 1. Nhãn thức, 2. Nhĩ thức, 3. Tỷ thức, 4. Thiệt thức, 5. Thân thức,  6. Ý thức, 7. Mạt na thức và 8. A lại gia thức (còn gọi là Tàng gia thức). Sở dĩ, gọi Tâm vương vì tám món này tự tại, tự chủ như ông vua. Còn Tâm sở có 51 món (xúc, tác ý, thọ, ưởng, tư; dục, thắng giải, niệm định, huệ; tín, tinh tấn, tàm, quí, vô tham, vô sân, vô si, khinh an, bất phóng dật, hành xả, bất hại; tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến; phẫn, hận, phú, não, tật, san, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tùy, vô tàm, vô úy, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri). 51 món này tùy thuộc Tâm vương mà sinh khởi vì chúng giúp đỡ Tâm vương để tạo tác giống như quần thần giúp vua trong vấn đề triều chính.

Do đó, nên nói khi tâm khởi động thì tâm sở liền phụ họa theo, như khi ý (tâm vương) thấy một vật quý thì tâm sở sinh ra tham (tâm sở), khởi ra hành động là muốn chiếm đoạt. Đó là điên đảo. Vì vậy, Kinh bảo “Phàm phu ngu si nương vào cảnh duyên mà sanh tâm, tâm sở rồi chấp có duyên, chấp có tất cả tâm, tâm sở”.

 

Phật bảo tiếp:

“Này Thiện Dũng Mãnh! Phàm phu ngu si nương vào cảnh duyên mà sanh tâm, tâm sở rồi chấp có duyên, chấp có tất cả tâm, tâm sở. Các Bồ Tát biết duyên, tâm và tâm sở phát sanh hoàn toàn không có, nên không sanh tâm, tâm sở. Nếu Bồ Tát quán tất cả tâm, tâm sở như vậy thì được bản tánh thanh tịnh và trong sáng. Còn phàm phu ngu si thì điên đảo, vọng sanh tạp nhiễm nên nghĩ như vầy: Do duyên vào cảnh nên sanh tâm, tâm sở, biết rõ cảnh đã duyên vô sở hữu thì tâm, tâm sở đều không sanh. Đã không sanh thì cũng không trụ diệt, vì bản tánh của tâm, tâm sở trong sáng và thanh tịnh, lìa các tạp nhiễm, được thanh tịnh nên vui. Tánh của tâm không sanh cũng không trụ diệt; cũng không khiến pháp có sanh trụ v.v… Chỉ kẻ phàm phu ngu si mới chấp việc này một cách sai lầm, còn Bồ Tát thì biết bản tánh của tâm, tâm sở không sanh cũng không trụ diệt nên tu hành Bát nhã Ba la mật. Nếu các Bồ Tát có thể hành như vậy là hành Bát nhã Ba la mật”.

Tất cả đều do tham ái, chấp đắm. Nếu thấy biết tất cả pháp là không, không chấp nữa thì không điên đảo. Bồ Tát tu hành Bát nhã Ba la mật, xa lìa tâm, tâm sở điên đảo, nên chứng bản tánh tâm thanh tịnh trong đó hoàn toàn không phát sanh tâm hay tâm sở.

 

Để kết thúc đoạn Kinh của quyển 598, Phật bảo:

“Như vậy, khi hành Bồ Tát không nghĩ: Ta hành Bát nhã Ba la mật, nay ta nương vào đây mà hành Bát nhã Ba la mật, ta do đây mà hành Bát nhã Ba la mật, ta theo đây mà hành Bát nhã Ba la mật.

Hoặc các Bồ Tát nghĩ như vầy: Đây là Bát nhã Ba la mật, đây là do Bát nhã Ba la mật, đây là nương vào Bát nhã Ba la mật, đây thuộc vào Bát nhã Ba la mật. Vì họ nghĩ như vậy nên chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Đối với Bát nhã Ba la mật, các Bồ Tát không thấy, không đắc mà hành thì đó là hành Bát nhã Ba la mật”.

Kinh giải thích quá rõ nếu biết cảnh đã duyên vô sở hữu thì tâm, tâm sở đều không có chỗ duyên, không chỗ duyên thì không chỗ bám víu, nương tựa. Nếu không có chỗ bám víu nương tựa thì tất cả đều thanh tịnh. Đó là cái biểu thị dễ thấy nhất của tâm và tâm sở trong đoạn kinh ngắn này. Vấn đề là: Làm sao xa lìa được sở duyên, nếu hành được như vậy thì hết điên đảo sẽ được tịnh thôi.

 

2- Ngã & Ngã sở:

Giáo lý vô ngã là giáo lý phủ nhận thực thể của cái tôi trong sinh hoạt tâm linh. Nó là một thể tài quan trọng trong hệ Pali và văn chương A hàm trong việc giải thoát và chứng nhập Niết bàn. Đại thừa cũng xem ngã và ngã sở là những yếu tố lớn cản trở cho việc chứng đạo. Không có lời khẳng định nào chắc chắn hơn lời Phật dạy khi Phật bảo rằng cái tôi là nguồn gốc của vô minh và sinh tử luân hồi.

 

- Quyển 566, phẩm “Thông Đạt”, Hội thứ VI, ĐBN. Phật bảo:

“Nếu các đại Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành trì Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát quán sát năm uẩn sanh chẳng phải thật sanh, diệt chẳng phải thật diệt, tư duy năm uẩn đều rốt ráo Không, không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi; phàm phu điên đảo hư vọng chấp trước, phàm phu, chúng sinh sai lầm chấp ngã. Năm uẩn không phải là ngã, trong uẩn không có ngã. Ngã không phải là năm uẩn, trong ngã không có uẩn. Phàm phu ngu muội không như thật biết lăn lóc sinh tử như vòng lửa quay. Phàm phu ngu si vọng chấp là có, nhưng tất cả pháp tự tánh vốn Không, không sanh, không diệt. Duyên hợp lại gọi là sanh, duyên lìa tan thì bảo là diệt; thật không có sanh diệt...”

Kinh bảo: Ngã không phải là năm uẩn, trong ngã không có uẩn. Nếu ngu si vọng chấp năm uẩn là ta thì phải chịu lưu đầy trong sanh tử như vòng lửa quay. Đó là đề mục kế tiếp để thảo luận về những biểu thị của Bát Nhã.

 

- Ngã là tôi, là ta, cái rốn của vũ trụ; ngã sở hữu là cái của tôi, cái của ta, cái giành giựt, chém giết, tước đoạt, nắm bắt... Có anh có tôi là có chủ có khách, có phân chia ngăn cách. Đây là đầu mối của mọi tội lỗi, khổ đau, mọi sợ hãi, bất an... Vì coi trọng cái tôi nên muốn tâng tiu chiều chuộng, bồi dưỡng vun đắp để nó được vinh thân phì da, ăn trên ngồi trước, lấn ép, chà đạp kẻ khác. Cũng vì nó mà trở nên hèn hạ bẩn thỉu quên đi giá trị của một kiếp người. Nó là mối chướng ngại của đạo giác ngộ, nó là vô minh, điên đảo và cũng vì nó nên phải quay đi lộn lại trong nhiều đời nhiều kiếp.

Ngã về phương diện tinh thần lắm khi đưa đến thân kiến, biên kiến, kiến thủ, tà kiến v.v... Thân kiến tưởng rằng cái ngã của chính mình là lớn nhất và là tài sản quí báu nhất, người khác không đáng kể. Biên kiến là chấp vào một bên hay cực đoan như chấp có, chấp không, chấp thường, chấp đoạn v.v... Kiến thủ là chấp trước và ôm cứng sự thấy biết trái với chánh lý. Từ các kiến chấp sai lầm mà phát sanh ngã mạn, kiêu căng v.v... Hậu quả của ngã chấp chính là tạo nghiệp nên phải trôi lăn trong lục đạo luân hồi; còn phá ngã tức Niết bàn hay giải thoát.

- Đó là nói về ngã, còn quyền tư hữu thì sao? Quyền tư hữu cũng không ngoài “cái của tôi, cái của anh”, cũng lại là mối hăm dọa lớn không những cho một cá nhân mà cho cả cộng đồng thế giới. Lịch sử nhân loại chứng minh biết bao đổ vỡ, tang tóc đều bắt nguồn từ quyền tư hữu này. Vì vậy, cái cao cả nhất của đạo Phật là chủ trương vô sở hữu, người tu chỉ có tam y nhất bát, cơm hẩm sống qua ngày, áo rách cốt che thân. Sống muốn ít, biết đủ, chỉ thích cho mà chẳng nhận!

Cho nên, phá ngã, diệt tội, thành thục chúng sanh, thanh tịnh quốc độ trở thành tôn chỉ quý báu không những cho những ai theo Phật Đạo mà cũng là tôn chỉ “xử thế” cho toàn thế giới. Liên Hiệp Quốc năm 2008 chính thức khuyến cáo các quốc gia trên thế giới nên lấy đạo Phật là tôn giáo chính của quả địa cầu này cũng vì những lý do đó.

 

- Quyển 319 và kế tiếp, phẩm “Chơn như”, ĐBN. Các Thiên tử cõi Dục và Sắc bạch Phật:   

“Bạch Thế Tôn! Pháp sâu mầu này chẳng vì nhiếp thủ tất cả pháp nên nói, chẳng vì xả bỏ tất cả pháp nên nói.

Bạch Thế Tôn! Các thế gian hữu tình tu hành tự nhiếp lấy, khởi chấp ngã, ngã sở rằng: Sắc là ngã là ngã sở, thọ tưởng hành thức là ngã là ngã sở. Nhãn xứ là ngã là ngã sở, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ là ngã là ngã sở. Sắc xứ là ngã là ngã sở, thanh hương vị xúc pháp xứ là ngã là ngã sở.

Nhãn giới là ngã là ngã sở, nhĩ tỷ thiệt thân ý giới là ngã là ngã sở. Sắc giới là ngã là ngã sở, thanh hương vị xúc pháp giới là ngã là ngã sở. Nhãn thức giới là ngã là ngã sở, nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới là ngã là ngã sở. Nhãn xúc là ngã là ngã sở, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc là ngã là ngã sở. Nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ là ngã là ngã sở, nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ là ngã là ngã sở.

Địa giới là ngã là ngã sở, thủy hỏa phong không thức giới là ngã là ngã sở. Vô minh là ngã là ngã sở; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là ngã là ngã sở. Bố thí Ba la mật đa là ngã là ngã sở; tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật đa là ngã là ngã sở.

Mười tám pháp không là ngã là ngã sở; thập nhị chân như là ngã là ngã sở; 37 pháp trợ đạo là ngã là ngã sở; Tứ đế là ngã là ngã sở; bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn vô sắc định là ngã là ngã sở. Tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ là ngã là ngã sở. Tam giải thoát môn là ngã là ngã sở; năm nhãn là ngã là ngã sở, sáu thần thông là ngã là ngã sở; tam ma địa môn là ngã là ngã sở, đà la ni môn là ngã là ngã sở; Phật mười lực là ngã là ngã sở, bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng là ngã là ngã sở; quả Dự lưu, quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán là ngã là ngã sở; Độc giác Bồ đề là ngã là ngã sở; Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí là ngã là ngã sở”.

Cái gì cũng cho là ta, là cái của ta. Tự mình chấp các thủ uẩn là ta, là của ta. Chấp các xứ giới và tất cả pháp Phật là ta, là của ta. Do chấp trước nên không thấy không biết thật tướng của tất cả pháp.

Phật thuyết tiếp:

“Bấy giờ, Phật bảo các Thiên tử: Đúng vậy! Đúng như các ông đã nói. Này các Thiên tử! Pháp thâm diệu này chẳng vì nhiếp thủ sắc mà nói, chẳng vì xả bỏ sắc mà nói; chẳng vì nhiếp thủ thọ, tưởng, hành, thức mà nói, chẳng vì xả bỏ thọ, tưởng, hành, thức mà nói.

Này các Thiên tử! Pháp thâm diệu này, chẳng vì nhiếp thủ các xứ giới và các pháp Phật mà nói, cũng chẳng vì xả bỏ các xứ giới và các pháp Phật mà nói.

Này các Thiên tử! Hữu tình ở thế gian phần nhiều tu hành tự nhiếp thủ rồi khởi chấp ta và của ta. Như nói: Sắc là ta, là của ta; thọ, tưởng, hành, thức là ta, là của ta. Tất cả xứ giới và các pháp Phật là ta, là của ta.

Này các Thiên tử! Nếu Bồ Tát vì nhiếp thủ sắc mà tu hành, vì xả bỏ sắc mà tu hành; vì nhiếp thủ thọ, tưởng, hành, thức mà tu hành, vì xả bỏ thọ, tưởng, hành, thức mà tu hành, thì Bồ Tát ấy chẳng có thể tu Bát nhã Ba la mật, cũng chẳng có thể tu tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật; Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng 18 pháp không; Bồ Tát ấy chẳng có thể chứng thập nhị chân như; Bồ Tát ấy chẳng có thể tu 37 pháp trợ đạo; Bồ Tát ấy chẳng có thể tu Tứ đế; Bồ Tát ấy chẳng có thể tu bốn tịnh lự, cũng chẳng có thể tu bốn vô lượng, bốn định vô sắc; Bồ Tát ấy chẳng có thể tu tám giải thoát, v.v... cho đến chẳng có thể tu Nhất thiết trí, cũng chẳng có thể tu Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí”.

“Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này tùy thuận tất cả pháp Phật (nghĩa là tùy thuận sáu pháp Ba la mật, tùy thuận pháp Tứ đế, tùy thuận 18 pháp không, tùy thuận 37 pháp trợ đạo, tùy thuận pháp không, vô tướng, vô nguyện, tùy thuận Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí v.v... nói chung là tất cả các pháp Phật).

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này hoàn toàn không có chướng ngại. Không chướng ngại đối với pháp nào? Không chướng ngại đối với căn trần xứ giới và tất cả các pháp Phật.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này lấy “không chướng ngại” làm tướng. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì tánh của hư không bình đẳng, vì tánh chơn như bình đẳng, vì tánh pháp giới bình đẳng, vì tánh của pháp tánh bình đẳng, vì tánh của tánh chẳng hư vọng bình đẳng, vì tánh của tánh chẳng đổi khác bình đẳng, vì tánh của tánh bình đẳng bình đẳng, vì tánh của tánh ly sanh bình đẳng, vì tánh của pháp định bình đẳng, vì tánh của pháp trụ bình đẳng, vì tánh của thật tế bình đẳng, vì tánh của hư không giới bình đẳng, vì tánh của bất tư nghì giới bình đẳng; vì tánh của không, vô tướng, vô nguyện bình đẳng; vì tánh của vô tạo, vô tác bình đẳng; vì tánh của vô nhiễm, vô tịnh bình đẳng.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này không sanh, không diệt. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì sắc không sanh, không diệt; vì thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt. Vì các xứ giới và tất cả các pháp Phật không sanh không diệt.

Bạch Thế Tôn! Pháp thâm diệu này hoàn toàn không có dấu vết. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì dấu vết của sắc chẳng thể nắm bắt được; vì dấu vết của thọ, tưởng, hành, thức chẳng thể nắm bắt được. Vì dấu vết của xứ giới và các pháp Phật chẳng nắm bắt được.

Khi ấy, các Thiên tử cõi Dục, cõi Sắc thưa với Phật rằng:

Bạch Thế Tôn! Thượng tọa Thiện Hiện tùy Như Lai sanh, là chơn đệ tử của Phật. Vì sao? Vì tất cả các pháp mà Thượng tọa Thiện Hiện đã nói đều tương ưng với không”.

Vì nhiếp thủ các pháp, khởi lên sai lầm rồi chấp ta và của ta. Như nói: Sắc là ta, là của ta; thọ, tưởng, hành, thức là ta, là của ta. Tất cả xứ giới và các pháp Phật là ta, là của ta. Do chấp như thế nên không thể tu, không thể chứng. Tất cả pháp sâu mầu mà Phật nói đây là các pháp như. Đã là pháp như, như đó là như thường tại, chẳng lúc nào chẳng như, chẳng biến dịch đổi dời, sanh diệt, có không. Nếu hiểu ra như thế sẽ thấy tất cả pháp là bình đẳng mà được thanh tịnh.

Lối diễn đạt của Bát Nhã cỏ vẻ dài dòng, trùng tụng trong toàn thể phẩm “Chơn Như” của Hội thứ I. Nhưng đó là lối hóa đạo hữu hiệu. Nó cố gột rửa tâm thức để trở về cái bản nguyên thanh tịnh của thuở ban đầu. Nên phải kiên nhẫn lắng nghe thôi!

 

- Quyển 465, phẩm “Biển Học”, Hội thứ II hay quyển 527, phẩm “Huệ Đến Bờ Kia”, Hội thứ III, ĐBN. Phật bảo:

Tu Bồ Đề! Kẻ trụ tưởng có, chẳng năng tu bố thí Ba la mật cho đến Bát nhã Ba la mật v.v... Cũng chẳng năng tu chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cũng chẳng năng tu Nhất thiết trí trí. Cũng chẳng năng tu dứt hẳn tất cả phiền não tập khí nối nhau. Vì sao? Kẻ trụ tưởng có tất sẽ chấp có ngã và ngã sở. Bởi chấp đây nên bèn mắc hai bên. Vì mắc hai bên quyết định chẳng năng giải thoát sanh tử, không đạo không Niết bàn, làm sao năng như thật tu sáu Ba la mật cho đến dứt hẳn tất cả phiền não tập khí nối nhau.

Kẻ trụ Có trụ Không tức trụ hai bên. Đã trụ hai bên nên vướng vào nhị biên. Pháp Phật là pháp môn bất nhị. Đã trụ nhị biên tức chấp ngã, ngã sở nên không hiện quán, không đắc quả, cũng chẳng giải thoát sanh tử, không đạo, không Niết bàn làm sao tu Bát nhã Ba la mật để chấm dứt tất cả các phiền não tập khí nối nhau mà giải thoát.

  

- Phẩm “Bình Đẳng”, quyển 570, Hội thứ VI, ĐBN. Phật dạy Thắng thiên vương Bát Nhã: “Này đại vương! Bình đẳng là quán các pháp không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng. Tất cả phiền não, giả dối, phân biệt, không sinh không diệt tự tánh vắng lặng, gọi là bình đẳng. Danh tướng, vọng tưởng không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng gọi là bình đẳng. Diệt trừ các điên đảo, không sinh tâm phan duyên gọi là bình đẳng. Khi tâm năng duyên đã diệt, thì vô minh hữu ái đều vắng lặng. Si ái đã diệt, nên không sinh ngã và ngã sở, gọi là bình đẳng. Ngã và ngã sở diệt, thì danh sắc vắng lặng, gọi là bình đẳng. Vì danh sắc diệt nên biên kiến chẳng sanh gọi là bình đẳng. Chấp đoạn, chấp thường đã diệt thì thân kiến vắng lặng, gọi là bình đẳng.

Này đại vương! Tất cả phiền não năng thủ sở thủ chướng ngại pháp lành đều nương vào thân kiến mà sinh ra. Bậc đại Bồ Tát diệt được thân kiến thì tất cả nghiệp tạo tác và kết sử đều đoạn dứt và vắng lặng. Ví như cây lớn, nếu nhổ gốc rễ thì cành lá đều bị khô héo. Cũng như người không đầu thì chết. Tất cả phiền não cũng vậy, nếu đoạn thân kiến thì kết sử tự diệt.

Này đại vương! Nếu có người quán các pháp không có ngã, thì năng thủ và sở thủ đều vắng lặng”.

Giáo pháp này quá thậm thâm, là pháp bảo trí tuệ: Trước hết kinh bảo tâm vắng lặng, chính là bình đẳng cũng như mặt nước hồ không gợn sóng thì đó chính là bình đẳng. Vậy bình đẳng pháp xuất từ tâm. Kế đến Kinh bảo tất cả gốc rễ phiền não đều nương vào thân kiến mà thân kiến là sào huyệt của ngã. Diệt thân kiến, ngã, ngã sở không nơi nương tựa thì tất cả kiết sử do đâu mà phát sanh? Rốt lại tu hành cốt là phá thân kiến hay nói khác là phá ngã!

Nếu quán các pháp không có ngã, thì năng thủ, sở thủ đều vắng lặng thì được thanh tịnh, an vui!

 

- Quyển thứ 20, phẩm “Học Không Bất Chứng”, MHBNBLMĐ, Tu Bồ Đề bạch Phật:

- “Bạch đức Thế Tôn! Chúng sanh qua lại trong sanh tử là do ngã và ngã sở?

- Nầy Tu Bồ Đề! Vì chúng sanh qua lại trong sanh tử nên biết là có cấu, có não.

Nầy Tu Bồ Đề! Nếu chúng sanh không ngã, ngã sở, tâm không chấp trước thì chẳng còn qua lại trong sanh tử. Nếu chẳng qua lại trong sanh tử thì không có cấu, não. Thế là chúng sanh có tịnh”.

Ngã và ngã sở chính là do chấp, chấp ta, chấp cái của ta. Vì chấp nên bám víu cái hư dối không thật nên phát sanh hành động tạo tác rồi gây nghiệp mà phải chịu lưu đầy trong ba cõi, sáu đường. Nếu không bị lưu đầy, không còn phiền não lậu tận thì sanh tịnh nên có thể đến bờ kia.

 

- Quyển 594, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo:

“... Nếu biết khắp ngã họ liền đến được bờ kia của các pháp. Vì sao gọi là bờ kia của các pháp? Nghĩa là tất cả pháp thật tánh bình đẳng, không đắc pháp này, cũng không chấp pháp này hoặc không đắc bờ kia, cũng không chấp bờ kia, đó gọi là người biết khắp đến bờ kia... ”

Vì vậy, câu nói: “vô ngã là Niết bàn” trở thành Thánh chỉ tu hành của những người tu Phật. Không những chỗ nào trong ĐBN mà trong tất cả Kinh điển Phật đạo cũng đều nói về ngã và ngã sở. Đó là những biểu hiện dễ thấy của Bát Nhã. Khi giác biết như vậy là thấy bờ kia của các pháp. Bờ kia của các pháp chính là Niết bàn thường lạc ngã tịnh. Thấy như vậy là siêu thoát!

 

Sau đây là câu chuyện đối thoại giữa Vua Di Lan Đà và

Tỳ kheo Na Tiên.

 

Chúng tôi trích dẫn một đoạn của Kinh Tỳ kheo Na tiên, trong tác phẩm “Vô Ngã Là Niết Bàn” của HT Thích Thượng Siêu để cống hiến Quý vị nhận định thêm “tất cả vạn hữu là thật hay muôn sự muôn vật chỉ là duyên hợp giả có, đương thể tức không, kể cái ngã hay thân xác con người”.

“Một hôm vua Di Lan Đà đến viếng chùa San khê đa (Sankheyya) và nhân đó gặp Tỳ kheo Na Tiên, tọa chủ chùa này. Vua hỏi: Bạch Đại đức, quý danh là gì?

- Người ta gọi bần Tăng là Na Tiên. Các pháp hữu của bần Tăng cũng gọi bần Tăng là Na Tiên. Nhưng đó là tên suông, đặt ra để phân biệt người nọ với người kia mà thôi, chứ trong cái tên đó, không hề có cái “ta” hay cái “của ta”.

Vua ngạc nhiên liền phân bua với người chung quanh:

- Các vị hãy ghi nhớ lời của Đại đức Na Tiên vừa nói. Ngài nói không có cái ta trong cái tên Na Tiên, có tin được chăng?

Phân bua xong, vua hỏi tiếp:

- Bạch Đại đức, nếu không có cái “ta” trong đó thì khi thí chủ cúng dường y bát, vật thực v.v... ai thâu nhận? Ai bảo tồn luân lý, đạo nghĩa? Ai tham Thiền nhập định? Ai hành đạo nhập Niết bàn? Ai giữ giới? Ai phạm giới? Ai tạo nghiệp? Ai chịu quả? Nếu có kẻ giết Đại đức cũng không phạm tội sát sanh ư? v.v... Trẫm chưa rõ, mong Đại đức giải thích cho. Thưa Đại đức, đã nghe rõ chưa?

- Tâu Đại vương, đã nghe rõ.

- Người nghe đó có phải là Na Tiên không? Vua hỏi.

- Không phải. Na tiên đáp.

- Thế thì ai là Na Tiên? Tóc trên đầu Ngài đó không phải là Na Tiên?

- Không phải.

- Mặt, mày, da, thịt Ngài đó không phải là Na Tiên?

- Không phải.

- Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý Ngài đó không phải là Na Tiên?

- Không phải.

- Tất cả các thứ ấy gom lại không phải là Na Tiên?

- Không phải.

- Hay ngoài các thứ ấy là Na Tiên?

- Không phải.

- Thế sao đoạn trước Đại đức bảo với trẫm rằng người ta gọi Đại đức là Na Tiên, như thế là Đại đức đã nói dối?

Đại đức Na Tiên chậm rãi tâu:

- Tâu Đại vương! Chẳng hay Đại vương đến đây đi bộ hay đi xe?

- Trẫm đến bằng xe, chỉ khi tiến vào đây, trẫm mới đi bộ.

Nghe xong Đại đức Na Tiên liền phân bua với người xung quanh, xin các vị nhớ cho, Bệ hạ nói Bệ hạ đến đây bằng xe, có thể tin được không? Phân bua xong, Đại đức Na Tiên hỏi tiếp:

- Tâu Đại vương, Đại vương bảo rằng Ngài ngự đến bằng xe, đó là Ngài nói thật chứ?

- Trẫm nói thật.

- Vậy xin cho bần Tăng biết rõ xe của Bệ hạ: Gọng có phải là xe không?

- Không phải.

- Trục có phải là xe không?

- Không phải.

- Bánh có phải là xe không?

- Không phải.

- Căm, thùng, ách, dây cầm, có phải là xe không?

- Không phải.

- Hay các thứ ấy gom lại là xe chăng?

- Không phải.

- Hay ngoài các thứ ấy, còn có một thứ đặc biệt không dính gì các thứ ấy, gọi là xe?

- Không phải.

Đại đức dừng giây lát rồi tâu:

- Nãy giờ bần Tăng đã gạn hỏi tường tận các thứ, Bệ hạ đều trả lời là không phải xe. Như vậy, sao vừa rồi Đại vương nói với bần Tăng là Đại vương đến bằng xe. Điều đó tưởng đáng ngờ vực lắm! Xin Quý vị xung quanh hãy làm chứng cho”.

 

Qua cuộc đối thoại thâm thúy này… đủ để chứng tỏ Na Tiên chỉ là tên suông, chứ không có Na Tiên thật; xe cũng là cái tên suông, chứ không có xe thật. Na Tiên như vậy, xe như vậy, thì núi, sông, cây, cỏ, người, vật cũng đều như thế. Chúng đều là “giả hữu” (giả có) giữa các mối tương duyên, chứ không thật có.

Nhưng nói đi phải nói lại, không có ngã thì ai là người đi khất thực, ai là người thọ thực, ai tham thiền nhập định? Ai hành đạo? Ai phạm giới? Ai giữ giới? Ai tạo nghiệp? Ai chịu quả v.v…? Thật sự là có chủ thể, nhưng đừng chấp vào chủ thể đó để tu để chứng. Bát Nhã coi các chủ thể là giả tướng, giả danh, chỉ là danh tự, không thật!

Một khi ngã hiện diện thì cánh cửa đại bi đóng lại. Biết như vậy, thì mới có thể phá bỏ cái vỏ sò ích kỷ ngàn đời che mờ tâm thức hạn hẹp của chúng sanh mà thực hiện tứ vô lượng tâm cứu độ tất cả.

 

3. Phân biệt và vô phân biệt:

 

1- Phân biệt:

Phân biệt là một thứ nhận thức bất cứ lúc nào ở đâu cũng xảy ra trong tâm thức của con người thế tục. Có phân biệt là có chia chẻ, có năng sở chủ khách, có anh tôi, có buông bỏ nắm bắt, mất còn, v.v... Cái hố thẳm đó khó hàn gắn bởi vì tác ý đại Bi không còn ở đó nữa.

Nhưng phân biệt không đến nỗi quá tệ. Phật là người phân biệt giỏi nhất thế gian này. Nếu không có Phật ai là người có thể chỉ cho chúng sanh biết thế nào là tục, thế nào là chân, thế nào là mê ngộ, đoạn thường, khứ lai v.v... để chúng sanh tu tập mà giải thoát. Phật sống trong phân biệt nhưng không thấy sai biệt vì không chấp. Do công năng vô chấp mà Phật đã biến thức thành trí. Đó là vô phân biệt trí. Còn chúng sanh từ phân biệt khởi sanh chấp trước, nên tâm hành sai khác hoặc buông bỏ, nắm bắt, hoặc trọng khinh, hoặc thương ghét... Trọng thì thương yêu nên tìm cách gần gũi; khinh nên ghét bỏ, đuổi xô, xa lánh. Đó là thói thường của cuộc sống này, gây khổ mình khổ người.

Vậy, phân biệt không đáng trách, cái đáng trách chính là chấp trước, nó theo liền phân biệt. Nhưng dù sao phân biệt cũng là cánh cửa hé ra để cho chấp trước “lẻn” vào.

Rốt cuộc, đối với tất cả pháp Phật đều đưa đến kết luận: Chấm dứt sự sanh diệt của các cảm quan và thức vọng phân biệt hay nói khác là lìa phân biệt thì chứng được cái thấy biết bình đẳng. Đạt được cái thấy biết bình đẳng thì tâm thanh tịnh. Đó là chỗ rốt ráo của tu hành. Muốn được như vậy thì không nên phân biệt, không phân biệt khác. 

 

- Quyển 599, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật Bảo Bồ Tát Thiện Dũng Mãnh, nếu đối với căn trần xứ giới không trụ phân biệt, không phân biệt khác thì Do nhân duyên đây các Bồ Tát này đối các danh sắc chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác; đối các nhiễm tịnh chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối các duyên khởi chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối các điên đảo, kiến, che, ái hành chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác. Đối các đoạn thường chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác v.v…

Thiện Dũng Mãnh! Nói phân biệt là bên thứ nhất, phân biệt khác là bên thứ hai. Nếu đối chỗ này chẳng khởi phân biệt, không phân biệt khác, thời đối chỗ ấy xa lìa hai bên, cũng không có giữa.

Thiện Dũng Mãnh! Nếu bảo có giữa cũng là phân biệt, phân biệt giữa ấy cũng gọi có bên. Nếu có chỗ để phân biệt, thời đối chỗ đó có phân biệt khác. Do nhân duyên đây nên nói không dứt phân biệt. Nếu đối các chỗ không phân biệt, thời đối chỗ đó không có phân biệt khác. Do nhân duyên đây mới dứt phân biệt.

Đó là lời nói đầy trí tuệ phát xuất từ Bát nhã Ba la mật hay có thể nói phát xuất từ vô phân biệt trí. Nên có thể bảo đó là những biểu thị của Bát Nhã. Nếu áp dụng giáo lý này trong đời sống hằng ngày thì có thể xa lìa phiền não.

 

- Quyển 516, phẩm “Tướng Không”, Hội thứ III, ĐBN. Tu Bồ Đề thưa Phật rằng: Như Phật đã nói các hành đều do phân biệt khởi ra, từ vọng tưởng sanh, trọn chẳng thật có, vì nhân duyên nào các Bồ Tát Ma ha tát đây thảy được phước vô lượng, vô số, vô biên? Bạch Thế Tôn! Phân biệt làm ra các thứ phước nghiệp lẽ chẳng năng khởi chánh kiến thế gian, chẳng năng vào Chánh tánh ly sanh, cũng lẽ chẳng năng được quả Dự lưu cho đến quả Vô Thượng Bồ đề?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Như vậy. Như ngươi đã nói! Nhưng chúng Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm biết tất cả các thứ do phân biệt làm ra đều không, vô sở hữu, hư dối chẳng thật. Vì sao? Vì các Bồ Tát Ma ha tát khéo học nội không cho đến vô tánh tự Tánh không. An trụ các thứ không như thế rồi như như quán sát các thứ do phân biệt làm ra đều không, vô sở hữu, hư dối chẳng thật. Như vậy... là chẳng xa Bát nhã Ba la mật. Nếu chẳng lìa Bát nhã Ba la mật, sẽ được vô lượng vô số vô biên phước đức. Do nhân duyên đây thường khởi chánh kiến, cũng năng vào Chánh tánh ly sanh, cho đến năng được sở cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Vậy, điểm đáng nhớ là các thứ do phân biệt làm ra đều không, vô sở hữu, hư dối chẳng thật, do cảm quan và ý thức dối gạt mà không tự biết. Nếu biết và tự cảnh giác thì luôn luôn được tự tại, tự mình làm chủ cuộc đời mình. Đó là năng vào chánh giác, sống trong chánh niệm, chánh hạnh... thì được tự tại.

 

- Quyển 593, phần “Bát Nhã Ba La Mật”, Hội thứ XVI, ĐBN. Nói:

“Bồ Tát không do phân biệt mà khởi hành phân biệt. Nếu ở chỗ không có sở phân biệt, thì không phải chỗ này mà có sở hành. Nếu chỗ này không khởi phân biệt, thì không phải chỗ này lại có sở hành. Chư Phật Bồ Tát đối với tất cả hành không có phân biệt mà tu hành. Tất cả kiêu mạn rốt ráo không khởi, Bồ Tát biết tất cả pháp như vậy. Đối với tất cả pháp không còn dính mắc, không còn phân biệt, không dạo, không đi. Như vậy, gọi là chơn Bồ Tát hạnh, lấy vô sở hành làm phương tiện. Nếu các Bồ Tát có thể hành như thế thì gọi là Bồ Tát chơn hạnh”.

Có phân biệt là có chấp, có chấp là có phiền não. Nếu biết các thứ do phân biệt làm ra đều không, vô sở hữu, hư dối chng thật, thì tâm hành dứt, tức không còn tạo tác thi vi nữa, tâm sẽ được như như bất động. Đó chính là diệu huệ vô sở hành. Hành như vậy mới được gọi là Bồ Tát chơn hạnh!

Nếu không phân biệt các pháp thì cái gì xảy ra? Phẩm “Hiện Hóa”, phần giữa quyển 572, Hội thứ VI, ĐBN. Nói rằng: “…Không có phân biệt ấy chính là pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được hay mất đều bất khả đắc, chẳng sanh chẳng diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy, gọi là pháp không phân biệt”.

Không phân biệt thì muôn pháp đều tịch lặng, tâm hành dứt, lìa ngã và ngã sở. Nên được thanh tịnh.

                      

2- Vô phân biệt:

- Phẩm “Tùy Hỉ”, quyển thứ 21, MHBNBLMĐ. Tu Bồ đề bạch Phật:

“Bạch đức Thế Tôn! Như người thợ, vì có sự nghiệp phải làm nên thầy trò tạo ra người gỗ hoặc voi, ngựa, trâu, dê gỗ. Các hình gỗ đó cũng làm được việc mà vô phân biệt. Bát nhã Ba la mật cũng vậy, vì có sự việc phải làm nên nói sự việc ấy thành tựu, nhưng Bát nhã Ba la mật vô phân biệt”.

Xá Lợi Phất hỏi Tu Bồ Đề: “Chỉ có Bát nhã Ba la mật vô phân biệt thôi, còn năm Ba la mật kia có vô phân biệt chăng?”.

Tu Bồ Đề nói: “Năm Ba la mật kia cũng đều vô phân biệt”.

Xá Lợi Phất hỏi: “Sắc vô phân biệt, thọ, tưởng, hành, thức vô phân biệt, thập nhị xứ, thập bát giới vô phân biệt, tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ đến bát Thánh đạo, không, vô tướng, vô tác, mười trí lực, bốn vô úy, bốn vô ngại, đại từ đại bi, mười tám pháp bất cộng, Vô Thượng Bồ Đề, Vô vi tánh cũng đều vô phân biệt sao?”.

“Nếu tất cả pháp, từ sắc đến vô vi tánh đều vô phân biệt thì sao lại phân biệt sáu nẻo sanh tử: Đó là Địa ngục, là Ngạ quỷ, là Súc sanh, là A tu la, là Thiên, là Nhơn? Tại sao lại phân biệt là Tu Đà Hoàn, là Tư Đà Hàm, là A Na Hàm, là A La Hán, là Duyên giác, là chư Phật”?

Tu Bồ Đề nói: “Vì nhân duyên chúng sanh điên đảo tạo nghiệp nơi thân, khẩu, ý, theo nghiệp trước mà thọ thân sáu nẻo: Thân Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A tu la, Nhơn, Thiên. Còn tại sao phân biệt có Tu Đà Hoàn nhẫn đến chư Phật?

Xá Lợi Phất! Tu Đà Hoàn tức là vô phân biệt mà có. Quả Tư Đà Hàm cũng là vô phân biệt mà có. Nhẫn đến Phật và quả Phật cũng là vô phân biệt mà có. Chư Phật quá khứ cũng là vô phân biệt, do dứt phân biệt mà có.

Xá Lợi Phất! Vì thế nên phải biết tất cả pháp không có phân biệt, vì tướng của tất cả pháp là bất hoại, các pháp là như, là pháp tánh, là thật tế vậy.

Xá Lợi Phất! Thế nên đại Bồ Tát phải hành Bát nhã Ba la mật vô phân biệt. Hành Bát nhã Ba la mật vô phân biệt rồi thì được Vô Thượng Bồ Đề vô phân biệt”.

Vì vô phân biệt nên mới trở thành Tu đà hoàn đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Còn lúc nào cũng so đo phân biệt nên nói là sống trong mờ mịt tối tăm mới gọi là phàm phu tục tử. Đoạn Kinh này quá ngắn, giáo pháp lại quá đơn sơ, nhưng kết quả lại quá siêu việt. “Hành Bát nhã Ba la mật vô phân biệt rồi thì được Vô Thượng Bồ Đề vô phân biệt”. Không những MHBNBLMĐ mà bất cứ quyển nào của ĐBN cũng nói đến giáo pháp này.

 

- Phẩm “Tứ Niệm Xứ”, quyển thứ 27, Kinh MHBNBLMĐ. Phật hỏi:

- “Này Tu Bồ Đề! Ông cho quả Tu Đà Hoàn, quả Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán, đạo Duyên giác (Độc giác), Vô Thượng Bồ Đề là hữu vi hay vô vi?

- Bạch đức Thế Tôn! Đều là vô vi.

- Này Tu Bồ Đề! Trong pháp vô vi có phân biệt chăng?

- Bạch đức Thế Tôn! Không.

- Này Tu Bồ Đề! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thông đạt tất cả pháp hoặc hữu vi hoặc vô vi là nhất tướng, đó là vô tướng, thì có phân biệt là hữu vi hay vô vi chăng?

- Bạch đức Thế Tôn! Không.

- Như vậy, này Tu Bồ Đề! Đại Bồ Tát vì chúng sanh thuyết pháp chẳng phân biệt các pháp. Đó là vì (biết tất cả pháp) nội không nhẫn đến vô tánh tự Tánh không vậy.

Bồ Tát ấy tự mình được pháp không chỗ chấp trước rồi cũng dạy người khác pháp không chỗ chấp trước: Hoặc là sáu Ba la mật, hoặc là tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, hoặc là ba mươi bảy pháp trợ đạo nhẫn đến Nhất thiết chủng trí. Vì Bồ Tát này tự mình chẳng chấp trước, nên cũng dạy người khác được chẳng chấp trước.

Vì không chỗ chấp trước nên không quái ngại. Ví như hóa nhơn của đức Phật biến hóa ra, bố thí cũng chẳng thọ báo bố thí, chỉ vì độ chúng sanh. Nhẫn đến thành Nhất thiết chủng trí chẳng thọ báo Nhất thiết chủng trí.

Cũng vậy, đại Bồ Tát hành sáu Ba la mật nhẫn đến hành tất cả pháp, hoặc hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi, đại Bồ Tát chẳng trụ cũng chẳng thọ báo, chỉ vì độ chúng sanh.

Tại sao? Vì đại Bồ Tát ấy khéo thông đạt tất cả pháp tướng vậy”.

Thông đạt tất cả pháp tướng là như thế nào? Tất cả pháp là như, chẳng hư vọng, chân thật tràn đầy trong vũ trụ, cũng gọi là chơn như thật tánh. Tất cả là nhất tướng chỗ gọi và vô tướng. Nếu thông đạt như thế thì gọi là thông đạt tất cả pháp tướng hay nói khác là giác ngộ!

 

- Phẩm “Thấy Bất Động”, quyển 521, Hội thứ III, ĐBN, nói: Xá Lợi Phất! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quá khứ do không phân biệt, vì phân biệt dứt nên có thi thiết được(Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác). Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vị lai do không phân biệt, vì phân biệt dứt nên có thi thiết được. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại thế giới chư Phật mười phương cũng không phân biệt, vì phân biệt dứt nên có thi thiết được. Xá Lợi Phất! Do nhân duyên đây phải biết các pháp đều không phân biệt. Do không phân biệt, nên mới lấy chơn như, pháp giới nói rộng cho đến bất tư nghì giới làm định lượng vậy.

Xá Lợi Phất! Các Bồ Tát Ma ha tát nên hành sâu Bát Nhã không sở phân biệt như thế. Xá Lợi Phất! Nếu Bồ Tát Ma ha tát năng hành Bát nhã Ba la mật không sở phân biệt như thế bèn năng chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thanh tịnh, thường tận vị lai lợi vui tất cả.

Các pháp không tự biết các pháp, các pháp cũng không biết tất cả pháp chung quanh nó, các pháp như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như. Chỉ có con người do phân biệt danh sắc, tướng mạo nên nói như thế này hay thế khác, rồi sanh chấp trước. Đó là tự mình làm rối mình, nên nói là điên đảo.

Nếu hành Bát Nhã mà không thấy sở phân biệt như thế thì mau chứng Vô Thượng Bồ đề. Tuy nói như thế nhưng không phải thế. Bồ Tát phải tu hành đến ba A tăng kỳ kiếp tức vào hàng Bất động địa trở lên mới có thể đoạn phân biệt.

 

3- Đoạn phân biệt:

 

1/. Không phân biệt làm sao biết sai biệt mà nói chấp hay không chấp, đoạn hay không đoạn? Chỉ khi nào có kẻ nhận chân được sai biệt gây bất ổn hay tổn hại, thì bấy giờ kẻ ấy mới tìm cách đoạn trừ hay xa lìa.

Đây là một đoạn Kinh rất thực tế giúp chúng sanh trong cuộc đời thường có thể giải quyết vấn đề nan giải thuộc về phân biệt và phân biệt khác. Phẩm “Hiện Hóa”, phần giữa quyển 572, Hội thứ VI, Thiên tử Hiền Đức bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Thiên vương Tối Thắng đã nói không có sự phân biệt, đó là pháp nào?

Phật bảo Hiền Đức:

- Thiên vương nên biết! Không có phân biệt ấy chính là pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được hay mất đều bất khả đắc, chẳng sanh chẳng diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy, gọi là pháp không phân biệt. Nếu đại Bồ Tát quán như thế ấy, năng hộ được Chánh pháp, chẳng thấy pháp năng hộ và sở hộ... ”

Câu trả lời phù hợp với sự hiểu biết của thế gian: Pháp tịch tĩnh là pháp không có phân biệt. Muốn vậy thì phải lìa ngã và ngã sở. Nếu lìa ngã và ngã sở thì không còn năng sở. Năng là con người, con người do ý thức sai khác mà sanh phân biệt và sở là đối tượng của nhận thức. Nếu không còn năng sở, không có ngã-ngã sở, tất cả đều tịch tĩnh thì phân biệt ở đâu mà sanh?

Đây là giải pháp thực tế có thể áp dụng vào Đời hay Đạo.

 

2/. Nhưng phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 599, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật nói:

Đoạn trừ phân biệt nghĩa là trong đó hoàn toàn không có gì để đoạn trừ cả. Vì sao? Vì phân biệt, phân biệt khác là vô sở hữu, hư vọng nên phát sanh điên đảo; vì nó tịch tĩnh nên điên đảo cũng không có; vì điên đảo cũng không nên hoàn toàn không có chỗ đoạn trừ”.

Đây là chỗ tột cùng của Bát Nhã: Không có phân biệt cũng không có phân biệt khác, vì phân biệt và phân biệt khác đều vô sở hữu, hư vọng điên đảo phát sanh, không thật có. Vậy, đoạn trừ phân biệt mà không có gì để đoạn trừ. Đó không phải là thái độ phủi sạch mà pháp nhĩ tự nhiên như vậy chăng? Nên Phật thí dụ như khổ nếu hoàn toàn không phân biệt và phân biệt khác thì gọi là khổ tịch tĩnh, tức là làm cho khổ không còn có ý nghĩa phát sanh nữa, như vậy tức khổ tự đoạn. Vậy, đoạn mà không có gì để đoạn. Đoạn cũng chỉ là những động niệm cần phải lìa. Một khi lìa động niệm phân biệt chấp trước thì tâm thể được tịch lặng an nhiên.

Hai đoạn kinh này có cùng một quan điểm là cái tịch tĩnh của tâm đưa đến vô phân biệt. Vậy, biện pháp gián tiếp để đoạn phân biệt là có cái nhìn thanh tịnh (tịch tĩnh) thì có thể tránh phân biệt. Té ra phương pháp chữa bệnh tinh thần cho con người chính là im lặng. Có im lặng mới có tịch tĩnh hay thanh tịnh. Đó là bài thuốc hay nhất để chữa cái gọi là đảo điên của con người.

Chúng ta biết rằng Bát Nhã không ở giữa tương đối hay tuyệt đối, Bát Nhã cũng không ở giữa Tục đế hay Thánh đế, không ở giữa nhất thể hay đa thù, phiền não hay Bồ đề, vô minh hay giác ngộ v.v... Kinh bảo: “Bát Nhã không đứng bên này hay bên kia hay ở giữa hai; khi tùy thuộc phân biệt, Bát Nhã bị xa lìa, Bát Nhã không còn ở đó nữa!”

Tổ Tăng Xán mở đầu bài tụng “Tín Tâm Minh” với câu nói thời danh là “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch” - Chí đạo chẳng khó, cốt đừng chọn lựa! Còn thấy hữu còn thấy vô là tâm còn chia chẻ phân hóa, nghĩa là thức vẫn còn quanh quẩn trong vòng chọn lựa. “Sự phân hóa ấy chận đứng dòng ứng dụng thuần nhất của tâm, và như vậy chính tự mình đánh mất sự tự do ngay tự đầu nguồn. Những phương tiện phát sinh từ ý thức như vậy không còn là phương tiện thiện xảo nữa, nó không còn là phản ảnh của trạng thái Toàn Giác, Toàn Chân”(7). Chỉ giác ngộ khi không còn phân biệt.

Kinh thường nhắc nhở “Không phân biệt là không chấp”. Vì vậy, Kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo: “Nếu bỏ cái sinh diệt, giữ cái chân thường, cái Sáng Suốt Chân thường hiện tiền, các thứ tâm niệm căn, trần, thức đồng thời tiêu mất. Tướng của vọng tưởng là trần, tình phân biệt là cấu, cả hai đều xa lìa thì pháp nhãn của ông liền sáng suốt, làm sao lại không thành bậc Vô thượng Tri giác”.

Đó là cái biểu thị thứ ba thường thấy bất cứ chỗ nào trong ĐBN hay các Kinh Phật khác. Nhưng phân biệt cũng không đến nỗi quá tệ. Lên một tầng nữa, chính chấp trước đi liền theo đó mới đáng trách.

 

Kết luận:

(Cho phần nói về phân biệt và phân biệt khác)

 

Phân biệt là pháp tu hết sức quan trọng trong đạo Phật. Vì vậy, không những trong các Kinh thuộc hệ Bát Nhã mà còn trong các Kinh khác thuyết về pháp môn này kể cả một Kinh riêng có tên là “Phân Biệt Kinh”. Vì vậy, chúng tôi mới xếp pháp môn này vào LUẬN #2 với tựa đề là “Bát Nhã với những biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của nó”.

Trước khi chấm dứt 22 thuyết Bát Nhã trong phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 599, Hội thứ XVI, Phật thuyết về kết quả của việc xa lìa phân biệt và phân biệt khác như sau:

“…Nhờ vậy (nhờ xa lìa nhân phân biệt, phân biệt khác) mà chấm dứt tất cả nhân sanh về cõi ác, đoạn trừ và bít lấp những con đường tà vạy trong thế gian, xa lìa các ám chướng băng qua dòng thác bạo.

Đối với tất cả pháp được mắt thanh tịnh, đem lại ánh sáng lớn cho các loài hữu tình, nối dõi hạt giống Phật để không bị đoạn mất. Chứng đắc tánh bình đẳng của chơn đạo, thương xót hữu tình mà có pháp nhãn thanh tịnh, đầy đủ tinh tấn, xa lìa giải đãi, đạt được tâm an nhẫn và xa lìa sân hận, nhập các tĩnh lự không còn chỗ nương, đắc được chân trí tuệ, thành tựu trí tuệ thông đạt, trừ bỏ các việc ác, viễn ly các triền cái, thoát khỏi bẫy rập của ác ma, chặt đứt lưới ái, an trụ trong chánh niệm, được giới thanh tịnh đến bờ tịnh giới, an trụ vào các công đức, xa lìa các tội lỗi, an định tuệ không thể lay động. Tất cả các luận phái khác không thể nào bẻ gãy được, đắc các pháp thanh tịnh, vĩnh viễn không cho mất, giảng nói các pháp mà không có lo sợ, vào giữa đại chúng tâm không rụt rè. Bố thí diệu pháp không giấu tiếc, đem đạo bình đẳng làm sạch các đạo lộ, thề xa lìa tà đạo, tu những điều nên tu, đem các pháp thanh tịnh huân sâu vào những điều nên huân tập, đem trí tuệ thanh tịnh làm sạch những điều nên làm sạch, lòng độ lượng sâu rộng như biển lớn, yên lặng bất động khó lường, biển pháp vô biên không ngần mé.    

... Nếu các Bồ Tát hành như vậy, được thành tựu hạnh đó và vô biên các công đức khác thì công đức ấy khó lường được bờ mé của nó, ngoài Phật Thế Tôn ra không ai có thể biết được”.

Đoạn Kinh này thật siêu thoát. Dứt phân biệt thì đạo nhãn thanh tịnh. Đó gọi là tịnh hạnh, hạnh thanh tịnh thì thác cũng được sanh vào cõi Phật.

 

4. Chấp, chẳng chấp:

 

1- Trước & Chẳng trước tướng:

- Trong “Bát Nhã Bát Thiên Tụng”, Phật bảo ông Xá Lợi Phất:

“Này ông Xá Lợi Phất! Thực ra không có một pháp nào tồn tại, nếu không biết rõ như thế thì tức là vô minh. Phàm phu vì không biết như thế nên mới sinh lòng chấp trước, vì chấp trước nên cho tất cả pháp là thật có, vì cho các pháp thật có nên chấp trước nhị biên, và vì chấp trước nhị biên nên mới không thấy, không biết cái chân tướng của các pháp; vì không thấy, không biết nên chấp trước tất cả các pháp hiện tại, quá khứ, vị lai, do đó mới chấp danh sắc; vì chấp danh sắc nên cho các pháp đều thật có, bởi thế mà không thấy không biết được đạo như thật (Yathabhutam marga); vì  không thấy, không biết được đạo như thật nên không siêu việt được tam giới, không thấy rõ được thật tướng của tất cả pháp”.

Do phân biệt danh tướng các pháp rồi nắm giữ các nghĩ tưởng sai khác tạo thành thân kiến, biên kiến, kiến thủ... Có kiến là có chấp, có chấp thì mắc phải chướng, một thứ chướng mặc dù thuộc sở tri cũng không tránh khỏi bị trói dưới hình thức này hay hình thức khác, nên không thể giải thoát.

 

Phẩm “Phương Tiện Khéo Léo”, quyển 524, ĐBN. Phật bảo:

Tu Bồ Đề phải biết: Như ngu phu khi nghe nói khổ, chấp trước danh tướng, chẳng hiểu giả nói. Chẳng phải Như Lai và đệ tử Phật nghe nói khổ thảy đều chấp trước danh tướng. Nhưng như thật biết tùy thế tục nói danh tướng các pháp không có chơn thật. Nếu các Thánh giả đối danh chấp danh, đối tướng chấp tướng, thời các vị ấy cũng ưng đối không chấp không, đối vô tướng chấp vô tướng, đối vô nguyện chấp vô nguyện, đối chơn như chấp chơn như, đối với thật tế chấp thật tế, đối với pháp giới chấp pháp giới, đối với vô vi chấp vô vi.

Tu Bồ Đề phải biết: Tất cả pháp này chỉ có giả danh, chỉ có giả tướng mà không chơn thật. Thánh giả đối với tất cả pháp cũng chẳng chấp trước danh tướng. Như vậy, Tu Bồ Đề! Các Bồ Tát Ma ha tát đối tất cả pháp chỉ giả danh tướng, hành Bát nhã Ba la mật thậm thâm mà không sở chấp trước.

 

- Nên, phẩm “Nhiều Đức Tướng”, quyển 471, Hội thứ II, ĐBN. Nói:

“(...)Như kẻ được các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác biến hóa, dù hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật mà đối quả kia chẳng thọ chẳng trụ, chỉ vì độ hữu tình vào Niết bàn. Như vậy, cho đến dù hành Nhất thiết chủng trí mà đối quả kia chẳng thọ chẳng trụ, chỉ vì độ hữu tình vào Niết bàn vậy.

Các Bồ Tát Ma ha tát cũng lại như thế, khi hành sâu Bát nhã Ba la mật đối tất cả pháp thiện hoặc phi thiện, hoặc hữu ký hoặc vô ký, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, hoặc thế gian hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi hoặc vô vi đều không chấp trước, cũng không bị câu ngại. Vì sao? Vì khéo đạt thật tướng của các pháp vậy.

Ở đâu có phân biệt là ở đó có chấp trước hay ngược lại. Và một khi có chấp thì Bát Nhã không còn ở đó nữa. Phẩm “Nhiều Đức Tướng”, quyển 292, Hội thứ I, ĐBN nói rằng: “Nếu Bồ Tát tu Bát nhã Ba la mật chẳng chấp là sắc, cũng chẳng chấp do sắc, cũng chẳng chấp thuộc sắc, cũng chẳng chấp nương sắc. Tuy biết tất cả pháp như vậy mà chẳng chấp: Đó là đại Bồ Tát có khả năng tu hành Bát Nhã”.

 

- Thiền sư D.T. Suzuki ghi lại phẩm Phật Mẫu”, nói về vô trước như sau:

“Bồ Tát khi chứng đắc Giác ngộ, giảng cho hết thảy chúng sinh về pháp bất trước(aslesa). Bất trước có nghĩa là không bị buộc ràng bởi Sắc (rùpasyã-sambandhà), bởi Thọ (vedana), Tưởng (samjnă), Hành (samskàra) và Thức (vijnăna). Khi một người không bị buộc ràng bởi chúng, người ấy không hệ (lệ thuộc) vào sự sinh và diệt của chúng. Do vô sở trước, người ấy không nằm trong hệ phược hay giải thoát”.

“Bát nhã Ba la mật đa này thật khó tin, khó hiểu. Bởi vì, sắc (rupam) không phải phược (triền phược=trói buộc) không phải giải (giải thoát=cởi mở). Tại sao? Vì sắc lấy vô tánh (asvabhava) làm tự tánh. Các uẩn khác cũng vậy. Chúng không có tự tánh, không có tiền tế, không có trung tế, không có hậu tế. Vì không tự tánh là tự tánh của nó, nên không có trói buộc, không có cởi mở. Vì vậy, Bát nhã Ba la mật đa thật là khó đạt tới”.

“Nếu chấp vào danh (nàma) và tướng (nimitta), ấy là chấp trước (samga). Danh và tướng là những sản phẩm của phân biệt (vikalpa). Phân biệt xảy ra khi Bát nhã Ba la mật bị chấp trước là như vậy. Phân biệt, chấp trước và thất ly(8) trong Bát nhã Ba la mật là những chữ đồng nghĩa và thay thế nhau trong ngôn thuyết của Phật giáo Đại thừa. Sắc là không (rupam sunyam), nhưng khi khẳng nhận như thế, là chấp trước (samga), và chấp trước khiến chúng ta rời xa Bát nhã Ba la mật”.

“Giả sử một Bồ Tát phát tâm, đã trải qua tu tập Bồ Tát hạnh, và ôm giữ ý tưởng cho rằng do đó đã chứa nhóm công đức. Nhưng khi móng khởi tâm niệm này là đã có chấp trước, không còn tương ứng với Bát nhã Ba la mật. Bất cứ ở đâu có phân biệt, là có dẫn tới chấp trước; hoặc có thể nói ngược lại rằng bất cứ ở đâu có chấp trước là có phân biệt. Chỉ đạt tới Giác ngộ khi nào không có chấp trước, không móng khởi tâm niệm, không có hai tướng có và không (astitva và nastitva); vì giác ngộ là vô trước, và tự tánh của nó là không tự tánh”.

 “Vượt ngoài phân biệt, chấp trước, và không có tự tánh, còn được gọi là một cảnh giới của thanh tịnh tuyệt đối” (atyantavisuddhi). Và Kinh nói do bởi thanh tịnh tuyệt đối đó mà Bát nhã Ba la mật là quảng đại chiếu diệu, là vô hòa hiệp, là vô sở đắc, là vô sở chứng, là vô sở liễu tri, là vô sinh, là vô diệt, là vô trụ, v.v... ”.

 

- Phẩm “Tán Hoa”, quyển 554, Hội thứ IV, ĐBN cho ta một kinh nghiệm về việc hành trì Bát Nhã như sau:

“Khánh Hỷ nên biết! Vì pháp chẳng tu pháp, pháp chẳng thấy pháp, pháp chẳng biết pháp, pháp chẳng chứng pháp.

Khánh Hỷ nên biết! Tánh tất cả pháp không người tu; không người thấy, không người biết, không người chứng, không hành động, không tạo tác. Vì sao? Vì tất cả pháp hoàn toàn không tác dụng. Người thủ, sự thủ đều như hư không, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp chẳng thể nghĩ bàn, người và sự nghĩ bàn đều giống như người huyễn, vì tánh xa lìa vậy. Vì tất cả pháp không tạo tác, không lãnh thọ, như bóng sáng v.v... chẳng chắc thật vậy.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát luôn tu như vậy, luôn thấy như vậy, luôn biết như vậy, luôn chứng như vậy thì chính là hành Bát nhã Ba la mật, cũng không chấp trước tướng các pháp này.

Khánh Hỷ nên biết! Nếu đại Bồ Tát khi học như vậy là học Bát nhã Ba la mật”.

Nếu biết các pháp là không, các pháp là như, là bình đẳng, các pháp là vô tánh, vô tướng, các pháp là vô tánh tự tánh không, các pháp là giả danh, các pháp không thật, các pháp là trì độn vô tri, các pháp như huyễn như mộng, các pháp là viễn ly, là xa lìa, là tịch tĩnh v.v.. và v.v... Và biết áp dụng những đoạn Kinh ngắn trên để tu hành thì cũng đủ an thân lập mệnh, không cần phải tìm kiếm pháp nọ pháp kia.

 

2- Bát Nhã lấy “vô trước” làm tướng:

Đây là những đoạn kinh đầy trí tuệ, xin thủng thẳng thưởng thức:

 

- Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 597, Hội thứ XVI, ĐBN. Xá lợi Tử bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Như vậy, Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Bát nhã Ba la mật hoàn toàn không có tướng. Như hư không giới và phong giới không có chút pháp nào là những thực tại cứu cánh mà có thể chỉ tướng ấy. Cũng vậy, Bát nhã Ba la mật không có chút pháp nào là những thực tại cứu cánh mà có thể chỉ tướng ấy. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật này lìa các tướng, không có chút tướng nào có thể đắc.

Này Xá lợi Tử! Như cõi hư không không chỗ vướng mắc, không chướng ngại, Bát nhã Ba la mật này không chỗ vướng mắc, không chướng ngại. Do đây nên Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô trước làm tướng.

Này Xá lợi Tử! Không phải pháp vô trước có tướng có thể đắc. Nhưng vì tùy theo danh ngôn nghĩa lý thế gian mà nói như thế này: Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô trước làm tướng.

Này Xá lợi Tử! Tuy nói Bát nhã Ba la mật sâu xa lấy vô trước làm tướng, nhưng vì Bát nhã Ba la mật này không có tướng có thể đắc, nên không thể nói lấy vô trước làm tướng, vì pháp vô trước không có tướng trạng.

Này Xá lợi Tử! Nói vô trước ấy là chấp trước sự biết khắp, chấp trước chẳng thể được, chấp trước như thật tánh, biết khắp tất cả điên đảo chấp trước gọi là vô trước. Không phải trong các chấp trước có chấp trước khá được. Do đấy, nên nói chấp trước như thật tánh, chấp trước chẳng thể được.

Này Xá lợi Tử! Nói vô trước tức là Bát nhã Ba la mật; tức nói vô trước là tướng trí.

Này Xá lợi Tử! Các pháp đều lấy vô trước làm tướng. Vì tướng các pháp bất khả đắc nên gọi là tướng vô trước. Không có chút pháp nào vì khởi tướng mà hiện tiền. Vì ở trong đây không có tướng nào có thể đắc, nên gọi là vô tướng. Do vô tướng nên nói vô trước. Nếu tất cả pháp có chút tướng ấy thì ở trong đây có chấp trước có thể đắc. Vì tất cả pháp tướng đều không, nên trong đây không có chấp trước để có thể đắc. Nói các pháp lấy vô trước làm tướng, tuy là nói thế mà không như thế, vì tướng vô trước không thể nói được. Vì sao? Vì tướng vô trước vô sở hữu, tánh xa lìa nên bất khả đắc.

Lại, Xá Lợi Tử! Pháp vô trước tướng chẳng khá chỉ ra, không thể hiển rõ. Nhưng vì hữu tình phương tiện chỉ ra vô trước tướng đây, nên chẳng nên chấp.

Này Xá lợi Tử! Các tướng tạp nhiễm tức là vô tướng. Không phải pháp tạp nhiễm làm phát khởi tướng mà hiện tiền.

Này Xá lợi Tử! Các pháp tạp nhiễm, điên đảo hiện tiền, các điên đảo ấy đều là vô tướng. Nếu là vô tướng thì không thể nói được, nên pháp hữu tướng tức là vô tướng.

Này Xá lợi Tử! Các pháp thanh tịnh cũng không có tướng. Vì sao? Các pháp tạp nhiễm còn không có tướng huống gì pháp thanh tịnh mà có tướng được.

Này Xá lợi Tử! Nếu người có thể biết khắp tánh như thật của các pháp tạp nhiễm, thì với các tạp nhiễm kia đều bất khả đắc. Nhưng các hữu tình do điên đảo nên khởi các tạp nhiễm. Các điên đảo ấy đều không chơn thật. Nếu không chơn thật thì không có thật thể, cũng không có thật tướng. Nếu có khả năng biết khắp như thật tức là thanh tịnh. Các tướng tạp nhiễm còn bất khả đắc, huống là tướng thanh tịnh mà có thể đắc. Thế nên hai pháp thanh tịnh và tạp nhiễm đều không có tướng, không phải là thực tại cứu cánh.

Này Xá lợi Tử! Các pháp vô tướng không phải là thực tại cứu cánh gọi là vô trước. Nên nói các pháp lấy vô trước làm tướng, vì tất cả pháp lấy vô trước làm tướng nên nói là vô trước. Phàm phu ngu si chấp tướng vô trước.

Này Xá lợi Tử! Như vậy, nói tất cả pháp lấy vô trước làm tướng, phải biết tướng vô trước này tức là chỗ hành của trí, cũng là chỗ hành của Bát nhã Ba la mật. Chỗ hành của tướng trí vô trước này, cũng gọi là Bát nhã Ba la mật. Nên nói Bát nhã Ba la mật hành vô biên cảnh. Các tánh vô trước, nên biết đó gọi là hành vô biên cảnh.

Này Xá Lợi Tử! Chỗ sở hành ấy, phải biết đây chỉ rõ chỗ phi sở hành, vì Bát nhã Ba la mật sâu thẳm chẳng phải tướng hành xứ có thể năng chỉ rõ ra được.

Này Xá lợi Tử! Cảnh sở hành ấy, phải biết chỉ rõ cảnh phi sở hành. Vì tất cả pháp tánh như thật, tánh như sở hữu đều bất khả đắc. Vì tất cả pháp tánh như thật, tánh như sở hữu đều bất khả đắc, nên tất cả pháp chẳng phải cảnh sở hành. Vì tất cả pháp không tánh cảnh vậy. Nếu năng biết khắp các pháp như thế, đấy thời gọi là hành tất cả cảnh. Tuy nói như vậy mà như không nói gì. Nếu năng biết khắp các pháp như thế đều không chấp trước, gọi vô trước tướng. Do lý thú đây nên nói Bát nhã Ba la mật lấy vô trước làm tướng.

(...)Này Thiện Dũng Mãnh! Nói điên đảo tức là hư dối, là sự chấp trước của phàm phu ngu si. Các pháp như vậy, không có như vậy, chấp trước như vậy, không như tướng của nó, nên nói là điên đảo không thật. Các Bồ Tát không hành điên đảo, không hành không thật, do đây Bồ Tát gọi là thật ngữ, cũng được gọi hành giả không đạo.

Nếu thật không đạo, thời không sở hành, nên nói Bồ Tát hành không sở hành. Tất cả hành dứt gọi Bồ Tát hành. Bồ Tát hạnh không thể trình bày là đây, do đây, tại đây, từ đây, không thể hiển bày rõ ràng Bồ Tát hạnh. Vì sao? Thiện Dũng Mãnh! Vì các Bồ Tát dứt tất cả hành, hành hạnh Bồ Tát nghĩa là dứt hành có lấy đắm của dị sanh, Thanh văn, Độc giác, hành hạnh Bồ Tát”.

Hữu tướng cũng không, vô tướng cũng không. Pháp nhiễm cũng không, pháp tịnh cũng không. Vì tất cả pháp đều không, đều như rồi thì đồng một tướng chỗ gọi là nhất tướng. Trong nhất tướng không có phân biệt, nên nói là bình đẳng. Nên bình đẳng này mà gọi là thanh tịnh.

Đây không phải là một chuỗi dài lý luận mà là trực giác thực chứng phát khởi từ Bát Nhã. Thực chứng này tuôn trào từ cảm hứng sâu xa của cái thấy biết bình đẳng, không phân biệt, gọi là vô chấp. Do công năng do vô chấp nên không còn quái ngại thì được Vô trước trí cũng gọi là Phật trí.

 

- Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 597, Hội thứ XVI, ĐBN. Nói tiếp:

“Lại, Thiện Dũng Mãnh! Như vậy, Bồ Tát đối với các Phật pháp cũng lại chẳng hành, cũng chẳng chấp trước đây là Phật pháp, do đây Phật pháp, tại đây Phật pháp, thuộc đây Phật pháp. Như vậy, Bồ Tát cũng lại chẳng hành hạnh tất cả phân biệt phân biệt khác, nghĩa là các Bồ Tát chẳng hành phân biệt và phân biệt khác, vì dứt tất cả phân biệt phân biệt khác, gọi Bồ Tát hạnh”.

 

Đó là kết quả của cái gọi là không phân biệt, không chấp trước. Giáo nghĩa này quá thậm thâm. Rốt cuộc đừng giữ lại trong tâm bất cứ thứ gì cho dù Bồ Tát hạnh hay tất cả pháp Phật, thì được gọi là hành giả vô đạo hành. Hành mà không có sở hành nên không còn phân biệt, chấp trước nữa, nên nói là được vô trước trí. Kinh nói “... tất cả pháp lấy vô trước làm tướng, phải biết tướng vô trước này tức là chỗ hành của trí, cũng là chỗ hành của Bát nhã Ba la mật. Chỗ hành của tướng trí vô trước này, cũng gọi là Bát nhã Ba la mật”.

Dù nói là tạp nhiễm hay thanh tịnh, dù nói là hữu tướng hay vô tướng cũng không thoát khỏi nhị pháp, nghĩa là vẫn còn lẩn quẩn trong vòng trói buộc, nên không thể tránh khỏi sự bạo hành của nó. Chỉ khi nào thấy các pháp là không, là như, là bình đẳng thì được thanh tịnh. Lúc đó không còn phân biệt nên nói là vô trước, và khi đạt được vô trước trí thì không còn vướng mắc, quái ngại nữa?

 

3- Đoạn chấp.

 

- Phẩm “Thanh Tịnh”, quyển 559, Hội thứ V, ĐBN. Nói: “Nếu các Bồ Tát đối sắc bảo không, đấy gọi là chấp trước. Đối thọ tưởng hành thức bảo không đấy gọi là chấp trước. Đối pháp ba đời bảo pháp ba đời, đấy gọi là chấp trước. Bảo rằng các Bồ Tát phát tâm (tu Bồ Tát hạnh) được vô lượng phước sinh, đấy gọi là chấp trước”.

Cả phủ định hay xác định dù là sự thật theo quan niệm thông thường của chúng ta cũng là chấp trước. Khi ôm giữ một quan niệm hay một chủ trương nào đó có tánh cách phân biệt, so đo thì không tránh khỏi chấp trước. Chỉ không còn chấp trước khi không móng khởi tâm niệm, không có hai tướng. Nên phẩm “Thanh Tịnh”, quyển 559, nói tiếp: “Như thế, vì bản tánh các pháp duy nhất bất nhị, không tạo không tác, chẳng thể hay biết, chẳng thể phân biệt. Nếu các Bồ Tát năng biết như thế tức năng xa lìa được tất cả chấp trước”.

 

- Phẩm “Trước Chẳng Trước Tướng”, quyển 288, Hội thứ I, ĐBN. Nói:

“Vì tất cả pháp nhất tánh chẳng phải hai. Nên biết, các pháp nhất tánh tức là vô tánh; các pháp vô tánh tức là nhất tánh. Như vậy là các pháp nhất tánh vô Tánh không tạo, không tác. Nếu đại Bồ Tát có khả năng biết như thật các pháp hiện hữu là nhất tánh vô tánh, không tạo không tác thì có thể xa lìa tất cả chấp trước”.

Ở đây không nói đến vô tướng mà nói đến vô tánh(không có tự tánh). Nên không cần lìa cũng không cần đoạn tướng. Chỉ cần biết tất cả pháp nhất tánh vô tánh thì tâm không khởi, không khởi thì không sở hành, không sở hành thì không sở chấp, không sở chấp là không tạo tác thi vi nữa thì không cần lìa, không cần đoạn cũng tự nhậm mà lìa mà đoạn.

 

Kết luận:

 

Có bám vào uẩn xứ giới liền có dính mắc, có dính mắc là có quái ngại. Nhưng uẩn xứ giới là sanh địa, là môi trường sống, làm sao lìa chúng mà có thể sống. Tốt nhất là không biết không thấy. Nhưng làm sao sống mà không biết không thấy được? Có biết có thấy nhưng không phân biệt, không phân biệt danh tướng các pháp. Nếu thấy các pháp là vô tướng, thấy vô tướng thì không chấp tức không còn dính mắc nữa. Có dính mắc là có trói buộc, có hệ lụy. Không dính mắc thì không cần xa lìa. Không cần xa lìa, tự nhậm xa lìa gọi là Bát nhã Ba la mật. Thông đạt như vậy tức đạt được vô trước trí.

Đây chính giáo pháp đỉnh cao của Phật đạo, nó không phải là một chuỗi dài của những hệ luận đi từ diễn dịch này đến diễn dịch khác, cũng không phải là thứ loại suy suông, nó là những gì thật bình thường giản dị trước mắt, thấy như vậy biết như vậy. Đó là cái hiện tiền, không cần phải tìm đâu xa, “nó là nó” miễn đừng phân biệt chấp trước. Thế là đủ!

Đừng bao giờ dùng cảm quan và ý thức mà học Phật hay tiếp người xử vật. Như nhiều lần đã nói cảm quan và ý thức như một cái máy lọc nước lúc nào cũng giăng ra trước mặt, nó mau mắn cho qua những gì hợp với nó, và ngăn chặn loại bỏ những gì đi ngược lại nó. Nó là mạng lưới so đo, phân biệt! Chỉ khi nào ta ru ngủ được nó và thay thế vào đó bằng những kinh nghiệm thực chứng, thì thức biến thành trí, khi đó ta mới có hy vọng tháo gỡ được phân biệt chấp trước, tháo gỡ được mọi hệ lụy thế gian.

Để chứng minh lời nói nầy, chúng tôi dẫn chứng một đoạn Kinh trong phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 600, được xem là phần kết thúc cho 22 năm thuyết Bát Nhã của Phật, thuộc Hội thứ XVI. Phật bảo:

“Này Thiện Dũng Mãnh! Nói vô trước ấy là đối trong ấy trước chẳng thể được. Vì tánh trước vô trước, tánh trước không thật nên gọi vô trước. Vì đối trong ấy năng trước, sở trước, do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây đều chẳng thể được, nên gọi vô trước.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nói không buộc ấy, nghĩa là đối trong ấy buộc chẳng thể được. Vì tánh buộc không buộc, tánh buộc không thật, nên gọi không buộc. Vì đối trong ấy năng buộc, sở buộc, do đây, vì đây, nhân đây, thuộc đây đều chẳng thể được nên gọi không buộc.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu không dính, không buộc vào các pháp, vậy tại sao nói đối với pháp phải có mở?

Này Thiện Dũng Mãnh! Không dính, không buộc cũng không mở, lìa tất cả thì được an nhiên gọi là chơn giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu kẻ đối các pháp không dính mắc thời không bị trói buộc. Nếu đối các pháp không bị trói buộc thì không cần tháo gỡ. Xa lìa ba việc (không dính mắc, không trói buộc, không tháo gỡ), được an nhiên mới gọi là chơn giải thoát.

Này Thiện Dũng Mãnh! Như vậy Bồ Tát nào ngộ nhập được các pháp mà không dính không buộc cũng không mở, thì vị ấy sẽ đắc chơn trí tu hành Bát nhã Ba la mật.

Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu Bồ Tát hành được như vậy là gần quả vị Vô Thượng Bồ đề và mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Này Thiện Dũng Mãnh! Ta lấy pháp ấn vi diệu của Bát nhã Ba la mật thâm sâu này ấn chứng cho các đại Bồ Tát, giúp họ đoạn trừ lưới nghi rồi tinh tấn tu học Bát nhã Ba la mật để mau đến cứu cánh”.

“Bồ Tát nào ngộ nhập được các pháp mà không dính không buộc không mở, thì vị ấy sẽ đắc chơn trí tu hành Bát nhã Ba la mật”. Đó là pháp ấn của chư Phật. Người nào tu hành Bát Nhã được như thế sẽ được chư Phật ấn tâm, thì có thể tháo gỡ tất cả hệ lụy của thế gian. Thật là thậm thâm pháp bảo. Chẳng có gì có thể thêm thắc ở đây. Thọ trì và ngộ nhập các pháp môn này, thì được an nhiên tịch lặng mới gọi là chơn giải thoát.

 

5. Bất nhị pháp môn:

 

Phân biệt là một thứ chia chẻ, phân hóa dọn đường cho chấp trước. Rồi do chấp trước sanh điên đảo mới gây tạo tác thi vi. Vì tạo tác thi vi nên tạo nghiệp. Do tạo nghiệp chịu khổ nên sanh điên đảo, do điên đảo lại tạo tác mà phải trầm luân muôn kiếp. Một chu kỳ bất tận nên nói là trầm luân không bao giờ dứt. Thay vì là nhất thể, cái duy nhất một lại biến thành đa thù, chỉ đem lại phiền não... mà phiền não là kẻ thù của giác ngộ. Để đối trị với những sai lầm căn để đó, Phật thuyết “pháp môn bất nhị”. Một pháp môn tối thượng trong 84.000 pháp môn, nhằm hóa giải cái đảo điên phân hóa đó trong tri thức thường tục của chúng sanh.

 

1- Nhị pháp (pháp phân hai=dualistic):

Sanh và diệt là hai, ngã và ngã sở là hai, nhơ và sạch là hai, hữu lậu-vô lậu, hữu vi-vô vi, hữu tướng-vô tướng, thế gian-xuất thế gian, sanh tử-Niết bàn, phiền não-Bồ đề, chúng sanh-Phật, mê-ngộ, tội-phước, đoạn-thường, bỉ-thử, khứ-lai v.v... và v.v... tất cả là nhị pháp. Đó cũng gọi là pháp phân hai, chia chẻ, là các pháp đối đãi của cuộc đời thường. Ở đâu, bất cứ lúc nào, nó cũng hiện diện trên đầu môi chót lưỡi của chúng sanh. Nó tạo cái thế mâu thuẫn, chống đối... đem lại mất mát, phiền não giữa con người với con người, giữa con người với vạn hữu. Để lấp cái hố sâu điên đảo hý luận đó, Phật thuyết pháp môn bất nhị.

 

Phẩm “Học Đạo Khắp”, quyển 371, Hội thứ I; phẩm “Biển Học”, quyển 465, Hội thứ II hay phẩm “Huệ Đến Bờ Kia”, quyển 527, Hội thứ III, ĐBN. Phật bảo:

“... Kẻ trụ tưởng có tất sẽ chấp có ngã và ngã sở. Bởi chấp đây nên bèn mắc hai bên. Vì mắc hai bên quyết định chẳng năng giải thoát sanh tử, không đạo không Niết bàn, làm sao năng như thật tu sáu Ba la mật cho đến dứt hẳn tất cả phiền não tập khí nối nhau.

Huệ mạng Tu Bồ Đề lại thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Những gì là có? Những gì là chẳng có?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Hai là có. Chẳng hai là chẳng có.

Tu Bồ Đề lại hỏi: Sao là hai, sao là chẳng hai?

Thế Tôn bảo rằng: Tưởng sắc cho đến tưởng thức là hai. Tưởng sắc không cho đến tưởng thức không là chẳng hai. Tưởng nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ là hai. Tưởng nhãn xứ không cho đến tưởng ý xứ không, là chẳng hai.

Tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ là hai. Tưởng sắc xứ không cho đến tưởng pháp xứ không, là chẳng hai. Tưởng nhãn giới cho đến tưởng ý giới là hai. Tưởng nhãn giới không cho đến tưởng ý giới không, là chẳng hai v.v…

…Tưởng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cho đến tưởng ý xúc làm duyên sanh ra các thọ là hai. Tưởng nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ không cho đến tưởng ý xúc làm duyên sanh ra các thọ không, là chẳng hai.

Tưởng địa giới cho đến tưởng thức giới là hai. Tưởng địa giới không cho đến tưởng thức giới không, là chẳng hai.

Tưởng vô minh cho đến tưởng lão tử là hai. Tưởng vô minh không cho đến tưởng lão tử không, là chẳng hai. Tưởng bố thí Ba la mật cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật là hai. Tưởng bố thí Ba la mật không cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật không, là chẳng hai.

Tưởng nội không cho đến tưởng vô tánh tự Tánh không là hai. Tưởng nội không không cho đến tưởng vô tánh tự Tánh không không, là chẳng hai.

Tưởng chơn như cho đến tưởng bất tư nghì giới là hai. Tưởng chơn như không cho đến tưởng bất tư nghì giới không, là chẳng hai.

Tưởng khổ tập diệt đạo Thánh đế là hai. Tưởng khổ tập diệt đạo Thánh đế không, là chẳng hai v.v... cho đến tưởng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí là hai. Tưởng Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết chủng trí không, là chẳng hai.

Tưởng tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là hai. Tưởng tất cả hạnh Bồ Tát Ma ha tát, chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không, là chẳng hai. Tưởng hữu vi giới, vô vi giới là hai. Tưởng hữu vi giới, vô vi giới không, là chẳng hai.

Tu Bồ Đề! Cho đến tưởng tất cả đều là hai, tất cả hai đều là có, cho đến tất cả có đều là sanh tử. Kẻ có sanh tử chẳng năng giải thoát sanh lão bệnh tử. Các kẻ tưởng không đều là chẳng hai. Các kẻ chẳng hai đều là chẳng có. Các kẻ chẳng có đều không sanh tử. Kẻ không sanh tử bèn năng giải thoát sanh lão bệnh tử”.

Đó là các pháp đối đãi còn gọi là nhị pháp, pháp phân hai. Hậu quả của nó quá tai hại. Kẻ chấp hai đều là sanh tử, kẻ chấp không hai đều không sanh tử tức được Niết bàn. Đó là kết quả không thể ngờ được đối với người không chấp hai tướng CÓ-KHÔNG nữa.

 

2- Bất nhị pháp (pháp không hai = non-duality):

Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 594, Hội thứ XVI, ĐBN. Nói:

“(...)tất cả pháp không thêm không bớt, không hợp không lìa, không thiếu không đủ, không lợi không hại, không di chuyển không hướng đến, không sanh-không diệt, không dơ-không sạch, không lưu-chuyển không hoàn diệt, không tập khởi-không ẩn mất, không hữu tướng-không vô tướng, không bình đẳng-không phải không bình đẳng, không thế tục-không thắng nghĩa, không vui-không khổ, không thường-không vô thường, không sạch-không nhơ, không ngã-không vô ngã, không chắc thật-không hư dối, không người làm-không vật làm, không dung nạp-không phải không dung nạp, không tin hiểu-không phải không tin hiểu, không tự Tánh-không phải không tự tánh, không chết-không sống, không nổi-không chìm, không nối-không dứt, không hòa hợp-không phải không hòa hợp, không có tham-không lìa tham, không có sân-không lìa sân, không có si-không lìa si, không điên đảo-không phải không điên đảo, không sở duyên-không phải không sở duyên, không có tận-không phải không tận, không có trí-không phải không trí, không tánh thấp-không tánh cao, không có ân-không phải không ân, không đi qua-không trở lại, không có Tánh-không phải không tánh, không thương-không ghét, không sáng-không tối, không tinh tấn-không giải đãi, không phải Không-không phải chẳng Không, không hữu tướng-không vô tướng, không có nguyện-không vô nguyện, không tạo tác-không phải không tạo tác, không ẩn mất-không phải không ẩn mất, không vô minh-không giải thoát, không vắng lặng-không phải không vắng lặng, không Niết bàn-không phải không Niết bàn, không như lý-không phải không như lý, không biết khắp-không phải không biết khắp, không ra khỏi-không phải không ra khỏi, không điều phục-không phải không điều phục, không giữ giới-không phạm giới, không tán loạn-không phải không tán loạn, không diệu tuệ-không ác tuệ, không thức-không phải không thức, không trụ-không phải không trụ, không đồng phần-không khác phần, không có-không phải không có, không được-không phải không được, không hiện quán-không phải không hiện quán, không tác chứng-không phải không tác chứng, không thông đạt-không phải không thông đạt. Bát nhã Ba la mật sâu xa đối với tất cả pháp, không vì các sự việc này mà hiện tiền”.

Không hợp-không lìa, không thêm-không bớt, không được-không mất, không nọ-không kia... là pháp môn không hai, nhằm đối trị pháp phân hai trên, được Phật thuyết cả trăm lần trong toàn bộ Đại Bát Nhã.

 

Khác với ĐBN, Kinh Duy Ma Cật đề cập pháp môn này trong một phẩm riêng, phẩm thứ IX, có tên là “Vào Pháp Môn Không Hai”. Cư sĩ Duy Ma Cật đặt câu hỏi cho 32 vị Bồ Tát đến thăm bệnh mình: “Thế nào là vào pháp môn không hai?” Mỗi vị Bồ Tát tùy theo quan điểm riêng của mình, lần lượt trả lời và mỗi câu trả lời đó được xem như là một định nghĩa nhỏ của pháp môn bất nhị, tuy thâm thúy nhưng không tránh khỏi cục bộ. Còn người đặt câu hỏi là Trưởng giả Duy Ma Cật bày tỏ quan điểm của mình ra sao? Kết quả không kém phần lý thú:

“Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo các vị Bồ Tát rằng:

- Các Nhân giả! Thế nào là Bồ Tát vào “pháp môn không hai?” Cứ theo chỗ thích của mình mà nói. 

1/. Trong Pháp hộiBồ Tát tên là Pháp Tự Tại nói: - Các Nhân giả! “Sanh”, “diệt” là hai. Pháp vốn không sanh, cũng không diệt, đặng vô sanh pháp nhẫn, đó là vào “pháp môn không hai”. 

2/. Bồ Tát Đức Thủ nói: - “Ngã”, “ngã sở” là hai. Nhân có ngã mới có ngã sở, nếu không có ngã thời không có ngã sở. Đó là vào pháp môn không hai

3/. Bồ Tát Bất Thuấn nói: - “Thọ”, “không thọ” là hai. Nếu các pháp không thọ thời không có “được”, vì không có “được”, nên không thủ xả, không gây không làm đó là vào pháp môn không hai

4/. Bồ Tát Đức Đảnh nói: - “Nhơ”, “sạch” là hai. Thấy được tánh chân thật của nhơ thời không có tướng sạch, thuận theo tướng diệt, đó là vào pháp môn không hai

5/. Bồ Tát Thiện Túc nói: - “Động”, “niệm” là hai. Không động thời không niệm, không niệm thời không phân biệt; thông suốt lý ấy là vào pháp môn không hai

6/. Bồ Tát Thiện Nhãn nói: - “Một tướng”, “Không tướng” là hai. Nếu biết một tướng tức là không tướng, cũng không chấp không tướng mà vào bình đẳng, đó là vào pháp môn không hai

7/. Bồ Tát Diệu Tý nói: - Tâm Bồ Tát, tâm Thanh Văn là hai. Quán tướng của tâm vốn không, như huyễn như hóa, thời không có tâm Bồ Tát, không có tâm Thanh Văn, đó là vào pháp môn không hai

8/. Bồ Tát Phất Sa nói: - “Thiện”, “bất thiện” là hai. Nếu không khởi thiện và bất thiện, vào gốc không tướngthông suốt được, đó là vào pháp môn không hai

9/. Bồ Tát Sư Tử nói: - “Tội”, “phước” là hai. Nếu thông đạt được tánh của tội, thì tội cùng phước không khác, dùng tuệ kim cang quyết liễu tướng ấy, không buộc không mở, đó là vào pháp môn không hai

10/. Bồ Tát Sư Tử Ý nói: -“Hữu lậu”, “vô lậu” là hai. Nếu chứng được các pháp bình đẳng thời không có tướng hữu lậuvô lậu, không chấp có tướng cũng không chấp vô tướng, đó là vào pháp môn không hai. 

11/. Bồ Tát Tịnh Giải nói: - “Hữu vi”, “vô vi” là hai. Nếu lìa tất cả số thời tâm như hư không, dùng tuệ thanh tịnh không có chướng ngại, đó là vào pháp môn không hai

12/. Bồ Tát Na La Diên nói: - “Thế gian”, “xuất thế gian” là hai. Tánh thế gian không tức là xuất thế gian, trong đó không vào không ra, không đầy không vơi, đó là vào pháp môn không hai

13/. Bồ Tát Thiện ý nói: - “Sanh tử”, “Niết bàn” là hai. Nếu thấy được tánh sanh tử thời không có sanh tử, không buộc không mở, không sinh không diệt, hiểu như thế đó là vào pháp môn không hai

14/. Bồ Tát Hiện Kiến nói: - “Tận”, “không tận” là hai. Pháp đến chỗ rốt ráo thời tận hoặc không tận đều là tướng “vô tận”. Tướng “vô tận” tức là không, không thời không có tướng tận và không tận, được như thế đó là vào pháp môn không hai

15/. Bồ Tát Phổ Thủ nói: - “Ngã”, “vô ngã” là hai. “Ngã” còn không có, thời “phi ngã” đâu có được. Thấy được thật tánh của ngã không còn có hai tướng, đó là vào pháp môn không hai

16/. Bồ Tát Điển Thiên nói: - “Minh”, “vô minh” là hai. Thật tánh vô minh tức là minh, minh cũng không thể nhận lấy, lìa tất cả số, ở đó bình đẳng không hai, đó là vào pháp môn không hai

17/. Bồ Tát Hỷ Kiến nói: - “Sắc”, “Không” là hai. Sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không, tánh sắc tự không; thọ, tưởng, hành, thức cũng thế. Thức và không là hai. Thức tức là không, chẳng phải thức diệt rồi mới không, tánh thức tự không. Thông hiểu lý đó là vào pháp môn không hai

18/. Bồ Tát Minh Tướng nói: - “Tứ đại” khác “không đại” khác là hai. Tánh tứ đại tức là Tánh không đại, như lớp trước lớp sau không, thời lớp giữa cũng không. Nếu biết được thật tánh các đại thời đó là vào pháp môn không hai

19/. Bồ Tát Diệu Ý nói: - “Con mắt”, “sắc trần” là hai. Nếu biết được tánh của mắt thời đối với sắc không tham, không sân, không si, tức là tịch diệt. Tai với tiếng, mũi với hương, lưỡi với vị, thân với xúc, ý với pháp cũng là hai. Nếu biết được tánh của ý thời đối với pháp không tham, không sân, không si tức là tịch diệt. Nhận như thế đó là vào pháp môn không hai

20/. Bồ Tát Vô Tận Ý nói: - “Bố thí”, “hồi hướng nhất thiết trí” là hai. Tánh bố thí tức là tánh hồi hướng nhất thiết trí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền đinh, trí tuệ, hồi hướng nhất thiết trí cũng là hai. Tánh trí tuệ tức là tánh hồi hướng nhất thiết trí, ở trong đó vào “một tướng” là vào pháp môn không hai

21/. Bồ Tát Thâm Tuệ nói: - “Không”, “vô tướng”, “vô tác” là hai. Không tức là vô tướng, vô tướng tức là vô tác. Nếu không vô tướng, vô tác thời không có tâm, ý thức. Một món giải thoát là ba món giải thoát, đó là vào pháp môn không hai

22/. Bồ Tát Tịch Căn nói: - “Phật”, “Pháp”, “Chúng” (Tăng) là hai. Phật tức là Pháp, Pháp tức là Chúng. Ba ngôi báu ấy đều là tướng vô vi, cũng như hư không. Tất cả pháp cũng vậy, theo được hạnh ấy là vào pháp môn không hai

23/. Bồ Tát Tâm Vô Ngại nói: - “Thân”. “thân diệt” là hai. Thân tức là thân diệt. Vì sao? Thấy thật tướng của thân thời không thấy thân và thân diệt. Thân và thân diệt không hai, không khác, theo đó chẳng Kinh chẳng sợ là vào pháp môn không hai

24/. Bồ Tát Thượng Thiện nói: - “Thân thiện”, “khẩu thiện”, “ý thiện” là hai. Ba nghiệp này là tướng “vô tác”. Tướng vô tác của thân tức là tướng vô tác của khẩu, tướng vô tác của khẩu tức là tướng vô tác của ý. Tướng vô tác của ba nghiệp này tức là tướng vô tác của tất cả pháp. Tùy thuận trí tuệ vô tác như thế là vào pháp môn không hai

25/. Bồ Tát Phước Điền nói: - Làm phước làm tội, không làm (bất động) là hai. Thật tánh của ba việc làm tức là “không”, “không” thời không làm phước, không làm tội, bất động. Ở ba việc làm này mà không khởi là vào pháp môn không hai

26/. Bồ Tát Hoa Nghiêm nói: - Do “ngã” mà khởi ra hai là hai. Thấy được thật tướng của “ngã”, thời không khởi ra hai pháp. Nếu không trụ hai pháp thời không có “thức”. Không có thức là vào pháp môn không hai

27/. Bồ Tát Đức Tạng nói: - Có tướng “sở đắc” là hai. Nếu không có sở đắc thời không có lấy bỏ. Không lấy bỏ là vào pháp môn không hai

28/. Bồ Tát Nguyệt Thượng nói: - “Tối”, “sáng” là hai. Không tối, không sáng thời không có hai. Vì sao? Như vào diệt thọ tưởng định thời không có tối, không có sáng. Tất cả pháp tướng cũng như thế; bình đẳng vào chỗ ấy là vào pháp môn không hai

29/. Bồ Tát Bảo ấn Thủ nói: - Ưa Niết bàn, không ưa thế gian là hai. Nếu không ưa Niết bàn, không chán thế gian thời không có hai. Vì sao? Nếu có buộc thời có mở, nếu không buộc thì nào có cầu mở. Không buộc, không mở, thời không ưa, không chán, đó là vào pháp môn không hai

30/. Bồ Tát Châu Đảnh Vương nói: - “Chánh đạo”, “tà đạo” là hai, ở chánh đạo thời không phân biệt thế nào là Tà, thế nào là Chánh, lìa hai môn phân biệt đó là vào Pháp môn không hai

31/. Bồ Tát Nhạo Thật nói: - “Thực”, “Không thực” là hai. Thực thấy còn không thấy thực, huống là không thực thấy. Vì sao? Không phải mắt thịt mà thấy được, chỉ có mắt tuệ mới thấy được. Nhưng mắt tuệ không có thấy mà chỗ nào cũng thấy cả, đó là vào pháp môn không hai

Các Bồ Tát nói như thế rồi, hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: - Thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai

32/. Ngài Văn Thù Sư Lợì nói: - Như ý tôi đối với tất cả pháp không nói, không rằng, không chỉ, không biết, xa lìa các luận bàn, đó là vào pháp môn không hai

 

Khi đó Ngài Văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng: 

- Chúng tôi ai ai cũng phát biểu rồi, đến lượt Nhân giả nói thế nào là Bồ Tát vào pháp môn không hai

Ông Duy Ma Cật trên bục giảng im lặng không nói. Ngài Văn Thù Sư Lợi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Cho đến không có văn tự ngữ ngôn, đó mới thật là vào pháp môn không hai”.

Ba mươi hai câu trả lời là 32 định nghĩa nhỏ về pháp môn bất nhị này, cũng có thể gọi là 32 pháp môn bất nhị nếu muốn. Còn hơn thế nữa nếu tiếp tục hỏi thì có trùng trùng điệp điệp câu trả lời về pháp môn này. Cuộc đời thường là như vậy, chia chẻ phân hóa bất tận! Nói mãi không cùng, vì vậy mà Ngài Duy Ma Cật lên bục giảng chẳng buồn lên tiếng.

 

- Phần “Bát Nhã Ba La Mật”, quyển 594, Hội thứ XVI, ĐBN. Phật bảo: “Này Thiện Dũng Mãnh! Nếu các Bồ Tát không thấy Bồ đề có xa có gần, thì biết họ đã gần Vô thượng Bồ đề, cũng gọi là người chơn thật phát Bồ đề tâm. Ta nương nghĩa này mật ý nói rằng, nếu ai có thể tự biết có tướng không hai thì họ biết như thật tất cả pháp Phật... ”

“Xa” hay “gần” là nhị pháp, Phật mở miệng cũng nói nhị pháp. Nhưng, nếu tự biết tướng không hai thì Phật mật ý rằng người đó như thật biết tất cả pháp Phật. Phật cũng nói xa nói gần như chúng sanh, tức nói theo tục đế! Nhưng Phật là Phật, Phật khác với chúng sanh, vì Phật không có phân biệt, không chấp, không dính mắc. Nên Phật mới mật ý nói rằng: “Nếu ai có thể tự biết có tướng không hai thì họ biết như thật tất cả pháp Phật...”

Đó là câu nói có mãnh lực phi thường của Phật: Bồ đề không có xa có gần: “ ... nếu ai có thể tự biết có tướng không hai thì họ biết như thật tất cả pháp Phật”.

 

- Phẩm “Phương Tiện Khéo Léo”, Hội thứ III, ĐBN. Phật bảo:Phải đem bất nhị pháp mà làm phương tiện.

Tu Bồ Đề bạch Phật: Vì đem bất nhị pháp làm phương tiện thì được bất nhị pháp chăng?

Phật nói: Chẳng phải.

Tu Bồ Đề lại hỏi: Vì có nhị pháp được bất nhị pháp chăng?

Phật nói: Chẳng phải.

Tu Bồ Đề thưa rằng: Vì không nhị pháp được bất nhị pháp, các Bồ Tát Ma ha tát làm sao được Nhất thiết trí trí?

Phật bảo: Tu Bồ Đề! Pháp nhị chẳng nhị đều bất khả đắc. Vậy nên sở đắc Nhất thiết trí trí chẳng đem nhị pháp được bất nhị pháp. Nhưng pháp vô sở đắc năng được vô sở đắc. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật thậm thâm và Nhất thiết trí trí đều bất khả đắc, nên không đắc mà đắc mới gọi là chơn đắc”.

Chỉ có Phật mới có biện tài như vậy.

 

- Phẩm “Xá Lợi”, quyển thứ 11, MHBNBLMĐ, Phật bảo Kiều Thi Ca:

“(...)Vì Bát nhã Ba la mật chẳng hiện hành hai pháp. Pháp chẳng hai là Bát nhã Ba la mật. Nếu có người muốn pháp tánh có hai tướng, thời muốn Bát nhã Ba la mật có hai tướng. Tại sao? Vì pháp tánh và Bát nhã Ba la mật không hai không khác”.

 

3- Nhị, Bất nhị đều bỏ nốt:

 

- Phẩm “Bình Đẳng”, quyển thứ 86, MHBNBLMĐ nói: “Nếu không có pháp nhị, không có pháp bất nhị tức là đạo, tức là quả”.

 

- Phẩm “Học Đạo Khắp”, quyển 371, Hội thứ I, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Cái gì là hữu, cái gì chẳng phải là hữu?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Nhị là hữu, bất nhị chẳng phải hữu.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là nhị, thế nào là bất nhị?

- Này Thiện Hiện! Tưởng sắc là nhị, tưởng sắc không là bất nhị; tưởng thọ, tưởng, hành, thức là nhị, tưởng thọ, tưởng, hành, thức không là bất nhị.

- Này Thiện Hiện! Tưởng nhãn xứ là nhị, tưởng nhãn xứ không là bất nhị; tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là nhị, tưởng nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ không là bất nhị.

(…)Này Thiện Hiện! Tưởng cảnh giới hữu vi là nhị, tưởng cảnh giới hữu vi không là bất nhị; tưởng cảnh giới vô vi là nhị, tưởng cảnh giới vô vi không là bất nhị.

- Này Thiện Hiện! Cho đến tất cả tưởng đều là nhị; cho đến tất cả nhị là hữu; cho đến tất cả hữu đều là sanh, tử; hễ có sanh, tử thì chẳng có thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu, than, khổ, ưu, não.

- Này Thiện Hiện! Các tưởng không đều là vô nhị, vô nhị tức là phi hữu, phi hữu đều không sanh tử, không sanh tử thì có thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử…

Do nhân duyên này, nên biết tất cả người tưởng hai, nhất định không bố thí, không tịnh giới, không an nhẫn, không tinh tấn, không tịnh lự, cũng không Bát Nhã, không đạo không quả, cũng không hiện quán; cho đến thuận nhẫn còn chẳng có huống là biết khắp sắc, huống là biết khắp thọ, tưởng, hành, thức; huống là biết khắp xứ, giới; huống hồ biết khắp tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, mười tám pháp bất cộng, Nhất thiết trí… cho đến quả vị Giác ngộ tối cao. Họ còn chẳng có thể tu các Thánh đạo huống là đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, quả vị Độc giác; huống là có thể đắc Nhất thiết trí trí và có thể đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não tương tục”.

 

Lên một tầng nữa, nếu không thấy nhị pháp cũng không thấy bất nhị pháp là chứng đạo, tức đắc quả. Ngày nào còn quanh quẩn trên đường mòn nhị nguyên thì ngày đó không tránh khỏi trầm luân khổ ải, phải chịu đọa đày trong sanh tử thôi!

Rốt ráo rồi pháp “có hai - chẳng hai” cũng bỏ nốt. Nhập pháp môn bất nhị là nhập chơn như, pháp giới, pháp tánh... thì tâm thể nhất như (9), không còn bị hệ lụy bởi thế giới nội hay ngoại hay nói khác là không bị câu thúc bởi so đo, phân biệt, chấp trước của thế giới lưỡng nguyên nữa. Muốn được như thế thì phải vô phân biệt, vô trước, vô thủ, vô trụ, vô đắc, vô hộ, vô cần, vô tâm, vô niệm... Rồi ra, pháp nào pháp nào cũng đều là chân tông Bát Nhã, nói năng động tịnh đều về nguồn, sóng lặng bể yên thôi!

Vì vậy, trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm “Hộ Pháp”, Lục Tổ bảo:

“Đạo không có phiền não với Bồ đề đối đãi nhau. Vì sao? Vì phiền não tức Bồ đề, chẳng phải hai chẳng phải khác. Nếu lấy trí huệ chiếu phá phiền não, đó là kiến giải của hàng Thanh văn, Duyên giác cưỡi xe nai dê; hàng trí cao căn lớn quyết không như vậy.

Sáng với không sáng, kẻ phàm thấy “có hai”, bậc trí thấu rõ tánh nó “vô nhị”. Cái tánh vô nhị ấy là chân như thực tánh. Tánh ấy bình đẳng muôn vật, ở phàm ngu chẳng bớt, hiền Thánh chẳng thêm, ở phiền não chẳng loạn, ở thiền định chẳng tịch; cái thấy có nhị tuyệt đối ấy, thấy chẳng đoạn cương thường, chẳng đến chẳng đi, chẳng ở giữa chẳng trong ngoài, chẳng sanh chẳng diệt, tánh tướng như như, thường trụ chẳng dời, đó gọi là Đạo.

Nếu ông muốn biết chỗ tâm yếu của Thiền thì lành dữ tất chớ nghĩ đến thì tự nhiên ngộ nhập trong thể tánh thanh tịnh của tâm, tuy vắng lặng linh minh mà diệu dụng thì vô tận đáp ứng với thế sự vô cùng”. (10)

Muốn nhập pháp môn bất nhị thì đừng chấp đoạn-chấp thường, xa lìa hai chấp là vào được đệ nhất nghĩa mới thấy đạo. Phật nói như thế, Tổ nói như thế thì chỉ “có nước” là cúi đầu tin nhận thôi!

 

Kết luận:

(Về phân biệt, chấp trước và bất nhị pháp môn)

 

- Phân biệt và vô phân biệt, trước và chẳng trước... rốt lại cũng là pháp phân hai. Một pháp mô tả cái mâu thuẫn nằm trong những mâu thuẫn của thế giới lưỡng nguyên, là một đại bi kịch của nhân loại trong vấn đề nhân sinh và vũ trụ. Nhưng không có mâu thuẫn thì không có tiến bộ. Vậy mâu thuẫn không phải là điều đáng trách nếu chúng ta tìm thấy một thứ tiến bộ cần thiết nào đó trong thế giới tương đối này. Hủy diệt để rồi an lập, an lập rồi tiếp tục hủy diệt. Hai chiều đối lập tiếp diễn mãi trong lịch sử nhân loại, nhưng thế giới vẫn quay, nhân loại vẫn tiến. Vậy, hủy diệt và an lập chỉ là hai mặt của một đồng tiền, không thể thiếu vắng trong thế giới trùng trùng duyên khởi và hỗ tương của chúng.

Thế giới không thể an lập một chiều trong diễn trình trì trệ, tẻ nhạt của nó. Cách mạng chính là nhịp cầu giao duyên của những trắc trở, giữa phá hủy và xây dựng, giữa cũ và mới, giữa mâu thuẫn này với mâu thuẫn khác. Đó là lột xác, là đổi thể cần thiết của cuộc đời thường. Đừng xem thường sự kiện này trong cuộc đời hành đạo. Vì vậy, phải tự biết “Đem thuận nghịch chõi nhau, ấy là tâm bệnh!”

Nói nhiều cũng không ngoài khuôn sáo cũ, không ngoài Lý Sự, Có Không. Quán Đạt than: “Vừa dính môi lưỡi, liền rơi vào đối đãi, trọn vào cửa chết... !”(11) Nghĩa là vừa chớm niệm liền rơi vào đối đãi, kẹt bên nọ bên kia, không còn con đường sống, chỉ có nước ngậm miệng! Vì vậy, cư sĩ Duy Ma Cật khi được hỏi: Thế nào là vào pháp môn bất nhị? Ngài lên bục giảng, đứng im lặng. Các Thiền sư về sau mới xưng tụng: “Đó là cái im lặng sấm sét!”

Phải! Im lặng là câu trả lời mầu nhiệm nhất. Nếu người nào nhận thức được như vậy và luôn luôn ứng dụng vào cuộc sống, thì sẽ được những diệu dụng vô ngại chẳng khác nào thuốc Thánh.

 

- Bát Nhã không phân chia hiện hữu làm hai: Tục hay chân, uế hay tịnh, nhất thể hay đa thù... Chính ý thức con người tự tạo biên giới đối nghịch giữa chúng. Một khi có giới biên là có phân chia năng sở, chủ khách: Có anh là có tôi, có ngã là có ngã sở... Hiện hữu chỉ là một, bây giờ biến thành đa thù, từ đó sanh ra phân biệt, chấp trước mà phải chịu nhiều mất mát, đau khổ hay phiền muộn!

Bát Nhã thấy rõ sự phân hóa đó. Nên khai thị chúng sanh biết cả bờ này lẫn bờ kia. Bờ này là tốt, là thanh tịnh, là giải thoát, là Niết bàn; bờ kia là xấu ác, là động niệm, là điên đảo, là địa ngục. Chúng sanh một khi có hiểu biết đúng đắn thì có thể chọn lựa cảnh giới sống của mình. Nếu không hiểu cứ dấn thân vào các cực đoan đối đãi thì phải chịu nhiều khổ lụy thôi.

Lên một tầng nữa Bát Nhã nói không thấy có bờ này, bờ kia, cũng không thấy giữa. Bờ này là một bên, bờ kia cũng là một bên, ở giữa cũng là bên khác nữa. Có so đo chọn lựa là có mất mát thì Bát Nhã không còn ở đó nữa!

Nói như vậy, Bát Nhã lấy gì làm cứ điểm? Lấy cái gì làm điểm tựa? Lấy gì làm địa bàn hoạt dụng? Làm sao Bát Nhã dẫn dắt chúng sanh ra khỏi ngõ cụt hai đầu của thế giới lưỡng nguyên này? Đặt câu hỏi như vậy là theo lập cước của thế gian hay nói khác là đòi hỏi Bát Nhã phải thực hiện những gì mà chúng sanh mong muốn. Đó là thái độ vị kỷ, mong chờ hay nương cậy, trong khi Bát Nhã mong muốn chúng sanh tự mình phải lặn sâu vào trí năng của chính mình, không ai khác ngoài mình tự tháo đinh gỡ chốt.

Bát Nhã là Không, không phương xứ, không thời gian, vô sở trụ như hư không, như con chim bay lượn trong hư không mà không bị câu ngại bởi hư không. Khi Bát Nhã nói không bờ này, bờ kia hay giữa dòng, Bát Nhã không biểu lộ một sự chọn lựa nào cả vì Bát Nhã không muốn phân biệt để phải rơi vào đoạn thường, khứ lai, sanh diệt, nhất dị... của thế giới lưỡng nguyên mà gặp nhiều chướng ngại. Bát Nhã là vô tri, vô tác, vô hành, vô sở y... chỉ có mình và tự mình khai phóng để thoát khỏi sự kiềm tỏa của thế giới lưỡng nguyên mà thôi.

Vì vậy, mà các Thiền sư bảo: “Phải tự mình đập vỡ thùng keo sơn”, thì mới có hy vọng thoát ly khỏi sự bạo hành của thế giới lưỡng nguyên để thực hiện một bước nhảy.

 

Kết luận chung cho LUẬN #2.

(Bát Nhã với những biểu thị của nó)

 

Không chỗ nào trong 16 Hội, thuộc 600 quyển Đại Bát Nhã mà không nói đến ngũ uẩn, lục căn, thập nhị nhập, thập bát giới. Không chỗ nào trong toàn bộ Đại Bát Nhã mà không nói đến phân biệt-vô phân biệt, trước-chẳng trước, nhị-bất nhị. Tục đế nói đến tội-phước, uế-tịnh (tương đối), trong khi Chân đế thì không tội-không phước, không uế-không tịnh (tuyệt đối). Đó là những biểu thị của thế đối lập hai đầu giữa so đo, phân biệt mà ra. Những biểu thị bất tận này xảy ra bất cứ đâu, bất cứ lúc nào trong cuộc đời thường của chúng sanh.

Ngày nào thế giới còn quay, nhân loại còn đó thì không tránh khỏi cảnh “ông nói gà bà nói vịt”. Chỉ khi nhận chân rằng tội phước, uế tịnh đều không, rỗng không, vô sở hữu, bất khả đắc thì sự xác định phạm trù giữa tương đối và tuyệt đối không còn cần thiết nữa. Tất cả những đối chọi, phân chia, mâu thuẫn đều trở thành viên dung, vô ngại.

Lúc bấy giờ, Tánh không không còn là một phản biện nữa mà Tánh không nói một cách mộc mạc là rỗng không, là phủi sạch, không trong, không ngoài, không ở giữa hai, không ngã, không ngã sở, không tâm, không tâm sở, không anh tôi, chủ khách... phủi sạch, tan hoang tất cả, nhất thiết phóng xả hết, thế là xong! Đến đây là tâm hành dứt, ngôn ngữ đoạn khi tri nhận toàn diện là không, cũng không chấp không, nhất thiết pháp không, tất cả đều rỗng không, trong suốt. Rồi ra, con đường dẫn đến đam mê, chấp ngã, khát ái được quét sạch, trí năng rời khỏi hấp lực của năng sở, phân biệt chấp trước phân hai. Đó là lúc các tưởng và hành dừng lại. Sự tôi luyện tới đây được coi như hoàn tất. Sự buông bỏ mới sẵn sàng xuất hiện. Con đường dẫn đến chân thiện mỹ được thực hiện hoàn hảo để dọn mình sang bờ bên kia.

Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ nhất, tập 2, quyển 31 thuyết về “18 Pháp Không”. Nói rằng: “Phải nên biết, do có chấp ngã mới có chấp ngã sở, dẫn đến mới có chấp nội tâm và ngoại cảnh. Ví như người chấp những gì trong phạm vi nhà mình là của ta, còn những gì ở bên ngoài là của người, chẳng phải là của ta vậy. Trái lại, người tu hành quán hết thảy các pháp, dù trong dù ngoài cũng đều chẳng có định tướng, đều là bình đẳng tướng. Bởi vậy nên chẳng chấp có nội pháp, cũng chẳng chấp có ngoại pháp, quán hết thảy nội ngoại pháp đều là KHÔNG, chỉ do tâm chấp mà có phân biệt vậy thôi. Hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp mà có, chỉ do tâm chấp mà phân biệt có tướng trong, tướng ngoài. Hết thảy nội pháp cũng như ngoại pháp đều là hư dối, là chẳng thật có, là KHÔNG vậy”. Khi quán Không và Bình đẳng như thế là phủi sạch, để dọn mình qua bờ kia. Đó là trí tuệ! Đạt đến trình độ này là vào được Bồ Tát thất địa. Phật đạt đến trình độ đó nên được Phật Nhiên Đăng thọ ký! 

Tất cả những gì được trình bày trên tạm gọi là những biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện của Bát nhã Ba la mật. Nhưng không thể đóng khung Bát nhã Ba la mật vào bất cứ khuôn khổ nào, vì Bát Nhã mênh mông vô tận, không hình tướng như hư không. Vậy, những gì được quản diễn tiếp theo cũng được xem là những biểu thị của Bát Nhã cho đến khi ngừng bút. Hiểu biết những biểu thị hay pháp nghĩa hiển hiện đó là hiểu biết hay xác nhận được chỗ đứng của mình trong thập giới.

Thích nghĩa cho phần “Bát Nhã với những biểu thị của nó”:

(1a). Tốc độ ngoài không gian khác với tốc độ trên quả địa cầu mà chúng ta đang sống. Công thức tốc độ bằng khoảng cách chia với thời gian không thể áp dụng trong không gian, vì điểm tham cứu so với trái đất, mặt trời cũng như các hành tinh có hấp lực khác nhau. Đó là điểm phức tạp khi nói về vận tốc trong không gian.

Sau 5 năm bay trong vũ trụ, phi thuyền Juno của NASA tiếp cận sao Mộc (Jupiter) vào ngày 4/7/2016. Hấp lực khổng lồ của hành tinh này giúp Juno tăng tốc lên tới 265.000 km/h xét theo điểm tham chiếu là Trái Đất. Tốc độ này biến Juno thành vật thể nhân tạo nhanh nhất trong lịch sử. Đó là nói về tốc độ ngoài không gian.

Kỷ lục về tốc độ phóng nhanh nhất của phi thuyền thăm dò New Horizons, cất cánh năm 2006 trong sứ mệnh nghiên cứu sao Diêm vương (Pluto) và vành đai Kuiper. Con tàu nặng 478 kg này cất cánh từ Trái Đất với tốc độ gần 58.000 km/h. Tốc độ thoát ly (khỏi sức hút của trái đất) của phi thuyền New Horizons đánh bại kỷ lục trước đó của phi thuyền Pioneer 10 khởi hành đến sao Mộc năm 1972 nắm giữ khoảng 52.000 km/h.

(1b). Tất cả những điều mà chúng tôi nói về vũ trụ, thế giới, không gian, thời gian, phương hướng… phần lớn là do chúng tôi suy tưởng hơn là do chúng tôi nghiên cứu khoa thiên văn học.

(2).  Xứ (): Nơi, chỗ.

(3).  Giới (): Cõi, cảnh giới.

(4). Tưởng có thể hiểu là lý tưởng và quá trình vô ngãmục tiêu cao nhất của lý tưởng con người, Tình có thể hiểu là chấp ngã hay ái dục của mỗi cá nhân. (Trích dẫn từ khảo luận về Vũ trụ quan và Nhân sanh quan Phật giáo do Thích thông Kinh soạn).

(5). Dấu hiệu % (phần trăm) mục đích diễn tả nhiều hay ít trong toán học, không thể diễn tả tư tưởng một cách chính xác. Ở đây chúng tôi dùng nó như là một giả định hay tượng trưng.

(6). Trang 697, 688, 689 - Kinh LĂNG NGHIÊM- Tâm Minh dịch - Nhà xuất bản Thành phố HCM, 25 cảnh giới hiện hữu đã được thích nghĩa trong Phần thứ I, Tổng luận rồi, đây chỉ lặp lại.

(7). Lời của Thiền sư D.T. Suzuki.

(8). Thất và ly, lạc mất dấu vết.

(9). Nhất như: Lúc nào cũng như thế. Là cái “một-không hai”: 1/. Sự vô phân biệt giữa cái này cái nọ; 2/. Nguyên tắc căn bản của tất cả những hiện hữu, đồng nghĩa với Chơn như, Pháp tính, Thật tướng (Từ điển Đạo Uyển).

(10). Đoạn Kinh này chúng tôi trích lại trong Thiền luận quyển thượng của Thiền sư D.T. Suzuki, nguyên bản Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm “Hộ Pháp” cũng có đoạn tương tự nhưng viết hơi khác đôi chút.

(11). Xin xem lại câu chuyện thiền trong phẩm “Kim Cương Năng Đoạn”, quyển 577, Hội thứ IX, ĐBN.

 

Một phút tư duy:

 

Trên đây là quan điểm của chúng tôi về Nhân sinh quan và Vũ trụ quan có tánh cách thực dụng giữa Đạo và Đời. Những quan điểm ấy căn cứ một phần trên các giáo lý của Đại Bát Nhã và khoa học hiện đại. Ở đây chúng tôi không trình bày về vũ trụ và con người do đâu mà ra. Chúng tôi cũng không trình bày về Tứ đế (tức nói về những khổ đau của con người và phương pháp tu tập để tránh khổ đời này hay đời khác), cũng không đề cập đến Duyên sanh (nguyên nhân sanh thành và hoại diệt của kiếp sống), vấn đề luân hồi hay giải thoát. Chúng tôi cũng không đề cập đến Niết bàn tức nói về cái ước vọng hạnh phúc mà con người muốn đạt được giữa cảnh khổ đau triền miên trong trong ba cõi, sáu đường và cái an lạc tuyệt đối trong cảnh giới chư Phật.

Chúng tôi chỉ đưa ra một số giáo lý mà Đại Bát Nhã gọi là những lậu hoặc hay phiền não do uẩn, xứ, giới tạo ra. Tất cả những thứ đó có liên hệ đến cuộc sống thực tế của bất cứ chúng sanh nào trong lục đạo luân hồi hơn là những triết thuyết sâu xa về Nhân sinh quan và Vũ trụ quan xây dựng qua bao nhiêu thời đại. Tuy nhiên, chính những yếu tố đó lại đem đến khổ đau phiền muộn hay an vui giải thoát mà con người hoặc biết hoặc vô tình không lưu tâm. Nhưng đó cũng chính là quan điểm của cuộc sống. Không có bất cứ tôn giáo nào mà không lập cước trên các đối tượng đó.

 

Để có cái nhìn tổng quát và rộng rãi hơn trên phương diện không gian lẫn thời gian của vấn đề, không gì hơn chúng tôi trích dẫn bài viết của Ban Hoằng pháp do HT Thích Thiện Hoa hướng dẫn và biên soạn trong Phật Học Phổ Thông (Khóa thứ V) dưới tựa đề là “Vũ Trụ Quan và Nhân Sinh Quan Thế Giới” để Quý vị độc giả tham cứu thêm.

Đây là bài giảng luận hết sức quan trọng cho sự hiểu biết về Vũ trụ quan và Nhân sinh quan của Bát nhã Ba la mật nói riêng và Phật đạo nói chung. Bài luận này tuy ngắn nhưng nói lên được tiến trình tâm thức của nhân loại dưới nhãn quang của Phật đạo khi xưa đối với quan điểm sống của nhân loại qua không gian lẫn thời gian. Nhưng cũng nên nói trước rằng phải có trình độ mới có thể thâm hiểu các triết thuyết đó. Xin chậm rãi thưởng thức:

 

6. Vũ trụ quan và Nhân sinh quan Phật đạo:

 

I- Vũ Trụ Quan Phật Giáo(1)

 

A.- Mở Đề:

 

Một câu nan giải nhất của nhân loại:

“Vũ trụ từ đâu mà có”?

Từ xưa đến nay câu hỏi này đã làm cho bao nhiêu đầu óc phải vô cùng bối rối, thắc mắc, và có khi đến cuồng loạn. Bao nhiêu mực đã chảy, bao nhiêu giấy đã chất chồng, bao nhiêu bọt mép đã khô cạn để thuyết minh về vấn đề trên. Nhưng cuối cùng nhân loại vẫn chưa thấy được thỏa mãn.

Về phía các triết gia, người thì cho vũ trụ do nước tạo thành, người thì cho do không khí, người cho do hơi nóng, người cho do tứ đại... tạo thành.

Về phía các tôn giáo, thì hầu hết đều tin vũ trụ do một Tạo vật chủ dựng nên. Tạo vật chủ ấy tùy theo các tôn giáo mà có tên khác nhau: hoặc Brahma, hoặc Ngọc Hoàng thượng đế, hoặc Chúa trời, hoặc Jéhovah... vậy vấn đề này, do Phật trả lời như thế nào?

 

B.- Chánh Đề:

 

I. Đặt Vấn đề Tiên Quyết.

 

Phật giáo, khác với các tôn giáo khác, không tin có Tạo vật chủ. Đối với Phật giáo, thì vũ trụ vạn hữu sanh ra, không nhờ một đấng nào hay một phép nào ở ngoài nó cả, mà chỉ do tự kỷ nhân quả tiếp nối mà thành. Cái quả bây giờ là do cái nhân ở trước, các cái nhân ở trước là do cái quả ở trước nữa; cứ như thế đi ngược trở lên mãi, nhân này quả nọ, không bao giờ cùng. Như thế, đối với Phật giáo; vũ trụ là vô thỉ (không có cái ban đầu). Mà đã vô thỉ thì làm sao có cái duyên nhân (nguyên nhân) đầu tiên?

Sở dĩ người đời tin phải có một sự bắt đầu, là vì với sự nhận xét có giới hạn của mình, thấy vật gì cũng có cái bắt đầu cả. Thí dụ: cái bàn, trước khi chưa có thợ mộc đóng thì nó không có; hay con gà, sanh ra là do mẹ nó... Tương đối mà nói, thì cái bàn hay con gà có một sự sanh thành; nhưng nếu chúng ta đừng cắt xén thời gian và không gian ra từng khoảng một như thế, thì chúng ta thấy rằng trước cái bàn không phải là không có gì hết mà phải có gỗ, trước gỗ là cây, trước cây là hạt... Con gà cũng như thế, trước con gà, có con gà mẹ; trước con gà mẹ là mẹ, thì nó là con, do một con gà mẹ khác sinh ra...

Nguyên nhân thứ hai làm cho người đời tin có một sự bắt đầu của vũ trụ vạn hữu là ý niệm sai lầm về quan niệm “có và không”. Với con mắt trần nông cạn và hẹp hòi, khi chúng ta thấy một khoảng trống thì gọi là không; khi thấy một vật có màu sắc; hình dáng, trọng lượng... thì gọi là có. Và cũng do sự quan sát hẹp hòi, nông cạn, chúng ta thường có quan niệm rằng: “cái không” có trước “cái có”. Thí dụ: Một khoảng đất kia, thường ngày chúng ta đi ngang qua nó, nhận thấy trên ấy không có nhà cửa gì cả, ta gọi là đất trống. Bặt đi một dạo độ 6 tháng, ta không đi ngang qua đó nữa. Bây giờ có việc đi qua đó, ta thấy một tòa nhà đồ sộ cất lên, ta tự bảo khoảng đất ấy hết trống rồi. Trước là không có bây giờ là có. Ta phóng đại ý nghĩ ấy ra và cho rằng: “cái không” có trước “cái có”, hay “cái có” bao giờ cũng đến sau “cái không”. Và chúng ta dẫn ra suy luận ấy đi xa hơn để kết luận rằng “cái không” mà thành cái có được, tất nhiên phải có một cái khác tạo ra. 

Nhưng chúng ta đã suy luận sai, và cái sai lầm ấy bắt đầu từ quan niệm sai lầm về “có” và “không”. 

Trước tiên, chúng ta quên rằng: Khoảng đất kia không phải là trống không, hoàn toàn không có gì cả, mà trống ở đây có nghĩa là không có nhà. Và cái “có” sau này là có nhà, chứ không phải là hoàn toàn có, vì một ngày kia nó cũng sẽ tan rã, và trở thành không.

Cái “có” và “không” ở đây là “có”, “không” tương đối. “Có” là một cái gì, “không” cũng là một cái gì. Còn nói một cách tuyệt đối, thì trong vũ trụ này chưa bao giờ có một cái không hoàn toàn không cả. Cũng như cái có mà ta thường thấy chung quanh ta cũng không phải hoàn toàn, vĩnh viễn có. “Có, không” đều tương đối, nghĩa là dựa vào nhau mà thành. Hoặc trong một chỗ này có thì chỗ khác không, hoặc đắp đổi nhau trong thời gian có trước rồi không sau, hay không trước rồi có sau. Khi ấy lấy riêng ra từng pháp mà xét, thì thấy tuần tự có thành, trụ, hoại, không, nhưng xét toàn thể thì phút giây này cũng đồng thời có thành, có trụ, có hoại, có không cả.

Như thế, để kết luận: Không phải cái không xuất hiện trước là có. “Không và có” đều có một lần. Và vì thế, cho nên không thể có nguyên nhân đầu tiên của cái có.

Trong hiện tượng giới ta thấy có sanh diệt, có thể có, chúng ta cho là vô thường. Nhưng nếu xét toàn thể vũ trụ, đứng về thật tại giới, thì chẳng có sanh diệt mà vạn hữu là thường trụ. 

Như trên đã nói, không có nguyên nhân đầu tiên. Và do đó, ta sẽ đặt sai vấn đề, nếu ta hỏi: “nguyên nhân đầu tiên là gì”? và ta lại càng đi xa hơn nữa trong sự sai lầm, khi hỏi: “Ai sáng tạo ra vũ trụ vạn hữu”?

Phải đặt câu hỏi này mới đúng: “Thật thể của cái có và cái không tương đối (tức là vũ trụ vạn hữu) là như thế nào? hay thật tại của vũ trụ như thế nào?”.

Đó là câu hỏi thứ nhất, nhắm mục đích tìm hiểu thật thể, thật tánh, thật tướng, hay nói theo danh từ triết học, nhắm mục đích tìm hiểu thật tại của vũ trụ vạn hữu.

Câu hỏi thứ hai là: “Phát nguyên từ thật tại, vũ trụ vạn hữu đã hình thành và biến chuyển bởi nguyên nhân gì, và như thế nào?”.

Đây là hai câu hỏi chính, sau đó, chúng ta có thể thêm vào những câu hỏi phụ như: “Vũ trụ rộng hay hẹp, có cùng hay không cùng?”...

Trả lời câu hỏi thứ nhất đạo Phật có Thật tướng luận; trả lời câu hỏi thứ hai; đạo Phật có Duyên khởi luận; trả lời câu hỏi thứ ba: Phật dạy: Vũ trụ hay thế giới là vô lượng vô biên vô cùng vô tận. Dưới đây, chúng ta lần lượt trình bày những vấn đề trên.

 

II. Thật Tướng Luận

 

Thật tướng luận là lý thuyết giải bày về thật thể của vũ trụ. Thật thể hay thật tướng của vũ trụ, đạo Phật thường gọi là chơn như. Chơn như nghĩa là chơn thật, không giả dối. Như là luôn luôn như thế, không biến đổi, không sanh diệt, không còn mất, vô thỉ vô chung. Vậy chơn như là một thật thể không biến đổi, không sanh diệt, không còn mất, vô thỉ vô chung, sáng suốt, có đủ tất cả những diệu dụng đức tánh.

Để chỉ chơn như nhiều khi Phật giáo, tùy theo mỗi trường hợp, cũng gọi bằng những danh từ như: Chơn tâm, Viên giác, Thắng nghĩa, Phật tánh, Giác tánh, Pháp tánh, Như như, Nhứt như...

Thật ra thì khó mà kể cho hết những danh từ chỉ cho Chơn như. Nhưng dù có kể hết, thì cũng chỉ là kể danh từ, chứ không thể nhận thấy được Chơn như, chỉ có những vị giác ngộ mới trực nhận, mới thể nhập, hay thể chứng mà thôi.

Ngôn ngữ, văn tự chỉ có thể diễn tả được hiện tượng giới; còn khi muốn trình bày về thực tại, thì trở thành bất lực. Và càng bám vào, càng y như cái nhất thiết vào văn tự, ngôn ngữ lại càng đi xa thật thể, chân như. Một triết gia Pháp, ông Bergson đã nói rất đúng rằng: Ngôn ngữ, danh tự đã cắt xén Sự Sống (thật tại) ra thành manh múm. Thật thế, mỗi tên gọi, mỗi chữ đều có một phạm vi, một nội dung nhất định của nó. Dùng một cái có hạn lượng để đo lường, dò xét một cái không hạn lượng, vượt ra ngoài không gian và thời gian, thì chắc chắn là phải sai lầm.

Cho nên thái độ đúng đắn nhất, để trực nhận thật thể chân như là im lặng, lìa xa văn tự, ngôn ngữ. Đó là thái độ mà đức Phật đã áp dụng lần đầu tiên sau khi chứng đạo dưới cây Bồ đề.

Nhưng nếu không nói gì cả thì làm sao cứu độ được chúng sinh, làm sao đưa nhân loại đến bờ giác. Cuối cùng đức Phật phải nói. Nhưng khi nói đến cái khó nói nhất là “Thật tại” hay “Chơn như”, thì đức Phật không thể dùng một lối nói như thông thường được. Do đó, mà chúng ta thấy trong kinh điển Phật giáo, có những cách nói mới nghe thì rất vô lý, gàn dở như: Cũng có, cũng không, không phải không, không phải có, không phải đồng, không phải khác, cũng đồng cũng khác, không phải một, không phải nhiều, không phải nhơ, không phải sạch, v.v… và v.v ...

Nhưng, mặc dù đã nói như thế rồi, đức Phật vẫn sợ người đời chấp vào những câu nói ấy mà cho là thật, nên Ngài lại rào đón thêm nữa: “Chân lý như mặt trăng, giáo lý ta dạy như ngón tay để chỉ mặt trăng cho các người thấy. Đừng nhận lầm ngón tay ta là mặt trăng” . Hay: “Những điều ta biết như lá trong rừng, và cái ta nói như nắm lá trong tay này”. Hay: “Y theo kinh điển giải nghĩa thì oan cho tam thế chư Phật, nhưng lìa kinh ra một chữ thì lại đồng với ma thuyết”. Hay: “Suốt đời, Như lai chưa nói một câu nào”.

Tóm lại, mục đích của Thật tướng luận là muốn cho chúng ta nhận chân rằng: Thật tại, hay Chơn như không thể dùng ngôn ngữ văn tự mà thấy được; trái lại, phải bỏ tất cả danh tướng mà trực nhận. Nhưng để có một ý niệm thô thiển về Chân như, hãy tự bảo rằng: “Chân như là cái gì trái hẳn với hiện tượng giới”. Hay: “Hiện tượng giới là mặt trái của Chơn như”.

Nhưng, khi nói đến hai chữ “mặt trái” đừng liên tưởng rằng có một “bề mặt” như bao nhiêu bề mặt ta thường thấy trong hiện tượng giới.

 

III. Duyên Khởi Luận

 

Duyên khởi luận tức là những lý thuyết nói về nguyên nhân hay lý do sanh khởi của hiện tượng giới.

Duyên khởi luận trong Phật giáo có nhiều thuyết; những thuyết này không trái ngược nhau, mà chỉ khác nhau về phương diện sâu cạn, rốt ráo hay không mà thôi. Vậy chúng ta hãy tuần tự đi từ cạn đến sâu:

 

1- Nghiệp cảm duyên khởi: Nghiệp cảm duyên khởi luận là chủ trương của Tiểu-thừa nguyên thỉ Phật giáo. Lý thuyết này rút ra từ trong “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”. Như chúng ta đã học về “Tứ diệu đế”, Phật dạy nguyên nhân của đau khổ, của sanh tử luân hồi là do “hoặc nghiệp”. Hoặc tức là mê vọng; có hành động sai lầm, vì hành động sai lầm nên chịu quả đau khổ... và cái vòng nhân quả luân hồi cứ tiếp tục mãi, tạo ra có chánh báo là thân ta và y báo tức là sơn hà đại địa. Sơn hà đại địa sở dĩ có là có một cách tương đối với thân ta mà thôi. Khi nghiệp nhân biến đổi thì nghiệp quả cũng biến đổi và do đó chánh báo và y báo cũng biến đổi theo. Người khi tạo những nghiệp nhân làm người thì đời sau đầu thai lại, chánh báo vẫn là người và y báo vẫn là sơn hà, đại địa như người đã nhận thấy. Nhưng nếu tạo những nghiệp nhân dữ, thì chánh báo ở đời sau sẽ là loài súc sinh hay ngạ quỷ, và y báo, tức là cảnh giới ở chung quanh cũng không còn giống như cảnh giới của người nữa, nghĩa là vũ trụ, vạn hữu sẽ biến đổi theo tầm mắt và sự hiểu biết của các loài ấy. Do đó mà gọi là “nghiệp cảm”, nghĩa là do nghiệp như thế nào, thì cảm thọ cái thân và cảnh như thế ấy. Nói một cách tổng quát, do nghiệp lực mà có thân (chánh báo) và thế giới (y báo). Chánh báo và y báo có thể thế này hay thế khác, tốt hay xấu, là do nghiệp lành hay dữ. Nhưng dù sao, hễ còn nghiệp là còn có hiện tượng giới. Dứt trừ được nghiệp là trở về với Chân như, là nhập Niết bàn.

 

2- A lại da duyên khởi: Thuyết này thuộc về Đại Thừa Thỉ giáo, đi sâu hơn thuyết trên một tầng. Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chỉ nói có sáu thức là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sau khi chết, ngũ uẩn tan rã, nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái gì? Lục thức hay ý thức sanh diệt vô thường, biến chuyển luôn luôn, thì nghiệp dù còn, mà lấy gì giữ gìn cái nghiệp quả, khiến cho nó triển chuyển không dứt?

Đại Thừa thỉ giáo, bổ khuyết cho thuyết trên, tìm thấy trên hai thức nữa là Đệ thất thức hay Mạt na thức, và Đệ bát thức hay A lại da thức.

Mạt na nghĩa là cầm bắt lấy chỗ thấy biết, nghĩa là tự nhận có một cái ngã, và gìn giữ cái ngã ấy. Nhưng làm sao giữ được cái giả ngã ấy, trong lúc ngũ uẩn, lục thức đều sanh diệt vô thường hợp ly mãi mãi? Vậy thì dưới Mạt na thức, tất phải có một thức khác thường tại, trùm chứa tất cả chủng tử của các pháp mới được.

Đó chính là thức thứ Tám, hay A lại da thức, hay tạng thức (thức trùm chứa). Thức này không phải vô thường như ngũ uẩn, mà là hằng khởi, thường tại. Nó có hai công năng: Một là thâu nhiếp tất cả các pháp, hai là sinh khởi tất cả các pháp. Khi chúng ta gây thiện nghiệp hay ác nghiệp, thì những chủng tử được dồn chứa vào Tạng thức, đến khi đủ nhân duyên thì những chủng tử ấy phát ra hiện hành.

Bởi A lại da thức bao gồm hết thảy chủng tử của chư pháp, nên nó phát hiện được hết năng lực vô hạn của vạn tượng. Khi căn thân của ta vừa phát sanh là nó bao hàm khách quan giới (tức là vạn vật). Khách quan giới thiên sai vạn biệt là do trong chủ quan giới có ý thức tác động mà ra.

Tóm lại, A lại da thức là cái căn bản của hiện tượng giới. Từ vô thỉ, A lại da thức đã bao gồm chủng tử. Hiện tượng giới do chủng tử này mà phát hiện. Hiện tượng đã phát hiện thì kích thích phát sinh duyên mới, dẫn đến chỗ tác dụng. Như thế, chủng tử cùng hiện tượng, nhân quả nhau mãi, mà làm cho hiển hiện vạn hữu, và làm nền móng qua bao kiếp nhân quả luân hồi.

Nhưng, nếu A lại da thức là nền móng của nhân quả luân hồi, thì A lại da thức cũng là căn nguyên của giải thoát, vì trong A lại da thức có đủ cả chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức là hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu, đối với ngoại giới biết có hư vọng, cho nên không để cho tâm vọng động, do đó có thể đưa đến sự giải thoát.

 

3- Chân như duyên khởi: Thuyết này là của Đại Thừa Chung giáo. Theo Đại Thừa Chung giáo thì chân như tùy duyên sanh ra muôn pháp; hay nhất thiết duy tâm tạo. Tâm bao gồm tất cả và có hai phương diện: Về phương diện động, thì tâm là cái cửa của Chân như.

Nhưng vì sao, cũng một tâm có hai phương diện mà tương phản như thế? Ấy bởi vô minh. Chân như vốn là thường trụ, bất động, nhưng bởi vô minh làm duyên, khiến cho nó vọng động, làm ra thiên sai vạn biệt. Vô minh không phải là vật có thật, nó dựa vào tâm thể mà có. Nó là một vọng niệm, cho nên trong Kinh thường nói: “Hốt nhiên niệm khởi, gọi là vô minh”. Do cái vọng niệm ấy mà thấy có chủ quan, có khách quan, có tự ngã, có phi ngã, có vũ trụ, vạn hữu.

Nhưng vạn hữu không phải ngoài tâm mà tồn tại được. Chân như tuy bị vô minh kích thích mà diêu động, nhưng trong động có tịnh, trong tịnh có động, cũng như nước và sóng ở trong biển: Đứng về phương diện nước mà nhìn, thì tất cả sóng đều là nước; đứng về phương diện sóng mà nhìn, thì tất cả nước đều là sóng. Tâm dụ cho biển, Chân như dụ cho nước, và vạn tượng giới dụ cho sóng. Chúng sanh, vì vô minh che lấp nên chỉ thấy có vạn tượng giới; Bồ Tát và Phật vì đã trừ vô minh nên thấy vạn tượng là chân như: Tịnh là chân như, Động là vạn tượng. Động, Tịnh không rời nhau, không cùng là một, nhưng cũng không phải là khác nhau. Đó là hai phương diện của Tâm. Để chỉ hai phương diện này, trong kinh thường có câu: “Tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Tùy duyên tịnh, sanh ra tứ Thánh, tùy duyên nhiễm sanh ra lục phàm. Từ tịnh trở thành động là đi vào cửa của sanh diệt, và đó cũng là nguyên nhân phát triển của vũ trụ vạn hữu. Từ động trở về tịnh là đi ra cửa chân như, và đó cũng là nguyên nhân của giải thoát.

 

4- Lục đại duyên khởi: Lục đại duyên khởi là chủ trương của Mật tông hay Chơn ngôn tông. Lục đại là: Địa, thủy, hỏa, phong, không (tức là không gian) và thức. Năm đại trước thuộc về sắc pháp (tức là vật), đại thứ sáu thuộc về tâm pháp (tức là tâm). Sáu đại này mỗi mỗi đều dung thông ngăn ngại nhau, và tùy duyên sanh khởi ra vũ trụ vạn hữu.

Chia ra vật và tâm là trí thức của ta phân biệt ra như thế, chứ bản thể của thật tại vẫn là một, vẫn không thể phân chia được. Vật là hình tướng, tâm là lực hoạt động. Lực không lìa được hình. Lìa hình thì lực chẳng tồn tại được. Còn hình nếu không nhờ lực thì không phát hiện được. Vật và tâm là hai phương diện của bản thể nhứt như.

Ta có đây là do Lục đại kết hợp mà ra. Lục đại ly tán thì ta không còn. Còn mất chẳng qua là một cuộc đổi thay của Lục đại mà thôi. Lục đại kết hợp và ly tán làm thành vũ trụ hoạt động. Đứng về phương diện tổng quát mà nhìn, thì vũ trụ là một sự hoạt động không ngừng của Lục đại.

Chân như là thực thể của lục đại, mà lý tánh của ta trừu tượng được. Lìa hiện tượng không có thật thể được, lìa vật không có lý được.

Thánh, phàm khác nhau, thiện, ác khác nhau ở chỗ biết hay không biết phân biệt chân như với hiện tượng

 

5- Pháp giới duyên khởi: Pháp giới duyên khởi là chủ trương của Đại thừa viên giáo (Hoa nghiêm tôn). Thuyết này cho rằng pháp giới (tức là vũ trụ vạn-hữu) là một duyên khởi rất lớn nghĩa là các pháp làm nhân, làm duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung thông nhau mà thành lập.

Cái năng lực chủ động của pháp giới duyên khởi không phải thuộc về “nghiệp lực” của chúng sanh, không phải “tạng thức” sai biệt sanh diệt của A lại da, cũng không phải cái “lý tánh bình đẳng” bất sanh bất diệt của chân như, mà chính là do vạn pháp, pháp này dung thông với pháp kia, pháp kia dung thông với pháp này, cùng nhau làm duyên khởi, mỗi lớp mỗi lớp không cùng tột, cho nên gọi là “vô tận duyên khởi” hay “trùng trùng duyên khởi”.

Như thế, vũ trụ vạn hữu là một cuộc đại hoạt động của hiện tượng, từ vô thỉ đến vô chung, nối tiếp và lan tràn vô cùng tận, như những đợt sóng. Vì có hoạt động nên mới có sanh diệt chuyển biến, tức là không có vạn tượng, không có vũ trụ.

Sở dĩ các pháp làm nhân, làm duyên hòa hợp, dung thông nhau được là do mười đặc tánh kỳ diệu mà Đại thừa viên giáo gọi là “mười món huyền môn”. Lại do mười môn “huyền môn” này, mà trong pháp giới, Sự, (chỉ cho sự tướng sai biệt), Lý (chỉ cho lý tánh bình đẳng) Lý sự và Sự Sự được dung thông vô ngại (xem lại bốn “pháp giới” và mười “huyền môn” trong bài nói về Hoa Nghiên tôn).

 

Trong duyên khởi luận của Phật giáo, chúng ta thấy có năm thuyết. Đó là: Nghiệp cảm duyên khởi, A lại da duyên khởi, chân như duyên khởi, Lục-đại duyên khởi và pháp giới duyên khởi. Có người ngạc nhiên tự hỏi: Tại sao cũng là Phật dạy cả, mà lại bất nhất như thế? Khi thì Phật dạy chúng sanh và thế giới do Nghiệp cảm mà phát sanh, khi thì dạy do A lại da thức, khi thì do chơn-như, khi thì do Lục đại, khi thì Trùng Trùng duyên khởi, vậy thì viết theo lý thuyết nào đúng?

- Sự sai khác đó là vì căn cơ của chúng sanh không đồng, phải dắt dẫn dần dần từ thấp đến cao, chúng sanh mới hiểu được. 

Đối với hàng Tiểu thừa thì Phật nói: “nghiệp”, vì hàng Tiểu-thừa chưa nhận được tạng thức, chủng tử... lần lên đến Đại thừa Thỉ giáo, các bậc này vì mới hướng về Đại thừa, chưa rõ chơn như tùy duyên sanh ra các pháp, nên Phật chỉ nói về “A lại da thức”. Đến Đại thừa Đốn giáo vì hạnh này chưa nhận được lý “Trùng Trùng duyên khởi”, nên Phật nói “Chơn như tùy duyên sanh ra các pháp”. Đến Đại thừa Viên giáo, thì các bậc Bồ Tát căn cơ đã thuần thục, nên Phật mới nói đến “Lục đại” và “Trùng Trùng duyên khởi”.

Sự sai khác ở đây, chỉ là sai khác về tầng bậc, chứ không phải sai khác về nội dung; sai khác về khía cạnh đứng nhìn và tầm mắt rộng hẹp, chứ không phải sai khác về bản chất.

Nhìn một cách nông cạn và nhỏ hẹp thì chỉ thấy có nghiệp lực; nhưng nhìn sâu hơn và rộng hơn tí nữa thì thấy: Dưới cái nghiệp lực, là A lại da thức. Nhìn sâu và rộng hơn nữa thì thấy dưới A lại da thức là Chân-như.

Vì Chân như tùy duyên mà sanh ra hiện tượng. Trước thì bảo rằng có A lại da thức mới phát khởi ra hiện tượng. Đây thì tự Chân như tùy duyên mà hiện tượng phát khởi.

Khi đã khám phá ra Chân như rồi, nếu nghiên cứu kỹ lưỡng tường tận hơn nữa, thì nhận thấy Chân như không phải là một cái gì xa lạ, mà chính là chân như nằm ngay nơi vạn tượng. Chân như là khía cạnh Tịnh, mà vạn tượng là khía cạnh Động của một cái gọi là “Nhất như” hay “Tâm”. Nhưng nếu đi sâu hơn nữa, thì Tịnh và Động không phải là hai khía cạnh riêng rẽ, mà chính ngay trong Động có Tịnh, trong Tịnh có Động. Động là “sự” (vạn tượng), Tịnh là “lý” mà ta trực nhận được từ “Sự” qua cái “Trùng Trùng duyên khởi” của vạn hữu.

Đến “Chân như duyên khởi” luận là ta đã tìm đến cái căn nguyên của vũ trụ vạn hữu. Nhưng nếu còn phải nói đến “Lục đại duyên khởi” và “Pháp giới duyên khởi” là muốn tìm hiểu cái hành tướng, cái then máy của vạn tượng để trực nhận chơn như. “Lục đại duyên khởi” luận là dựa trên kinh nghiệm mà suy diễn chân như. Hai luận này không khác nhau về nội dung hay từng bậc, mà chỉ khác nhau về luận pháp mà thôi. Một bên đi từ Sự đến Lý, một bên đi từ Lý đến Sự.

Nếu có thể dùng một ví dụ để chứng minh một cách cụ thể những lý lẽ vừa nói đến trên đây, chúng tôi xin mạn phép dùng một thí dụ thô sơ sau đây, nhưng xin thưa trước rằng thí dụ không phải là lý lẽ, mà chỉ nói lên một khía cạnh nào của lý lẽ mà thôi.

Chúng ta đi vào xem một rạp hát kỳ lạ, khi đèn đã tắt và không biết trên sân khấu người ta đã bắt đầu trình diễn từ lúc nào. Rạp hát tối mò, trên sân khấu cũng không sáng mấy, mà chúng ta đứng ở đàng sau xa. Trước sân khấu, nhiều lớp màn mỏng buông xuống (dụ cho vô minh). Khi chúng ta vào thì một tấm màn từ từ kéo lên. Chúng ta thấy lờ mờ những cánh tay, những cái chân và cái miệng của một con nộm nhân đang múa máy, ca hát trên sân khấu. Chúng ta đoán chắc ở phiá trong, ở đàng sau con nộm nhân ấy có một động lực (dụ cho nghiệp cảm duyên khởi) làm cho cái nộm nhân kia múa máy, ca hát.

Một cái màn nữa vén lên và ta tiến tới thêm một mức nữa để nhìn. Chúng ta thấy bóng dáng một người đang đứng sau con nộm nhân kia (dụ cho A lại da duyên khởi).

Một cái màn nữa vén lên và ta tiến tới gần sân khấu hơn nữa. Ta thấy rõ ràng hơn. Thì ra con người và nộm nhân là một: Con người mang lớp nộm nhân và đã múa máy ca hát (dụ cho Chơn như duyên khởi).

Một bức màn nữa được kéo lên, và ta đi sát đến sân khấu, ta nhìn thấu suốt đến hậu trường. Ta thấy rõ mỗi vật, mỗi người, từng chi tiết một trên sân khấu, sự liên lạc giữa vật này với vật kia, giữa người làm trò, người kéo màn, người đạo diễn v.v... (dụ cho Lục đại duyên khởi).

Sau khi đã quan sát kỹ lưỡng sân khấu, ta xây mặt lại nhìn khán giả, và ta đã khám phá một bí mật vô cùng quan trọng: Sự liên lạc mật thiết giữa người đóng trò và khán giả. Người đóng trò vui thì khán giả vui, người đóng trò than thở thì khán giả buồn. Ngược lại, khán giả cũng ảnh hưởng rất nhiều đến người đóng trò: Người đóng trò tuân theo ý muốn của khán giả, khi đóng hay thì khán giả vỗ tay hoan hô và bắt buộc diễn viên phải đóng lại; khi diễn dở, thì khán giả la ó, phản đối... Diễn viên và khán giả, hậu trường và tiền trường, tất cả một rạp hát đều liên lạc mật thiết với nhau, làm nhân duyên cho nhau, ảnh hưởng mật thiết lẫn nhau (dụ cho Pháp giới duyên khởi). Để kết luận về chương Duyên Khởi luận này, chúng ta có thể tóm tắt như sau:

- Nghiệp cảm Duyên Khởi, muốn nói nghiệp lực và nguyên nhân của hiện tượng giới. Nghiệp bởi mê hoặc mà có. 

- A lại da Duyên Khởi, muốn nói: Căn nguyên của hiện tượng giới là A lại da thức. A lại da bao trùm tất cả chúng tử hữu lậu và vô lậu. Do chủng tử hữu lậu mà phát sanh vũ trụ vạn hữu. Muốn giải thoát khỏi hiện tượng giới thì phải huân-tập và làm phát hiện chủng tử vô lậu.

- Chân như Duyên Khởi, là muốn nói: Chân như vì duyên với vô minh mà diêu động và làm phát sanh ra vũ trụ vạn hữu.

- Lục đại Duyên Khởi và Pháp giới Duyên Khởi là hai thuyết mường tượng giống nhau, đều thuyết minh hai phương diện hiện tượng và thật thể của nhất-như. Bất tri bất giác là cái nguyên nhân của hiện tượng. Tri giác được thì giải thoát được.

Những thuyết trên này đều có những điểm giống nhau: Mỗi thuyết đều công nhận có chân như là bản thể của vũ trụ vạn hữu. Cái nguyên nhân làm sanh khởi vũ trụ vạn hữu là mê vọng hay vô minh. Muốn giải thoát thì phải trừ cho được mê vọng.

 

IV. Không Gian Và Thời Gian Của Pháp Giới

 

Chúng ta đã nói về nguyên nhân sanh khởi của vũ trụ, vạn hữu. Đến đây chúng ta hãy nghe Phật dạy về sự rộng lớn vô biên và sự tồn tại vô cùng của vũ trụ, hay pháp giới.

 

1- Không gian: Theo lời dạy của các Kinh, thì vũ trụ hay nói theo danh từ của Phật giáo: Pháp giới rộng lớn vô cùng vô tận. Thế giới mà chúng ta ở đây không phải là một, mà nhiều như cát sông Hằng. Cứ một ngàn thế giới nhỏ hiệp thành một Tiểu thiên thế giới; hiệp một ngàn Tiểu thiên thế giới thành một Trung thiên thế giới; hiệp một ngàn Trung thiên thế giới thành một Đại thiên thế giới, hay “tam thiên đại thiên thế giới”. Mỗi tam thiên đại thiên thế giới gồm có một ngàn triệu thế giới nhỏ như thế giới của chúng ta. Hơn nữa, vũ trụ không phải chỉ có một tam thiên đại thiên thế giới, mà gồm có vô số tam thiên đại thiên thế giới.

 

2- Thời gian: Phật đã dạy: “Các pháp hữu vi, bất cứ một pháp nào cũng đều bị bốn thời kỳ chi phối, tức là thành, trụ, hoại, không”. Thế giới cũng vậy, không thể thoát ra ngoài cái luật: Thành, trụ, hoại, không ấy được. Nhưng bởi vì trong pháp giới có không biết bao nhiêu thế giới, nên sự thành, trụ của một thế giới này là sự hoại không của một thế giới khác, cứ như thế mà xoay vòng không dứt.

Nếu lấy riêng ra một thế giới để đo lường thời gian, thì chúng ta sẽ có một con số như sau: Mỗi một thế giới đều có bốn thời kỳ hay bốn trung kiếp; mỗi trung kiếp có hai mươi tiểu kiếp, mỗi tiểu kiếp có mười sáu triệu (16.000.000) năm. Như thế một thế giới từ khi thành lập, đến khi tiêu diệt, phải trải qua: 4x20x16.000.000 = 1.280.000.000. Nhưng chúng ta đã biết thế giới nhiều như cát sông Hằng, thì sự tồn tại của Pháp giới lâu dài không thể suy tính, nghĩ bàn được.

Ở đây, chúng ta không có ý nêu lên một con số như trên để đo lường đích xác sự rộng lớn và sự dài lâu của Pháp giới là bao nhiêu. Chúng ta chỉ có mục đích là nêu lên những con số để có ý niệm về “sự vô cùng vô tận, vô thỉ, vô chung” của Pháp giới mà thôi. Ý-niệm ấy, ngày nay cũng được khoa học tán đồng.

 

C.- Kết Luận:

 

Pháp giới tuy rộng lớn vô cùng vô tận, nhưng như chúng ta đã thấy trong đoạn nói về “Duyên khởi luận”, pháp giới và nhân sanh ảnh hưởng trực tiếp lẫn nhau. Hơn nữa, như trong nghiệp cảm duyên khởi đã nói: Vũ trụ do nghiệp lực của chúng sanh chiêu cảm kết thành; nghiệp lành chiêu cảm thì thân căn được viên mãn, mà vũ trụ cũng tốt đẹp; còn nghiệp dữ chiêu cảm thì thân căn xấu xa mà vũ trụ ô uế, lắm tai họa.

Còn theo như A lại da duyên khởi đã nói: do chủng tử trong A lại da thức huân tập và hiện hành mà chúng ta có căn thân về thế giới như thế này hay thế khác. Nếu chúng ta huân tập chủng tử hữu lậu thì chúng ta quay cuồng mãi trong cảnh giới đau khổ, ô trược; nếu chúng ta huân tập chủng tử vô lậu, thì chúng ta sẽ thoát ra khỏi cảnh giới khổ đau này.

Theo trình độ, căn cơ của chúng ta hiện tại thì hai thuyết trên này thích hợp với chúng ta hơn; còn ba thuyết dưới thì vì cao quá, khó mà thực hành cho được.

Vậy chúng ta hãy nghe lời của Phật dạy trong hai thuyết “Nghiệp cảm duyên khởi” và “A lại da duyên khởi” mà cải tạo vũ trụ và nhân sinh.

Trong hai pháp này, về nghiệp thì chúng ta nên dứt trừ “sự hoặc” và “lý hoặc” cải tạo các nghiệp dữ đổi lại các việc lành, tức là ta chiêu cảm lấy quả báo đời sau được thân thể và vũ trụ rất trang nghiêm tốt đẹp, không còn bị khổ quả như hiện nay nữa.

Về chủng tử, thì hằng ngày chúng ta nên cẩn thận trong sự huân tập. Bởi vì công việc hằng ngày đều ghi vào tạng thức chúng ta, không khi nào mất được. Ta phải huân tập những điều chân lẽ chính của thánh hiền. Còn về phần tu tập, chúng ta phải quán tất cả các pháp đều do Duy thức tạo, và phải phá trừ ngã chấp và pháp chấp.

Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sẽ cải tạo thân thể và vũ trụ xấu xa này trở thành trang nghiêm tốt đẹp.

 

Nhân Sinh Quan Phật Giáo

 

A.- Mở Đề:

 

Đã là người không ai không băn khoăn tự hỏi mình do đâu mà có? Sự hiện diện của mình trên cõi đời này như thế nào? Hoàn cảnh của mình sống như thế nào? v.v...Thật là bao nhiêu vấn đề, bao nhiêu câu hỏi làm người ta băn khoăn, thắc mắc, ăn không ngon, ngủ không yên.

Để giải quyết các vấn đề trên, các triết học và tôn giáo đều có đưa ra những lời giải đáp hay biện minh về “vấn đề sống” ấy, gọi là nhân sinh quan.

Là một tôn giáo, có một triết học rất cao, đạo Phật tất nhiên cũng có dành một phần lớn để nói về nhân sinh quan.

Nhân sinh quan ấy như thế nào? Đó là một vấn đề mà mỗi Phật tử chúng ta không thể không biết đến được. Sự hiểu biết này có thể giúp chúng ta nhận chân được những ưu điểm và khuyết điểm của con người và giúp chúng ta sắp đặt cuộc đời và sống một cuộc sống có ý nghĩa và lợi lạc cho mình và cho xã hội.

 

B.- Chánh Đề:

 

I. Nhân Sinh Quan Do Đâu Mà Có?

 

Trước tiên, vấn đề làm chúng ta thắc mắc nhiều nhất là: Con người do đâu mà có?

Để giải đáp vấn đề này, đạo Phật có thuyết “mười hai nhân duyên”.

Trong mười hai nhân duyên ấy, “vô minh” là căn bản. Vô minh là gì? Tức là đối với sự lý, không rõ biết được đúng như thật. Do đó mà sanh ra mê lầm, thật cho là giả, giả cho là thật, điên đảo hư vọng chấp ngã, chấp pháp, phân biệt mình, người; rồi theo cảnh thuận nghịch mà khởi phiền não, nên cũng gọi là  hoặc. Từ mê hoặc mà tạo tác ra các nghiệp, hoặc thiện hoặc ác. Sự tạo tác ấy gọi là “Hành”, chi thứ hai trong mười hai nhân duyên.

Do nghiệp lành dữ huân tập chứa nhóm thành ra  nghiệp thức . Nghiệp thức này theo chỗ huân tập thuần thục rồi thác sanh vào thai mẹ, đó là món “Thức”, chi thứ ba trong mười hai nhân duyên.

Trong thai mẹ, gom tinh huyết làm nhục thể, tâm thức cùng nhục thể hòa hiệp gọi là “Danh sắc” đó là chi thứ tư trong mười hai nhân duyên, (Danh: Tâm thức; Sắc: Nhục thể).

Từ Danh sắc lần lần tượng đủ sáu căn, gọi là “Lục nhập”. Đó là chi thứ năm trong mười hai nhân duyên.

Sau khi ra khỏi thai, sáu căn xúc đối với sáu trần, biết nóng, lạnh, đau, êm... nên gọi là “Xúc”, chi thứ sáu trong mười hai nhân duyên.

Do sự cảm xúc ấy, mà tâm dần dần sanh niệm phân biệt, rồi có những giác thọ vui, khổ ... Đó là “Thọ”, chi thứ bảy trong mười hai nhân duyên.

Do sự cảm thọ vui, khổ, khởi niệm ưa ghét, chấp đắm ấy mà sanh ra có “Ái”, chi thứ tám trong mười hai nhân duyên.

Vì tham ái nên tìm cầu nắm lấy cái hay cái tốt, cái ưa thích. Đó là “Thủ” chi thứ chín trong mười hai nhân duyên.

Muốn cho thỏa mãn những chỗ nhiễm trước, ưa thích của “Ái” và “Thủ”, nên phải tạo nghiệp. Nghiệp này có thể chiêu cảm quả báo vị lai, nên gọi là “Hữu”, chi thứ mười trong mươi hai nhân duyên.

Đã có “Hữu” là cái mầm giống, thì thế nào cũng có “Sanh” là chi thứ mười một trong mười hai nhân duyên.

Đã có “Sanh” thì phải có “Lão và Tử” là chi thứ mười hai trong mười hai nhân duyên.

Trong mười hai nhân duyên. “Vô minh” thuộc về “hoặc” và “Hành” thuộc “nghiệp”. Đó là nhơn quá khứ mà có năm quả “Khổ” hiện tại là: Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ.

Do quả “Khổ” hiện tại nói trên mà khởi ra “Hoặc” là ái thủ và tạo “Nghiệp” là hữu, để làm nhơn cho quả “Khổ” sau là sanh và lão tử ở vị lai.

Như thế , từ nhơn quá khứ, sang quả hiện tại, làm lại nhơn cho quả tương lai, ba đời cứ thế nối tiếp xoay vần mãi mãi không dứt, như một bánh xe lăn tròn, lên xuống, xuống lên không nghỉ.

Cứ đó mà suy ra thì biết rằng, người chẳng những sống một đời trong hiện tại này, mà trước kia, về quá khứ đã trải qua không biết bao nhiêu đời sống rồi. Và sau này, trong vị lai, cũng sẽ còn vô lượng đời sống nữa. Người hiện sống đây để rồi chết, mà cái chết lại là cái nhơn làm thành đời sống vị lai.

Như thế, sống, chết nối tiếp theo nhau không bao giờ dứt, như những làn sóng, cái này tan đi để hiệp lại cái khác, không bao giờ hết, nếu còn gió. Con người, nếu gió vô minh còn thổi thì dòng sanh mạng còn lưu chuyển, lăn trôi, chìm nổi mãi. 

 

II. Thân Người Như Thế Nào?

 

Sau khi chúng ta đã biết nguyên nhân gây tạo ra sự hiện diện của người trên cõi thế này rồi, một câu hỏi khác hiện đến trong đầu chúng ta là: Thân con người như thế nào? Đẹp đẽ hay xấu xa, có thật hay giả, đáng quý hay đáng khinh?

Để giải đáp vấn đề này, đạo Phật có nhiều thuyết, tùy theo Tiểu Thừa hay Đại Thừa, tôn phái này hay tôn phái khác. Những thuyết ấy, mặc dù nhiều nhưng không trái chống nhau, mà chính là bổ khuyết cho nhau, làm cho vấn đề này được trình bày trong nhiều khía cạnh, từ hẹp đến rộng, từ cạn đến sâu, từ ngoài vào trong, từ tướng đến thể, từ biệt tướng đến tổng tướng...

Dưới đây chúng tôi xin tuần tự trình bày các quan niệm ấy từ Nhơn thừa đến Thiên thừa, qua Nhị thừa rồi cuối cùng đến Đại Thừa, để quý độc giả có một quan niệm đầy đủ đến vấn đề này:

 

1- Quan niệm Nhơn thừa:

Thân người hòa hợp, do tinh huyết cha mẹ cùng thần thức, góp bốn chất: Cứng, ướt, nóng, động mà thành. Chủ động trong ấy là thức(nghiệp thức). Bởi nghiệp thức nhóm các duyên hội họp thành thân người. Nghiệp thức ấy có ra do bởi sự gây tạo vì đời trước huân tập nơi tự tâm kết thành công năng có tánh cách người, có thể cảm đặng thân người. Như vậy là từ nơi tự tâm tạo tác hạnh nghiệp, các hạnh nghiệp ấy trở lại huân tập thành công năng nghiệp người nơi tự tâm, cho đến khi công năng nghiệp thức ấy thuần thục, gặp đủ các trợ duyên, chiêu cảm hiện ra có thân người. Vậy thân thể không phải tự nhiên không nhân mà có, cũng không phải ai khác làm ra, mà chính do tự tâm tạo, tự tâm biến hiện, nên có câu: “Tâm tạo nhứt thế” và câu “Tam giới hữu tình, giai tuần nghiệp hữu”. Thân thể theo nghiệp nhơn mà có, nghiệp nhơn hữu hạn, nên thân thể có lúc rã rời. Trong khi thân thể còn, từ nơi tự tâm tạo tác các hạnh nghiệp để gây thành công năng chiêu cảm thân sau, và thân sau này sẽ thành hiện tại; khi thân trước đã theo nghiệp báo mà tiêu diệt. Cho nên Phật giáo đối với sự chết, chỉ là sự xoay biến của nghiệp nơi tự tâm, để thay thân cũ, lấy thân mới.

Trong khi mọi người, vì sự hiểu biết hạn hẹp đã lầm tưởng thân thể thoạt nhiên sanh, và sau khi chết hoàn toàn tiêu diệt.

Chết để thay đổi thân mới, sanh để thế thân cũ, xoay vần nơi vòng chết và sanh, sanh và chết, thay thân cũ lấy thân mới, lấy thân mới để thế thân cũ, như người thay y phục.

Vậy thân thể của người hiện nay, chỉ là một thân trong vô lượng thân. Người đã thay bỏ không biết bao nhiêu thân về trước, sau này người cũng sẽ phải đổi thay không biết bao nhiêu thân nữa, nếu không một niệm “hồi quan phản chiếu”.

Sự sanh hiện tại, chỉ là một lần sanh trong vô lượng lần sanh; và sự chết ngày nay cũng chỉ là một phen chết trong vô lượng lần chết.

Phật giáo đối với sự sanh, không tham cầu, vì nó là vô thường không lâu không bền; đối với sự chết, không sợ hãi, vì nó không phải mất hẳn đi, mà chỉ là sự thay cũ đổi mới. Không tham cầu, không hãi sợ, nên Phật giáo đối với thân thể khác hẳn với thường tình trong đời.

Người ta thấy nơi người đã thật hiểu Phật giáo, khi chết như khi sống, lúc đau như lúc mạnh vẫn an hòa bình tĩnh.

Thân hiện có đây, là cái quả của nghiệp thân đã tạo ra từ trước và thân sẽ có sau này là do sự tạo nghiệp bây giờ, nên người trong Phật giáo đương thọ lãnh báo thân hiện tại, dù khổ hay vui đều nhận chịu một cách vui vẻ và nhẫn nại, vì có kêu cầu chán nản thế nào không thể làm gì được một khi đã kết quả, mà nhứt là chỉ lo lắng trau dồi cá nhân, là đều có thể đổi xấu ra tốt, để hưởng lấy quả báo tốt đẹp ở tương lai, tức là tu tập các pháp lành, cùng dẹp trừ tâm niệm hành vi bạo ác.

Cõi người thuộc về đường lành, mặc dù chưa khỏi khổ, nhưng có thể tu tạo nghiệp nhơn để hưởng lấy nhiều hạnh phúc ở thân người. Người ta sẽ bảo, hoặc sẽ cảm thấy sự vui thú, sự hạnh phúc ở nơi người xinh đẹp khỏe mạnh, đầy đủ tất cả nhu dụng, và sự khổ não, sự tai hại ở người xấu xí, đau yếu, thiếu thốn các vật dụng.

Trong hội nói pháp ở Ta Kiệt La Long Cung, đức Phật đã chỉ cho đại chúng biết sự sai khác nơi thân thể của mọi loài, Chư Thiên thân thể tốt đẹp uy nghiêm, hàng Bát bộ sức hùng mạnh mẽ, loài rồng cả thân hình thô bỏ xấu xa, bọn cua trạch tanh hôi hèn yếu. Đều là thân thể, tại sao có tốt xấu khác nhau? Đó là lúc bình sanh nơi thân, khẩu, ý thi thố lành hay gây tạo dữ. Nghiệp lành cảm thân tốt đẹp; nhơn dữ chiêu cảm quả xấu xa, do tự tâm tạo rồi tự thọ. Muốn chúng sanh được thân thể tốt đẹp khỏe mạnh, để hưởng hạnh phúc trong cõi người, trong Kinh Thiện sanh đức Phật cặn kẽ chỉ dạy cách ăn ở hợp pháp trong gia đình về nhơn đạo, lấy năm giới cấm làm căn bản. Bất sát sinh để gây tạo thiện nhân, cảm thành quả thể xinh đẹp khỏe mạnh sống lâu ở tương lai. Không trộm cắp gian tham để làm thành nghiệp lành, hưởng quả no ấm đầy đủ cho thân thể tốt đẹp. Trừ tà dâm để chiêu cảm thân hình đoan trang, cùng hưởng phúc gia đình. Tránh vọng ngữ để được giọng nói điều hòa, trong trẻo. Và kiêng rượu để khỏi phạm mấy điều trên, cùng gây dựng ở hiện tại và vị lai, bộ trí óc sáng suốt.

 

2- Quan niệm Thiên thừa:

Trọn vẹn năm giới cấm, nhân đạo đã hoàn thành, đào tạo chắc chắn nghiệp chủng người tốt lành nơi tự tâm, và sau này khi thuần thục sẽ cảm lấy thân thể làm Người tốt đẹp mạnh khỏe, trường thọ, giọng hay, óc sáng để hưởng hạnh phúc nơi cõi người. Trên cõi người còn có các cõi Trời, về thân thể, mọi phương diện đều hơn người; không như thân người phải thai sanh nhớp nhúa, khổ sở vì các vị Trời được hóa sanh. Thân thể cực kỳ xinh đẹp, cao lớn giống nhau, các căn đầy đủ, thấy suốt, nghe xa, được thần thông tự tại theo ý muốn, đồ nhu dụng tự nhiên có, cho đến khỏi tất cả bệnh tật. Thân thể thường khỏe mạnh luôn, vẫn mãi trẻ trung không già; không như thân người đều không tránh khỏi nỗi đau khổ vì bịnh hoạn, bức bách vì già yếu. Thân thể các loài trong thế gian, chỉ có thân Trời là hơn hết, từ những điều tốt đẹp của thân, nhẫn đến sự thọ dụng.

Từ đâu chiêu cảm được sự thù thắng ấy? Cũng như đã nói ở trước, tạo nghiệp nhơn gì thì tự tâm sẽ gìn giữ nghiệp nhơn ấy, và sẽ chuyển hiện ra quả đúng như vậy. 

Như vậy ngay ở dưới ánh sáng mặt trời, thì bóng của vật ấy thẳng; trái lại, vật ấy bóng ác cong, muốn được bóng thẳng thì phải sửa sang cho vật ấy thật ngay. Cũng như muốn được hưởng thân Trời, phải vun trồng nhiệp nhơn Trời. Phật dạy 10 điều lành gọi là “thập thiện nghiệp” tức là các đức tánh tốt, phát sanh từ thân, khẩu, ý tưởng, thật hành hoàn toàn 10 nghiệp lành. Tự tâm trong sạch, thì nghiệp chủng có công năng tốt đẹp, sẽ cảm thọ thân thù thắng, không bịnh tật, khỏi già nua, trường thọ ở cõi Trời.

Đức Phật dạy những nguyên nhân và quả báo cùng sự tu hành, để khỏi bị những thân xấu xa, khổ sở và được cảm hiện những thân cường tráng, vui vẻ tốt tươi của người và Trời; chính là “Nhơn thừa Phật giáo” cùng “Thiên thừa Phật giáo” đối với thân thể.

Mặc dù vui vẻ ở thân người, song thân người còn phải bị tám điều khổ lụy. Dù thù thắng ở thân Trời, song thân Trời chưa khỏi nạn vô thường, khi nghiệp nhơn đã mãn (ngũ suy tướng hiện). Vì Trời và người đều còn là phàm phu trong tam giới, vậy thân người và thân Trời chưa phải là chỗ đáng ham, nên trong Phật giáo còn có ba Thừa siêu thoát ngoài vòng khổ lụy của ba cõi, tức là: Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa.

 

3- Quan niệm Nhị thừa:

 

1/. Thân bất tịnh: - Lấy con mắt của hàng Nhị thừa xem nơi thân thể, chỉ là một giống nhơ nhấp, do nhiều chất nhơ uế hòa hiệp. Các Ngài chỉ cảm thấy nó là hiện tượng của muôn điều khổ sở, buộc ràng không có mảy may chi đáng gọi là vui thú, nên có câu “thân vi khổ bổn”. Và thân thể là chỗ nhơ, góp tất cả sự nhơ nhớp, cùng để rồi rã rời tan nát, nên có câu “thị thân bất tịnh, cách nang xú uế”, và “thị thân vô thường, tất quy tán diệt”. Thử nghiệm xem những sự thống khổ ở trong thế gian từ đâu mà có? -Phải chăng do nơi thân thể; các sự thống khổ như: Lạnh, nóng, đói, khát, mỏi, khổ, đau, nghịch trái... Đều thuộc về nơi thọ, mà thọ có ra là bởi lục căn tiếp xúc với lục trần, thân thể là chỗ nương của lục căn, nên sự khổ thọ lấy thân làm gốc. Vả lại, người đời không gì khổ bằng: Lúc sinh đau đớn kêu la, khi già lụm cụm run rẩy, lúc ốm đau, yếu đuối bứt rứt, khi chết giãy giụa hãi hùng, bốn việc đại khổ ấy, lại là cái khổ sanh, trụ, dị, diệt, của thân thể.

Xưa bốn Thầy Tỳ kheo cho ở đời sự sợ sệt, sự nóng giận, sự dâm dục cùng sự đói khát là khổ nhứt. Đã bị Phật quở trách vì chưa xét đến thân là gốc của muôn điều khổ. Không thân thì các sự khổ: Sợ, giận, dâm, đói từ đâu mà có. Thấu đáo thay cho câu “thân vi khổ bổn” và câu “thân như oan thù”. Sự nhơ nhớp hôi hám của thân thể không thể tả xiết. Người ta không nhớ quá khứ, không nghĩ đến vị lai, chỉ nhìn nơi hiện tại và dùng nào là quần áo phủ che, nào là xạ hương xông ướp, để tự làm mê hồn mình, trước đống hôi tanh bất tịnh.

Thử nhìn đến các chất như cửu khiếu (9 lỗ cống) trong thân chảy ra, tự mình cũng đã quá gớm của mình, chưa nói đến thân thể của người khác, nên trong Kinh có câu “chư khổ lưu bất tịnh”.

Làn da mỏng là một cái đãy mà trong đó chứa đầy những: Máu, mủ, thịt, xương, đàm dãi và đại tiểu tiện v.v... Còn gì ghê tởm bằng khi một thân người bị lột cả da và bị banh xé. Câu “Cách nạng xú uế” đã từ miệng Phật thốt ra để cảnh tỉnh kẻ say đắm. Thân nhơ nhớp hiện tại từ đâu mà có?- Từ ngày trước: Điểm tinh, giọt huyết hòa lẫn trong khi nghiệp thức vọng tưởng mê cuồng với sự giao hợp của cha mẹ mà kết thành. Sự dơ dáy của tinh huyết, sự đáng nhờm của bào thai, thật không bút mực nào tả hết, cho đến sau này nghiệp thức đã xa lìa, thân thể sẽ xanh cứng, sẽ sình chương, sẽ nứt nẻ ra lần để làm ổ cho đám giòi rữa, làm chỗ cho ruồi kiến bu đậu, và để tiết ra những chất nhơ nhớp nhứt và hôi tanh nhứt. Lúc mới kết hợp: Vọng tưởng tinh huyết bất tịnh; khi to lớn: Đàm đạnh, phân đái máu mủ bất tịnh. Lúc chết tan rã hôi tanh bất tịnh. Như vậy thân người là một vật bất tịnh nhứt trong các vật bất tịnh. Từ đầu đến cuối, khi mới tượng sanh đến lúc hư mất, thảy đều toàn là bất tịnh.

Trong thân nhơ nhớp bất tịnh, đáng ghê tởm nhớp ấy, còn có một sự mà nếu thấy hiểu, người ta sẽ không còn ham muốn gì về thân thể. Từ lúc nào đến lúc nào, bao giờ cũng rắp ranh đến chỗ tiêu diệt. Đang trẻ trung, thấm thoát đã già nua. Từ cái mạnh mẽ tươi tắn, không bao lâu đổi thành yếu đuối, mệt nhọc, nhăn nheo. Trong khoảng thời gian ấy, không biết bao nhiêu sự đổi thay vô thường. Thân năm trước không phải là thân năm nay, thân tháng trước không phải là thân tháng tới, thân ngày nay không phải là thân hôm qua, cho đến từng giờ từng phút, từng sát na cũng đã đổi khác. Đã có đổi thay, tất phải có lúc tiêu diệt, không ai có thể dừng được sự thay đổi nhanh chóng của thân, và không có gì bảo đảm được cái họa trạng hấp tấp mà mọi người đều sợ: “Cái chết”. Mạng sống không khác chỉ mành treo chuông, chỉ chực đứt dây là rớt bể, nên có câu: “Nhơn mạng tại hô hấp gian”. Một hơi thở ra mà không hít vào, tức là đời sống của thân không còn, giờ tan rã sắp đến. Than ôi! Thân là cội khổ, thân là bất tịnh, thân là vô thường, có gì đáng sợ, có gì chán bằng thân. Ở nơi thân không có mảy mún, chỉ có thể tạm gọi là đáng trìu mến, đáng thương tiếc!

Người tu hạnh Nhị thừa, quán sát thấy thân như vậy, nên nhàm chán nơi thân, ghê sợ sanh tử vô thường, gớm nhờm hôi tanh nhớp nhúa, do đó nên gấp lo tự lợi, vội mong thoát ly thân, mà tu các pháp môn tu siêu diệt thoát ly tam giới. Có người thấy rõ thân là khổ sở dơ dáy vô thường như trên, rồi sợ quá, quá nhờm, bèn vội vàng tìm cách xa lìa mau chóng: “Tự tử”. Mấy kẻ lầm to. Họ tự tử để chóng ra khỏi thân, mà họ không biết rằng chính họ đang bồi đắp cho thân được chắc chắn lâu dài. Vì thân có ra là do nghiệp nhơn, thân là quả của nghiệp nhơn, muốn khỏi quả phải trừ nhơn, nay nhơn cứ tạo, cứ gieo mà muốn đừng có quả, quyết hẳn không thể được. Không khác nào người sợ bóng mình, muốn bóng mình không hiện, mà cứ chạy trong ánh nắng. Khi Phật còn tại thế đã có một người có ý tưởng sai lầm này, đó là ông Phước Tăng Tỳ kheo, ghét thân già yếu đau khổ, toan thoát thân bằng cách treo cổ trên bờ suối, bèn bị Ngài Mục Kiền Liên quở trách là khờ dại, cùng giải bày chánh lý cho nghe. Sợ già, đau, sống, chết mà quyên sinh, thật là trở lại gây tạo sự già đau sống chết. Người ta có thể dứt bỏ thân hiện tại, song không thể rời bỏ muôn ngàn thân sẽ có ở vị lai, khi nghiệp hoặc hãy còn. Nghiệp hoặc còn thì khi thân này hư, tất lại tạo thành thân khác, có thân khác tất phải có già, đau, sống, chết, khổ sở. Như vậy, muốn thoát hẳn khổ lụy vì thân thể, phải đoạn trừ cội gốc hiện ra thân, tức là phải dứt hoặc chướng cùng nghiệp nhơn.

 

2/. Thân giả hợp: Cái gốc “hoặc nghiệp” đã trừ, thì cái ngọn là “thân” tức nhiên phải khô mục. Nhơn đã không còn thì quả cũng tự mất. Thân sau không còn chiêu cảm thì các khổ lụy không nương đâu mà có, tức là an vui giải thoát. Dứt được nghiệp hoặc thì vô lậu huệ sanh, thành bậc Nhị thừa Thánh nhơn. Đến đây thân thể các bậc này không còn thiệt thân thể, mà chỉ là sự kết cấu của ngũ ấm, hay thập nhị xứ. Trong khi người thường nhận là thiệt có thân thể, có đầu mặt tay chân, có hình dung động tác, mà với huệ chứng của các Ngài thấy là sắc, là thọ, cho đến là thức; hay thấy là: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; mỗi món có phần vị riêng, không có cái gì có thể gọi là thân thể? Khác nào như ở xa có thấy một cụm rừng liên lạc um tùm, mà khi đến gần kề, thì chỉ thấy cây cối rời rạc, thể của rừng không còn là thật. Cảnh giới ấy đối với người chưa chứng đến, thật khó nhận hiểu, thân chỉ không thiệt có, nó có chỉ là có đối với nghiệp thức của chúng ta thôi. Nó đẹp, nó đáng ưa, cũng chỉ là phù hợp với tình vọng ô nhiễm, xinh đẹp đối với người người, chưa chắc hẳn đã xinh đẹp với người khác. Nàng Tây Thi người đời ca tụng là đẹp, là đáng yêu, mà chim gặp chim sa, cá thấy cá lặng. Nên thân Nàng Tây Thi chắc thiệt là đẹp đáng yêu, thì sao chim cá lại phải sợ hãi? Phải chăng sự đẹp ấy, chỉ là do đồng nghiệp của loài người. Cho đến thân thể hình dáng tác dụng, chỉ có con mắt thường của người. Một mỹ nhân cực kỳ lộng lẫy, nếu ta dùng quang tuyến mà xem, thì mỹ nhân không còn, mà chỉ hiển hiện bộ xương hồng trắng, và nếu ta dùng kính chiếu đại gấp trên ngàn lần, thì ta chỉ thấy đó là một đống da thịt rời rạc, cách nhau từng khoảng. Nếu mọi người đều mang con mắt quang tuyến, cùng kính chiếu đại gấp trên ngàn lần, thì thử hỏi giữa đây, còn có cái gì thiệt là thân như trước.

Huệ nhãn của các vị Nhị thừa Thánh nhơn cũng thế. Đối với người thường thân thể là xinh đẹp, với các Ngài thì thân thể còn không có, huống nữa là xinh đẹp. Chẳng phải là duyên cảnh khác, mà chỗ thấy có sai khác. Cũng đồng một cảnh, song vì thức trí khác nhau, nên chỗ nhận thấy thành không đồng. Do không còn thấy là thật có thân thể, nên các Ngài không còn sanh lòng luyến ái nơi thân không còn có niệm: Thân mình, thân người, vì tất cả đều là ngũ ấm, là lục căn, lục trần; dưới huệ nhãn của các Ngài, và hơn nữa đều đồng là tứ đại giả hợp: Da, thịt, gân, xương, tóc, móng toàn là địa đại; tinh, huyết, đàm, nhớt, nước mắt, mồ hôi, toàn về thủy đại; nhiệt độ thuộc về hỏa đại; cùng sự chuyển động thuộc về phong đại. Tứ đại nếu trái nhau, thì thân thể làm sao đặng có. Rõ biết thân thể là hư vọng, thì cả thảy phiền não tự trừ, vì thân là căn bản của ái nhiễm khi bấy giờ vô ngã trí phát sinh vĩnh viễn thoát ly sanh tử trong ba cõi, tức là rốt ráo được Nhị thừa Phật giáo.

                                        

4- Quan niệm Đại thừa:

 

1/. Thân như huyễn hóa: Mở rộng tầm quan niệm, thân thể đối với hàng tu quán Đại Thừa, là một giải pháp do sự kết cấu của sắc tâm và không rời ngoài thức. Do danh ngôn, ngã chấp, hữu chi ba món huân tập nơi tự thức, tọa thành danh và sắc công năng, khi đủ duyên bèn chuyển hiện, thành thân thể, rồi bám lấy sắc thân, làm tự thể sanh giác thọ, và cùng với thân đồng an đồng nguy; khi thức không còn chấp trì, thì thân hoại diệt. Thân không tự có, do thức tự chuyển biến mà có, thân không tự thể, lấy thức làm thể, toàn thân là thức, ngoài thức không thân. Thân có là do thức công năng biến hiện, công năng hiện thân, bởi các nghiệp duyên huân tập nơi thức mà thành. Nghiệp duyên có ra, lại nương nơi thân mà phát khởi nên thân thể là pháp hư giả, do thức biến hiện. Song từ nơi thân thể tạo nghiệp nhiễm hay tịnh, làm duyên huân tập nơi tự tâm, khiến tự tâm chuyển thành công năng nhiễm hay tịnh. Thân thể cùng công năng xoay chuyển làm nhơn duyên cho nhau, có không phải thiệt có, không không phải thiệt không, thật đồng huyễn hóa. Vì đó nên với quán trí của Đại Thừa thì thân thể như huyễn hiện. Bởi như huyễn không thật có, nên không sa vào lỗi tăng ích của phàm phu, cùng lỗi vọng chấp thường còn của ngoại đạo. Bởi như huyễn, giả có chẳng phải không hẳn, nên khỏi bị lỗi tổn giảm của Nhị thừa và chấp đoạn diệt của tà giáo.

Bồ Tát nương nơi huyễn thân, tu như huyễn pháp môn, dứt huyễn ái kiến, độ huyễn hữu tình, chứng huyễn Thánh quả. Do thấy thân như huyễn hóa, toàn hư vọng, không còn ái trước nơi thân, nên phiền não không sanh. Không ái trước nơi thân, thì khỏi vì thân mà phải thối thất đạo hạnh. Thọ vô lượng thân, tu hành trải qua vô lượng kiếp, mà với Bồ Tát, không có một mảy may niệm tưởng là có thọ thân, cùng có sả thân.

Mảy niệm còn không, huống gì có số kiếp, nên có câu: “thọ thị khổ... kiếp số phi kiếp số”. Vì thân tùy duyên như huyễn sanh, sanh tức vô sanh; thân tùy duyên như huyễn diệt, diệt tức vô diệt, nên có câu: “chúng duyên giả hiệp, hư vọng danh sanh, chúng duyên ly tán, hư vọng danh diệt”. Không sanh không diệt tức là “thật-tướng”. Cổ đức có câu: “huyễn thân bổn tự không tịch, sanh du như cảnh hình tượng,-Giác liễu nhứt thế không, huyễn thân tu du chứng thật tướng”. Đó là từ nơi thân, quán “giả” nhập “không”, chứng “trung đạo”.

 

2/. Thân mình và vũ trụ là một: Thêm lên một từng nữa, Bồ Tát quán thân mình tức là toàn thể vũ trụ, là toàn thể chúng sanh. Vì sao? Tất cả các pháp đều đắp đổi làm duyên, đối đãi với nhau. Một pháp này có ra, là do đối đãi với các pháp kia, các pháp kia có ra, là do đối đãi với pháp này. Thân thể hiện có, là nhờ vũ trụ đối đãi làm duyên, vũ trụ trở lại là do sự đối đãi của thân thể mà có. Duyên nơi vũ trụ mà có thân thể, thì thân thể là vũ trụ. Duyên nơi thân thể mà có vũ trụ, thì vũ trụ là thân thể. Vũ trụ và thân thể không hai không khác. Thân mình và toàn thể vũ trụ, thân người cũng toàn thể vũ trụ. Cho đến thân của tất cả hữu tình, cũng đều là thân thể vũ trụ. Toàn thể vũ trụ là thân mình, mà toàn thể vũ trụ cũng là thân của tất cả hữu tình, và thân hữu tình là toàn thể thân mình. Vũ trụ thể tánh viên mãn, thì thân mình là thân tất cả hữu tình, thể tánh cũng đều viên mãn.

 

III. Thân Phận Của Con Người Đáng Chán hay Không Đáng Chán

 

1- Hoàn cảnh là địa vị của con người trong vũ trụ như thế nào?

Như trong phần vũ trụ quan đã có nói, thế giới có chia ra ba từng bậc là: Dục giới, Sắc giới và vô Sắc giới. Sống trong Dục giới là những sanh vật còn bị lòng dục sai sử, điều khiển, như thực dục, dâm dục. Những loài sống trong Dục giới là: Súc sinh, ngạ quỷ, địa ngục, A tu la, người và chư thiên.

Như thế nào là người cũng sống cùng một cảnh giới với các loài vừa kể trên. Vẫn biết trong sáu loài ấy thì địa vị con người được xếp vào hạng nhì, nhưng dù sao thì cũng sống trong một hoàn cảnh không sáng sủa gì, vì là hoàn cảnh là chủ tể là lòng Dục. Cho nên Phật thường dạy: “Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển”, là thế! Lòng dục đòi hỏi những sự ham muốn về vật chất như thèm ăn, thèm ngủ, thèm ái ân... Nói tóm lại là muốn được thỏa mãn những khoái lạc về ngũ quan. Nhưng đâu đã hết! Con người còn ham muốn được thỏa mãn những nhu cầu về tinh thần: Ham muốn chiếm đoạt, ham muốn về chế ngự, ham muốn phô trương... nghĩa là tham danh tham lợi.

Nhưng nếu tham mà được thỏa mãn tất cả, thì cũng đỡ khổ. Ở đây, trái lại, lòng dục không bao giờ được thỏa mãn cả. May ra thì còn có thể thỏa mãn tạm thời trong chốc lát. Và như thế lại càng nguy hiểm, vì chẳng khác gì người khát mà uống nước mặn, càng uống càng khát.

Loài người bị trói buộc vào lòng dục, như con ngựa bị buộc vào cỗ xe, cứ phải kéo chạy mãi, không bao giờ được yên nghỉ.

Hơn nữa, lòng dục ấy chính là cái mầm xung đột giữa loài này với loài khác: Ai cũng mong được thỏa mãn lòng dục của mình, cho nên sanh ra vị kỷ, làm khổ cho người khác và loài khác để mình được vui. Do đó, mỗi chúng ta sanh là một kẻ địch thủ của mỗi chúng sanh khác, và cõi đời này là một bãi chiến trường, mà trong mỗi phút mỗi giây, có không biết bao nhiêu là chiến sĩ bị ngã gục. Do đó cõi chiến trường ấy cũng là một bãi tha ma rộng lớn vô cùng. Theo Phật dạy thì đó là một biển khổ mênh mông!

 

Biển khổ mênh mông sóng ngập trời,

Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,

Thuyền ai ngược gió, ai xuôi gió?

Ngẫm lại, cùng trong biển khổ thôi.

 

2- Tánh chất vô thường và vô ngã của con người:

Con người khổ vì lòng dục, con người còn khổ hơn nữa vì hai tánh chất căn bản sau đây:

1/. Vô thường: Mọi vật ở đời không đứng yên một chỗ, mà biến chuyển di động luôn luôn trong từng phút, từng sát na. Thân phút trước, không phải là thân phút sau. Cứ trong mỗi phút giây, bao nhiêu triệu tế bào trong người đang chết và bị thay thế. Con người thì tham được sống, mà con người cứ bị kéo dần về cõi chết. Càng muốn được sống chừng nào, lại càng sợ chết chừng ấy. Sự chuyển biến mau lẹ, từ tóc xanh đến bạc đầu, chẳng khác gì một giấc chiêm bao.

 

2/. Vô ngã: Con người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp. Con người chỉ là một cái tên, là một giả danh để gọi cái duyên hợp của năm uẩn là: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Khi đủ nhân duyên chúng nó tập hợp lại thì gọi là sống, khi nó tan rã thì chết. Trong năm uẩn ấy, có cái gì chủ tể, thuần nhất đâu? Vả lại, ngay trong năm uẩn ấy cũng không có cái nào gọi là thuần nhất, mà cũng lại do sự tập hợp của lục đại.

Không thường mà tưởng là thường, không ngã mà tưởng là có ngã. Đó cũng tức là cái mê mờ lớn nhất của con người. Và cũng chính do cái mê mờ ấy mà con người đau khổ lại càng đau khổ thêm.

 

3- Khả năng của con người:

Xét như trên, thì thân phận con người thật là đáng chán. Vậy thì chúng ta đành thất vọng, buông xuôi tay mà than khóc để chờ chết hay sao? Ta còn niềm tin gì ở con người nữa chăng?

Tất nhiên là có! Phật dạy: “Chúng sanh đều có khả năng thành Phật”. Nói một cách khác, con người, mặc dù sống trong đau khổ, nhưng đều có Phật tánh. Với cái Phật tánh ấy, con người có thể thoát ra khỏi hoàn cảnh tối tăm của mình. Để thoát ra khỏi hoàn cảnh ấy, con người không cần phải quỳ lụy, cầu xin một đấng nào khác, mà do tự tin vào hành động của mình. Chỉ có mình mới giải thoát cho chính mình được mà thôi. Con người, chính là vị sáng tạo của đời mình. Khi mê thì con người tự mình làm cho mình đau khổ, nhưng khi biết mình mê mà tìm cách thoát ra khỏi cảnh mê, thì con người chính là kẻ tự gầy dựng hạnh phúc cho mình.

Đó là ưu điểm của con người, đó cũng là niềm tin tưởng lớn của con người. Đứng về một phương diện, thì thân phận của con người thật là đáng chán. Nhưng đứng về một phương diện khác, thì con người thật đáng phấn khởi.

Cho nên bảo rằng nhân sinh quan của đạo Phật là bi quan cũng không đúng hẳn. Lạc quan hay bi quan còn tùy thuộc ở phương diện quan sát của mình.

 

C.- Kết Luận:

 

Rút (đúc kết) những nhận xét trên, chúng ta có thể kết luận rằng: Khi trong mê, thì thân phận con người thật là bi đát. Nhưng khi bắt đầu nhận được mình mê, thì con người có thể hoán cải được hoàn cảnh và cuộc sống của mình.

Nhưng làm thế nào để hoán cải? Làm thế nào để chuyển mê thành ngộ? Làm thế nào để chuyển khổ thành vui? May thay! Giáo lý của đức Phật có đấy, người chỉ dẫn phương pháp chuyển mê thành ngộ, chuyển khổ thành vui còn đó.

Chúng ta chỉ còn gia công tụ tập, thì thế nào cũng chuyển đổi được hoàn cảnh buồn thảm của chúng ta. Cho nên đức Phật thường dạy: Cảnh Ta bà này cũng tức là cảnh Phật. Người cũng là Phật.

Ban Hoằng Pháp.

 

Ở đây chúng tôi không đề cập đến nguồn gốc của con người và vũ trụ trong mối liên hệ về nhân sanh hay vũ trụ mà chúng tôi chỉ chú trọng đến quan niệm sống của con người về mối quan hệ gián tiếp hay trực tiếp giữa Tâm (con người = các uẩn) và Vật (vạn hữu = trần cảnh) hay chánh báo và y báo trong sinh hoạt vật chất hay tâm linh: Buồn hay vui, hạnh phúc hay khổ đau... do đâu mà ra, để từ đó đưa ra quan niệm sống làm sao cho phù hợp với thế giới quan hiện thực.

Thích nghĩa cho phần “Vũ trụ quan và Nhân sinh quan Phật đạo:

(1). Chúng tôi không dùng công thức thường lệ để đánh dấu bài này vì tôn trọng tác giả, nên chúng tôi giữ y cách trình bài của tác giả.

 

---o0o---

 

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567