Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Thứ XII

10/02/202107:54(Xem: 5489)
Hội Thứ XII

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-545

 

HỘI THỨ XII

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

(bố cục)

 

12. Hội thứ XII: Phần “Tịnh Giới Ba La Mật”, 5 quyển. Nội dung Ngài Xá lợi Phất nhờ sức thần thông của đức Phật mà nói rộng về nghĩa chân thực của tịnh giới, chỉ bảo rõ thế nào là giữ giới và thế nào là phạm giới. Như: Phát tâm Nhị thừa là phạm giới, hướng tới Vô thượng Chính đẳng Bồ đề là giữ giới; dính mắc vào tướng bố thí, phân biệt các pháp, xa lìa Nhất thiết trí là phạm giới v.v...

 

---o0o---

 

 

PHẦN “TỊNH GIỚI BA LA MẬT”

 

Dẫn nhập:

 

Phần “Tịnh Giới Ba La Mật” cũng có 5 quyển: Bắt đầu từ quyển 584 cho đến hết quyển 588. Chúng tôi cũng chia ra từng quyển để tóm lược và chiết giải như phần “Bố Thí Ba La Mật”. Ở đây một lần nữa Kinh nhấn mạnh về sự khác biệt giữa tịnh giới của Nhị thừa và tịnh giới của Bồ Tát thừa, không ngoài mục đích khuyến khích người tu tịnh giới không những chỉ vì mình mà phải vì người khác tu tịnh giới để đem lại thanh tịnh cho mọi chúng sanh.

Đối với Nhị thừa hành có sở tác mới gọi là phạm giới. Trái lại, Bồ Tát chỉ cần dấy niệm, thủ tâm chấp tướng là đã có tội rồi, không cần phải biểu lộ bằng hành vi, tạo tác. Nên nói giới của Bồ Tát hết sức tế nhị, khó khăn. Tu như vậy, nên thiện pháp mới dễ tăng trưởng. Vì vậy, phẩm thứ nhất, tập 1, quyển 13, Đại Trí Độ Luận nói rằng: “... giới là trú xứ của hết thảy thiện pháp”.

Trì giới là tự nhiếp phục, thủ hộ thân tâm để được tịnh giới. Giới thanh tịnh thì tâm thanh tịnh. Tâm tịnh thì hạnh tịnh, tâm bình thế giới bình.  Một tâm thanh tịnh, mười phương thế giới đều thanh tịnh. Đó là tu tịnh hạnh! Hạnh thanh tịnh, thác cũng được sanh về cõi Phật.

 

Tóm lược:

 

Quyển thứ 584

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời đức Bạc già phạm cùng với một ngàn hai trăm năm mươi chúng đại Bí sô trú ở vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ đa, thành Thất la phiệt. Bấy giờ, Thế Tôn bảo cụ thọ Xá lợi Tử:

- Bây giờ, ngươi nên vì các đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề mà tuyên thuyết Tịnh giới Ba la mật.

Xá lợi Tử vâng theo lời dạy của Phật và nương vào thần lực Phật, giáo huấn, trao truyền Tịnh giới Ba la mật cho các đại Bồ Tát.

Khi ấy, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Làm sao biết được Bồ Tát trì giới? Làm sao biết được Bồ Tát phạm giới? Thế nào là hành xứ(1) của Bồ Tát? Thế nào là chẳng phải hành xứ của Bồ Tát?

 

(Thế nào là tịnh giới? Thế nào là phạm giới?) 

 

Xá lợi Tử liền trả lời cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Nếu các Bồ Tát tác ý an trụ Thanh văn, Độc giác, thì chẳng phải là hành xứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ chỗ này nên biết là Bồ Tát phạm giới. Nếu các Bồ Tát hành nơi phi xứ này thì các Bồ Tát nhất định không giữ gìn được Tịnh giới Ba la mật. Nếu các Bồ Tát không giữ gìn Tịnh giới Ba la mật thì các Bồ Tát này xả bỏ bổn nguyện. Nếu các Bồ Tát xả bỏ bổn nguyện nên biết là Bồ Tát phạm giới.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tu hành bố thí, hồi hướng đến địa vị Thanh văn, hoặc Độc giác thì gọi là Bồ Tát hành phi xứ. Nếu Bồ Tát hành phi xứ, nên biết đây là Bồ Tát phạm giới. Nếu các Bồ Tát an trụ tại nhà, hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu, nên biết đây chẳng phải là Bồ Tát phạm giới. Nếu khi Bồ Tát hành bố thí, hồi hướng đến địa vị Thanh văn, hoặc Độc giác, không cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nên biết đây là Bồ Tát phạm giới.

 

(Đây là một giới luật cực kỳ quan trọng đối với Bồ Tát: Tác ý và hồi hướng Nhị thừa, chấp lấy tịnh giới. Các Bồ Tát này liền  mất Bồ Tát giới, xem như xả bỏ bổn nguyện, nên biết đó gọi là phạm giới Bồ Tát).

 

Ví như Vương tử nên học giáo lệnh của Phụ vương, và học những pháp mà Vương tử cần phải học. Nghĩa là các Vương tử đều nên khéo học các ngành nghề tinh xảo và các sự nghiệp. Các ngành nghề tinh xảo và các sự nghiệp, là luyện tập các bộ môn như biết cưỡi voi, ngựa, xe và giỏi cầm cương, cung, nỏ, mâu nhọn, đao, mâu cán dài, lưỡi câu tròn, chạy nhảy, tránh né, chữ viết, in ấn, toán số, Thanh luận(2), Nhân minh luận v.v... Nếu các Vương tử siêng năng học tập các thứ như vậy là thuận theo lợi ích pháp vua. Tuy hưởng thọ, vui đùa thỏa thích năm dục lạc nhưng không bị nhà vua quở trách.

Bồ Tát cũng vậy, siêng năng cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tuy ở tại gia hưởng thọ thỏa thích năm dục lạc, nhưng không trái nghịch với Nhất thiết trí trí. Nếu khi các Bồ Tát thọ trì tịnh giới, hồi hướng địa vị Thanh văn, Độc giác thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Càng hành nơi phi xứ thì càng lúc càng phạm giới, càng phạm giới thì càng xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tuy xuất gia thọ trì tịnh giới, nhưng không hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì các Bồ Tát này nhất định không thành tựu tịnh giới Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát này nhất định không thành tựu tịnh giới Bồ Tát, thì các Bồ Tát này chỉ có hư danh, hoàn toàn không có thật nghĩa. Nên biết những vị ấy không gọi Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát tuy ở tại gia nhưng thọ tam quy(3), có lòng tin Tam bảo sâu xa, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì các Bồ Tát này dù hưởng thọ năm dục lạc đầy đủ, song đối với sự hành Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát thường không xa lìa, gọi là người trì tịnh giới chơn thật, cũng gọi là an trụ tịnh giới Bồ Tát.

Nếu các Bồ Tát trụ giới Bồ Tát thì các Bồ Tát này thường không xa lìa Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thường không xa lìa Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, thì các Bồ Tát này thường không xa lìa Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát phát khởi nhiều tác ý phi lý, tương ưng với năm dục nhưng chỉ cần khởi một tâm niệm tương ưng với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì có thể diệt trừ tất cả. Giống như nhiều ngọc Ca già mạc ni, nhưng chỉ một viên Lưu ly có thể lấn át tất cả ánh sáng kia. Nghĩa là giá trị, ánh sáng của Lưu ly vượt hơn, sáng hơn tất cả ngọc Ca già mạt ni. Bồ Tát cũng vậy, tuy phát khởi nhiều tác ý phi lý tương ưng với năm dục, nhưng nếu chỉ khởi một tâm niệm tương ưng với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì sẽ đẩy lùi tất cả, như một số ngọc Ca già bị ngọc Lưu ly đoạt mất ánh sáng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát chấp trước các tướng mà hành bố thí, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Nếu các Bồ Tát hành nơi phi xứ, nên biết các Bồ Tát này phạm giới Bồ Tát. Bồ Tát không nên chấp trước các tướng mà hành bố thí, cũng lại không nên chấp trước quả vị Vô Thượng Bồ đề mà hành bố thí. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật xa lìa các tướng. Vì sao? Vì mười lực của Như Lai, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng v.v..., vô lượng vô biên các pháp vi diệu của chư Phật đều xa lìa các tướng. Như vậy, Bồ Tát đối với sự hành bố thí không nên chấp trước. Nếu các Bồ Tát đối với sự hành bố thí mà không chấp trước, thì các Bồ Tát này liền hộ trì được Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, mau chóng chứng đắc Nhất thiết trí trí.

 

(Nhất thiết trí trí xa lìa các tướng) 

 

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nếu các Bồ Tát cầu Nhất thiết trí trí mà tu hành bố thí, thì các Bồ Tát này đâu khởi tâm chấp trước Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát khởi tâm chấp trước Nhất thiết trí trí sẽ thành giới cấm thủ, thì làm sao gọi là trì giới Bồ Tát?

Xá lợi Tử đáp:

- Nhất thiết trí trí xa lìa các tướng, chẳng nhiếp phương chỗ.

Nhất thiết trí trí chẳng phải ngũ uẩn, cũng không xa lìa ngũ uẩn. Nhất thiết trí trí chẳng phải 12 xứ, cũng không xa lìa 12 xứ. Nhất thiết trí trí chẳng phải 18 giới, cũng không xa lìa nhãn giới. Nhất thiết trí trí chẳng phải nhãn xúc, không xa lìa nhãn xúc; chẳng phải nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc, không xa lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc. Nhất thiết trí trí chẳng phải các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, không xa lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra; chẳng phải các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra, không xa lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra.

Nhất thiết trí trí chẳng phải địa giới, không xa lìa địa giới; chẳng phải thủy, hỏa, phong, không, thức giới, không xa lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới.

Nhất thiết trí trí chẳng phải nhân duyên, không xa lìa nhân duyên; chẳng phải đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên, không xa lìa đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên.

Nhất thiết trí trí chẳng phải vô minh, không xa lìa vô minh; chẳng phải hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử; không xa lìa hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái thủ, hữu, sanh, lão tử.

Nhất thiết trí trí chẳng phải bố thí Ba la mật, không xa lìa bố thí Ba la mật; chẳng phải tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, không xa lìa tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Nhất thiết trí trí chẳng phải 18 pháp Không, cũng không xa lìa 18 pháp Không. Nhất thiết trí trí chẳng phải chơn như, không xa lìa chơn như; chẳng phải pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì; không xa lìa pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì.

Nhất thiết trí trí chẳng phải Tứ đế, cũng không xa lìa Tứ đế.

Nhất thiết trí trí chẳng phải bốn tĩnh lự, không xa lìa bốn tĩnh lự; chẳng phải bốn vô lượng, bốn định vô sắc; không xa lìa bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Nhất thiết trí trí chẳng phải bốn niệm trụ, không xa lìa bốn niệm trụ; chẳng phải bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo; không xa lìa bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp môn giải thoát Không, không xa lìa pháp môn giải thoát Không; chẳng phải pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện; không xa lìa pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện.

Nhất thiết trí trí chẳng phải tám giải thoát, không xa lìa tám giải thoát; chẳng phải tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ; không xa lìa tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp môn Đà la ni, không xa lìa pháp môn Đà la ni; chẳng phải pháp môn Tam ma địa, không xa lìa pháp môn Tam ma địa.

Nhất thiết trí trí chẳng phải thập địa cộng tam thừa, cũng không xa lìa thập địa cộng tam thừa. Nhất thiết trí trí chẳng phải thập địa Bồ Tát; cũng chẳng phải xa lìa thập địa Bồ Tát.

Nhất thiết trí trí chẳng phải năm loại mắt, không xa lìa năm loại mắt; chẳng phải sáu phép thần thông, không xa lìa sáu phép thần thông.

Nhất thiết trí trí chẳng phải mười lực Phật, không xa lìa mười lực Phật; chẳng phải bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng; không xa lìa bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Nhất thiết trí trí chẳng phải ba mươi hai tướng Đại sĩ, không xa lìa ba mươi hai tướng Đại sĩ; chẳng phải tám mươi vẻ đẹp, cũng không xa lìa tám mươi vẻ đẹp.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp không quên mất, không xa lìa pháp không quên mất; chẳng phải tánh luôn luôn xả, cũng không xa lìa tánh luôn luôn xả.

Nhất thiết trí trí chẳng phải Nhất thiết trí, không xa lìa Nhất thiết trí; chẳng phải Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, cũng không xa lìa Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí.

Nhất thiết trí trí chẳng phải quả Dự lưu, không xa lìa quả Dự lưu; chẳng phải quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề; không xa lìa quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề.

Nhất thiết trí trí chẳng phải tất cả hạnh Bồ Tát, không xa lìa tất cả hạnh Bồ Tát; chẳng phải quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật, cũng không xa lìa quả vị Vô Thượng Bồ đề của chư Phật.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu sắc, không xa lìa pháp hữu sắc; chẳng phải pháp vô sắc, cũng không xa lìa pháp vô sắc.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu kiến, không xa lìa pháp hữu kiến; chẳng phải pháp vô kiến, cũng không xa lìa pháp vô kiến.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu đối, không xa lìa pháp hữu đối; chẳng phải pháp vô đối, cũng không xa lìa pháp vô đối.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu lậu, không xa lìa pháp hữu lậu; chẳng phải pháp vô lậu, cũng không xa lìa pháp vô lậu.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu vi, không xa lìa pháp hữu vi; chẳng phải pháp vô vi, cũng không xa lìa pháp vô vi.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp hữu lượng, không xa lìa pháp hữu lượng; chẳng phải pháp vô lượng, cũng không xa lìa pháp vô lượng.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp quá khứ, không xa lìa pháp quá khứ; chẳng phải pháp vị lai, hiện tại, cũng không xa lìa pháp vị lai, hiện tại.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp thiện, không xa lìa pháp thiện; chẳng phải pháp bất thiện, vô ký, cũng không xa lìa pháp bất thiện, vô ký.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp buộc cõi Dục, không xa lìa pháp buộc cõi Dục; chẳng phải pháp buộc cõi Sắc, Vô sắc, cũng không xa lìa pháp buộc cõi Sắc, Vô sắc.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp thấy sở đoạn, không xa lìa pháp thấy sở đoạn; chẳng phải pháp tu sở đoạn, không đoạn; cũng không xa lìa pháp tu sở đoạn, không đoạn.

Nhất thiết trí trí chẳng phải pháp học, không xa lìa pháp học; chẳng phải pháp không học, chẳng học chẳng không học; cũng không xa lìa pháp không học, chẳng học chẳng không học.

Nhất thiết trí trí xa lìa các tướng, không có pháp có thể đắc, không sở đắc nên không thể chấp thủ.

Nhất thiết trí trí không phải có pháp, cũng không phải không pháp. Do nhân duyên này không còn chấp thủ, nên Bồ Tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Tuy cầu chứng đắc Nhất thiết trí trí nhưng không gọi là hộ trì giới cấm thủ. Nếu các Bồ Tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng Thanh văn, hoặc Độc giác, chấp lấy tịnh giới thì các Bồ Tát này mất Bồ Tát giới, nên biết đó gọi là phạm giới Bồ Tát.

 

(Bồ Tát phạm giới có thể trở lại tịnh giới được không?)

 

Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:

- Nếu các Bồ Tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, vi phạm giới Bồ Tát đã thọ. Các Bồ Tát này nếu có điều kiện có thể trở lại tịnh giới không?

Xá lợi Tử đáp:

- Nếu Bồ Tát kia, hồi hướng bậc Thanh văn, Độc giác rồi, chưa thấy Thánh đế, chưa chứng thật tế, hoặc có điều kiện thì dễ có thể trở lại tịnh giới. Nếu đã thấy Thánh đế, chứng thật tế rồi, dị kiến sâu nặng thì khó có thể trở lại tịnh giới.

Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nếu các Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không nên để cho họ chứng thật tế hay sao?

Xá lợi Tử đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu các Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không nên để cho họ chứng nơi thật tế.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Do nhân duyên gì mà các Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, không nên để cho họ chứng thật tế.

Xá lợi Tử đáp:

- Có các Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nếu mau làm cho vị ấy chứng thật tế, thì các Bồ Tát này hoặc được đủ nhân duyên, trú ở bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, khó có thể làm cho họ khởi tâm Nhất thiết trí trí, hoặc gặp lúc chánh pháp Như Lai không còn, không cần chứng đắc Nhất thiết trí trí, bấy giờ liền chứng Độc giác Bồ đề, nhập vào Vô dư y Niết bàn, hoàn toàn không chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Do nhân duyên này, nếu các Bồ Tát cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, không nên làm cho vị ấy mau chứng thật tế, cho đến chưa ngồi tòa Bồ đề vi diệu, không nên làm cho vị ấy chứng thật tế, hoặc khi đã ngồi tòa Bồ đề vi diệu, sắp chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề có thể làm cho họ chứng nơi thật tế, dứt trừ tất cả chướng ngại để chứng đại Bồ đề.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tu hành Tịnh giới Ba la mật, không nên thọ trì tịnh giới của nhị thừa. Vì tịnh giới kia không thể hộ trì Nhất thiết trí trí, không phát tâm hướng đến Nhất thiết trí trí, không giữ gìn Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, không viên mãn tịnh giới Nhất thiết trí của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát khởi tâm phân biệt, giới hạn làm lợi ích cho hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, thì các Bồ Tát này không giữ gìn được Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, không viên mãn Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát không có phân biệt, giới hạn. Nếu các Bồ Tát phát tâm không phân biệt, giới hạn làm lợi ích hữu tình, tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, thì các Bồ Tát này mới giữ gìn được Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, cũng viên mãn Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát. Do nhân duyên đây, nên gọi các Bồ Tát này thành tựu tịnh giới Bồ Tát.

 

(Sao gọi là Bồ Tát thọ trì tịnh giới?

Sao gọi là Bồ Tát không thọ trì tịnh giới?) 

 

Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:

- Sao gọi là Bồ Tát trì giới?

Xá lợi Tử đáp:

- Nếu các Bồ Tát tùy theo sự hành bố thí, tất cả đều hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình đến tận đời vị lai không gián đoạn, nên biết đó là Bồ Tát trì giới. Nếu các Bồ Tát tùy theo sự hộ trì giới, tất cả hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình đến tận đời vị lai không gián không đoạn, nên biết đây là Bồ Tát trì giới.

Nếu các Bồ Tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành trì giới, làm cho được viên mãn, nhưng không hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình đến tận đời vị lai không gián đoạn, thì các Bồ Tát này không hộ trì được Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, không viên mãn Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành tịnh giới, làm cho được viên mãn nhưng hồi hướng tâm về Thanh văn, Độc giác thì các Bồ Tát này không hộ trì được Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, không viên mãn Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát.

Nếu các Bồ Tát tuy không thọ trì tịnh giới của nhị thừa, nhưng không gọi là người phạm tịnh giới. Nếu các Bồ Tát hồi hướng về bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, tuy thọ trì nhiều tịnh giới của nhị thừa nhưng lại gọi là người phạm tịnh giới. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu các Bồ Tát hồi hướng về Thanh văn, hoặc Độc giác, nên biết đó là hành nơi phi xứ. Nói phi xứ tức là nhị thừa, chẳng phải chỗ hành xứ của Bồ Tát vậy.

 

(Hành xứ của Bồ Tát)

 

Mãn Từ Tử lại hỏi Xá lợi Tử:

- Sao gọi là Bồ Tát hành xứ?

Xá lợi Tử đáp:

- Tác ý tương ưng với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với Pháp nội Không, ngoại Không, nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không, hữu vi Không, vô vi Không, tất cánh Không, vô tế Không, tán Không, vô biến dị Không, bản tính Không, tự tướng Không, cộng tướng Không, nhất thiết pháp Không, bất khả đắc Không, vô tính Không, tự tính Không, vô tính tự tính Không. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, định pháp, trụ pháp, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với sự học bốn tĩnh lự; bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với sự học pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với sự học tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với Cực hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với tất cả pháp môn Đà la ni, tất cả pháp môn Tam ma địa. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với năm loại mắt, sáu phép thần thông. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tác ý tương ưng với mười lực Phật, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết trí trí. Nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát.

Nếu các Bồ Tát an trụ tu hành chắc chắn nơi hành xứ này, nên biết đây là Bồ Tát trì giới.

(Nếu Bồ Tát tu hành tất cả pháp Phật, nên biết đó là hành xứ của Bồ Tát. Như vậy, nên gọi đây là Bồ Tát thọ trì tịnh giới)

 

(Thế nào là Tịnh giới Ba la mật?) 

 

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp, ở tại gia hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu, nhưng không phát khởi tâm hồi hướng về bậc Thanh văn, Độc giác. Nên biết các Bồ Tát này không gọi là phạm Bồ Tát giới. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ Tát này ý thích tăng thượng, không thối chuyển, biến hoại.

-  Sao gọi là ý thích tăng thượng?

- Nghĩa là quyết định cầu Nhất thiết trí trí. Ví như có người đối với tài vật của người khác, thật tình không cướp đoạt, tuy bị cầm tù oan uổng trong một thời gian dài, nhưng tâm ý an lạc thường vui, không bị thối chuyển nản lòng. Tuy ở tù chung với người xấu, nhưng không có tâm trộm cướp tài vật của người khác, nên không gọi là giặc cướp. Bồ Tát cũng vậy, tuy ở tại gia dù trải qua hằng hà sa số đại kiếp hưởng thọ năm dục lạc thượng diệu, nhưng ý thù thắng thường không thối chuyển, biến hoại, nghĩa là luôn cầu Nhất thiết trí trí, chưa từng phát khởi tâm nhị thừa. Cho nên không gọi là phạm Bồ Tát giới.

Nếu các Bồ Tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành phạm hạnh, nhưng phát tâm hồi hướng về nhị thừa, nên biết không gọi là người trì tịnh giới. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì người kia bỏ tịnh giới Bát nhã Ba la mật, an trụ giới Thanh văn, Độc giác thừa. Nếu các Bồ Tát an trụ giới Thanh văn, Độc giác thừa, thì không gọi là Bồ Tát. Vì sao? Vì các Bồ Tát này xa lìa Tịnh giới Ba la mật, tâm không cầu Nhất thiết trí trí, nhất định không chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát khởi tâm như vầy: Ta chỉ có thể tinh tấn trải qua bao nhiêu kiếp trong vòng sanh tử, để chứng đắc Nhất thiết trí trí. Các Bồ Tát này do khởi tâm này nên không chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nếu các Bồ Tát tâm khởi làm phân hạn rằng: “Ta phải tinh siêng lâu bấy nhiêu kiếp định sẽ chứng được Nhất thiết trí trí”, tâm mong cầu như thế có lầm lỗi gì mà chẳng thể được Nhất thiết trí trí? 

Xá lợi Tử đáp:

- Các Bồ Tát này nhàm chán sanh tử, mong cầu mau chứng Bồ đề. Do tâm mong cầu nên có phân biệt, giới hạn. Do có phân biệt, giới hạn nên không thành thục thiện căn thù thắng. Do sợ sanh tử hoặc cầu quả Thanh văn, Độc giác thừa. Chẳng phải phân biệt, giới hạn mà lại làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Chẳng phải phân biệt, giới hạn mà làm viên mãn vô lượng bố thí Nhất thiết trí trí. Chẳng phải không viên mãn vô lượng bố thí Nhất thiết trí trí mà chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu tâm các Bồ Tát có phân biệt, giới hạn, giả sử có trải qua hằng hà sa số đại kiếp, tu hành bố thí Ba la mật nhưng cũng không viên mãn bố thí Ba la mật. Bố thí Ba la mật của Bồ Tát không có bờ mé cho nên Nhất thiết trí trí cũng không có bờ mé. Nếu Bồ Tát không viên mãn bố thí Ba la mật, mà chứng đắc Nhất thiết trí trí thì không có điều này. Vì vậy, Bồ Tát mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề nhất định không nên khởi tâm phân biệt, giới hạn, mong cầu mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì các Bồ Tát này quyết định không có tâm phân biệt, giới hạn tu hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu hạnh Bồ Tát. Từng lúc, từng lúc việc tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật dần dần được thành thục khéo léo, có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Ví như vật bằng đất nung mới, đựng đầy nước sạch phơi giữa nắng. Suốt thời gian dài, nước thấm dần, thấm dần, như vậy vật ấy càng thêm bền chắc.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như bình sứ mới, đựng đầy bơ dầu, để qua thời gian lâu, cứ như vậy, như vậy, bơ dầu thấm dần, thấm dần. Do đó nên bình sứ càng chắc, có thể chịu đựng được. Bồ Tát cũng vậy, từng giờ, từng giờ ở lâu trong sanh tử tu Bồ Tát hạnh. Từng lúc, từng lúc gặp được nhiều vị Phật và đệ tử Phật, tin tưởng cung kính, cúng dường, dần dần được nhiều vị Phật và đệ tử Phật dạy dỗ, trao truyền, dần dần chấm dứt các chướng ngại, chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát càng khởi tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, thì càng không để tâm phan duyên với cảnh khác. Không để tâm phan duyên với cảnh khác, thì càng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát Nhã, Nhất thiết trí trí càng tiếp nối thấm nhuần nơi tâm, dần dần được viên mãn. Do tâm liên tục được viên mãn, nên gọi là phát tâm đến Nhất thiết trí trí.

Tâm tương tục này không gián đoạn cho đến khi chứng đắc Nhất thiết trí trí. Như bình chứa dầu bơ lâu ngày, như vậy hơi dù thấm nhuần khắp bình, không nhiễm mùi của hơi khác bám vào. Đại Bồ Tát cũng vậy, khởi tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, tâm không bị cảnh khác xen tạp. Do không xen tạp nên bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật huân tập viên mãn. Các ác ma muốn rình tìm lỗi, chắc chắn không thể được. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu đối cảnh đây mà ma rình tìm lỗi, thì các Bồ Tát liền khởi tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, do đó ác ma chẳng làm gì được.

 

Bồ Tát càng ở lâu trong sanh tử tu hành lục Ba la mật thì càng có cơ hội phụng thờ nhiều chư Phật và các đệ tử. Nếu càng phụng thờ nhiều chư Phật và các đệ tử thì càng có dịp nghe thuyết lục Ba la mật, lại tinh tấn thọ trì các Ba la mật, tu tập không điên đảo thì càng viên mãn các Ba la mật. Tâm tương tục như thế thì bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật dần dần được vuông tròn. Khi ấy, càng gần Nhất thiết trí trí, mau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát muốn khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới. Các Bồ Tát này trước hết phải tự khởi tâm, tâm sở tương ưng với tịnh giới; sau đó mới khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới. Đã khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới rồi, lại làm cho họ hồi hướng về Nhất thiết trí trí. Bồ Tát như vậy là tự tu thiện căn, hồi hướng sở cầu Nhất thiết trí trí; lại khuyến hóa, hướng dẫn các hữu tình khác khởi tâm thanh tịnh thọ trì tịnh giới, thọ trì tịnh giới rồi lại làm cho họ hồi hướng Nhất thiết trí trí. Mới có thể gọi là bậc thầy khéo léo giáo hóa.

 

(Bồ Tát thành tựu các diệu pháp rộng lớn

hơn các bậc Thanh văn?) 

 

Nếu các Bồ Tát dạy dỗ, giáo huấn bậc Thanh văn thừa, khiến họ siêng năng tu học Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, thì các Bồ Tát này hơn bậc Thanh văn thừa. Nếu bậc Thanh văn nào dạy dỗ, giáo huấn vị Bồ Tát thừa, khiến vị ấy siêng năng tu học Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, thì bậc Thanh văn này cũng không hơn được Bồ Tát. Vì sao? Vì Thanh văn công đức thiện căn chỉ cầu chứng Niết bàn, không cầu chứng hướng đến Nhất thiết trí trí.

Mãn Từ Tử! Như ngọc Lưu ly càng mài dũa thì càng trong sáng. Bồ Tát cũng vậy càng được Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, khiến cho vị ấy siêng năng tu học Tịnh giới Ba la mật thì Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát càng ngày càng tăng trưởng, trong sáng. Rồi Bồ Tát này lại hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, nên công đức của Bồ Tát này hơn công đức của các Thanh văn thừa. Bởi vì công đức của Thanh văn chỉ hồi hướng Niết bàn, không cầu hướng đến Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như có người trồng cây tùy lúc, tưới bón, chăm sóc, sửa sang. Càng tưới bón, chăm sóc, sửa sang cây đó càng mau lớn. Bồ Tát cũng vậy, được vô lượng Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, rồi Bồ Tát này lại hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí thì Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát này càng tăng trưởng, hơn hẳn tất cả Thanh văn, Độc giác. Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát càng được trong sáng, càng được hưng thạnh, dần dần thân cận với bổn nguyện cầu Nhất thiết trí trí. Nên nói, Bồ Tát này hơn hẳn Thanh văn, Độc giác.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử nói với Xá lợi Tử:

- Bồ Tát thành tựu diệu pháp rộng lớn. Nghĩa là các Bồ Tát được bậc Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn, làm cho siêng năng tu học Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, rồi Bồ Tát hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí. Các Bồ Tát này hơn bậc Thanh văn thừa. Nếu bậc Thanh văn dạy dỗ, giáo huấn vị Bồ Tát thừa làm cho siêng năng tu học Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, rồi Bồ Tát lại hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, thì bậc Thanh văn này cũng không hơn được các Bồ Tát mà trái lại chỉ có Bồ Tát là hơn các Thanh văn kia.

Xá lợi Tử liền đáp với cụ thọ Mãn Từ Tử:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Bồ Tát thành tựu diệu pháp rộng lớn hơn hẳn các Thanh văn và Độc giác.

Thích nghĩa (cho quyển 584):

(1). Hành xứ (行處): Phật Quang Từ điển giải thích như sau: Đối tượng của sự tu hành quán tưởng gọi chung là hành xứ. Phẩm “Phân biệt hành xứ” trong luận Giải thoát đạo quyển 3 liệt kê 38 hành xứ: 1- Thập nhất thiết nhập: Đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, không xứ, thức xứ... 2- Thập bất tịnh tưởng: Tưởng xác chết sình chương, bầm tím, nứt nẻ, vứt bỏ, chim thú đến ăn, thịt vữa ra, chém chặt lìa tan, máu me bê bết, dòi bọ rúc rỉa, xương trắng... 3- Thập niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm tử, niệm thân, niệm sổ tức, niệm tịch tĩnh... 4- Tứ vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả... 5- Tứ hạnh: Quán tứ đại, Thực bất tịnh tưởng, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ...

Chúng tôi thấy: Kinh ĐBN giải thích “tác ý tương ưng với tất cả pháp Phật thì gọi là hành xứ của Bồ Tát”. Các Kinh khác gọi tất cả pháp Phật này là “81 khoa danh tướng Bát Nhã”. Nếu quan niệm như vậy thì phạm trù hành xứ (đối tượng của tu hành quán tưởng) của Bồ Tát rất rộng lớn bao gồm tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo còn gọi là tư lương Bồ đề Bồ Tát, không giống như trong phẩm “Phân biệt hành xứ” của luận Giải thoát đạo, liệt kê chỉ có 38 hành xứ, nghĩa là chỉ chú trọng đến các quán tưởng mà thôi. TB.

 (2). Thanh luận (聲論) Cũng gọi Thanh thường trụ luận, Thanh luận sư. Chỉ cho chủ trương chấp trước âm thanh là thường còn, là 1 hệ phái triết học ở Ấn độ, chủ trương quan niệm là thường hằng và âm thanh là thường trụ. Nghĩa là chủ trương cho âm thanh là sự tồn tại thực tại (reality) của vũ trụ, còn tiếng nói của con người là từ âm thanh thực tại của vũ trụ mà phát rõ ra, chứ không phải con người là phù hiệu của tính âm thanh. Thuyết này bắt nguồn từ sự cầu đảo ở thời đại Phạm thư, tức sự cầu đảo có tác dụng của sức thần linh chi phối, do đó cấu thành ngôn ngữ cầu đảo, có sức thần bí vô hạn tuyệt đối. Trong tư tưởng Phệ đà của Ấn độ, Phệ đà được cho là tiên thiên thường trụ, là 1 thực tại chân thực tuyệt đối, cho nên âm thanh của Phệ đà cũng được giải thích là 1 thực thể tuyệt đối bất biến, là chuẩn tắc nhận thức các pháp, có năng lực quyết định sự đúng, sai của những điều được nói ra. Thuyết này từ xưa đã lưu hành trong giới Bà la môn, đặc biệt nó là chỗ y cứ quan trọng của phái văn điển Ba nhĩ ni (Phạm:Pàịini) về sau, cho đến khi các học phái như Di mạn sai (Phạm: Mìmàôsà), Phệ đàn đa (Phạm:Vedànta)... hưng khởi, lập ra Thanh thường trụ luận, rồi từ đó diễn sinh 2 phái là Thanh hiển luận và Thanh sinh luận, cho rằng tất cả âm thanh đều là thường trụ bất biến. Trong đó, Thanh sinh luận (Phạm: Janma-vàda, tức luận thuyết về sự sinh khởi của âm thanh), chủ trương âm thanh vốn không có, chỉ do sau khi phát âm mới có và từ đó cứ thường còn mãi. Thanh hiển luận (Phạm: Abhivyakti-vàda), cho rằng trước khi phát âm thì âm thanh đã có rồi, đến khi phát âm mới hiển rõ ra, tức âm thanh là thường trụ. Thanh hiển luận là chủ trương của phái Di mạn sai, là tông Tòng duyên hiển liễu trong 16 tông ngoại đạo. Còn về Thanh sinh luận thì có nhiều thuyết, hoặc cho là thuyết của phái Di mạn sai, hoặc cho rằng do 1 phái không rõ tên nào đó lập ra, hoặc cho là thuyết của phái Thắng luận... Hai phái trên đây thường tranh luận với phái Thắng luận, phái Số luận, phái Chính lý, và cả với Phật giáo vốn chủ trương âm thanh là vô thường, đặc biệt tranh luận với phái Thắng luận là nổi tiếng nhất. Các vị Đại luận sư của Phật giáo như Vô Trước, Thế Thân, Trần Na, Hộ Pháp... đều bác bỏ thuyết Âm thanh thường trụ. Như các nhà Nhân minh dùng Nhân được tạo tác ra để bác bỏ Thanh sinh luận và dùng Nhân do sự cần dũng không gián đoạn phát ra để bác bỏ Thanh hiển luận. [X. luận Thành duy thức Q.1; luận Phương tiện tâm; luận Du già sư địa Q.6; luận Hiển dương thánh giáo Q.9; luận Nhân minh nhập chính lí; luận Nhân minh chính lý môn; Thành duy thức luận thuật ký Q.1, phần cuối; Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương Q.1, phần đầu; Nhân minh nhập chính lý luận sớ Q.thượng, phần cuối; Ấn độ trung thế tinh thần sử thượng (Kim thương Viên chiếu); Triết học đích tư sách chi Ấn độ chi triển khai (Trung thôn nguyên)] – Từ điển Phật Quang.

(3). Tam quy: (三皈): còn gọi là Tam Quy Y, Tam Tự, Tam Quy Giới. Quy y hàm ngụ hướng về, quay về và nương tựa Tam Bảo: Đó là quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Đây là nghi thức để trở thành tín đồ Phật Giáo. Câu nói như “Bao thuở lưu lãng giang hồ, bây giờ quay về nương tựa Phật Pháp Tăng để an thân lập mệnh”, đó là ý nghĩa của quy y. Nên trong Kinh nhật tụng ở các am, tự hay già lam, thiền viện có câu như sau:

“Tự quy y Phật, nguyện cho chúng sanh, hiểu thấu đại đạo, phát tâm vô thượng.

Tự quy y Pháp, nguyện cho chúng sanh, thâm nhập ba tạng, trí tuệ như biển.

Tự quy y Tăng, nguyện cho chúng sanh, hòa hợp đại chúng, hết thảy không ngại”.

 

Lược giải:

 

1. Thế nào là tịnh giới, thế nào là phạm giới?

 

Phật đạo chia làm ba tạng: Pháp tạng, luận tạng và luật tạng. Luật tạng do Phật chế định để chi phối đời sống thường nhật đối với Phật tử tại gia cũng như xuất gia, còn gọi là giới luật. Giới có 5, 8 hay 10 giới hoặc nhiều hơn nữa thì gọi là giới Cụ túc. Cụ túc giới dành cho Tiểu thừa (tì kheo: 250 giới, tì kheo ni: 348 giới) hay Đại thừa Bồ Tát giới(1) rất nhiều tùy theo công phu tu tập và bổn nguyện.

 Những qui định về giới của Tiểu thừa không ngoài các cấm đoán đối với những hành vi biểu hiện bên ngoài thuộc về thân và khẩu, với mục đích tạo phúc lợi cho riêng người thụ giới. Trong khi những qui định của Bồ Tát giới không những cố ngăn chận những hành vi biểu hiện bên ngoài mà còn ngăn chận cả những tư tưởng thầm kín bên trong có thể phương hại đến luân thường đạo lý hay phúc lợi của chính mình hay của các chúng sanh khác. Phẩm thứ tư: “Vãng Sanh”, tập 2, quyển 39, Đại Trí Độ Luận thí dụ:

“Vì theo pháp Thanh Văn hành 10 bất thiện đạo mới là có tội. Còn theo pháp Đại thừa, thì vừa dấy niệm có hành các nghiệp ở thân, khẩu, ý, là đã có tội rồi. Vì sao? Vì có làm, có thấy, là đã có tác giả, có kiến giả rồi vậy”.

“…Tiểu Thừa, do sợ 3 đường ác, nên tu 10 thiện đạo, xa lìa 10 bất thiện đạo, cho 10 bất thiện đạo là tội. Còn Đại thừa thì cho rằng chấp tâm, thủ tướng cũng đều là tội cả. Vì sao? Vì có chấp, có thủ là trái với ba giải thoát môn nên đều là tội cả”.

Nội dung của giới Bồ Tát là Tam tụ tịnh giới (ba nhóm giới trong sạch); đó là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới. Cũng tức là thu tóm hết thảy Phật pháp vào ba môn lớn là: Giữ gìn luật nghi, Tu các pháp lành, Cứu độ chúng sinh, và lấy đó làm giới cấm để tuân thủ. Giữ được giới thì thân tâm thanh tịnh, bằng ngược lại thì gọi là phạm giới. Giới của Bồ Tát là giới cấm tế nhị và khó khăn. Vì vậy, Mãn từ tử hỏi Xá Lợi Tử: “Làm sao biết Bồ Tát trì giới? Làm sao biết Bồ Tát phạm giới?” Xá Lợi tử trả lời: “Nếu các Bồ Tát tác ý an trụ Thanh văn, Độc giác, thì gọi là chẳng phải nơi hành xứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát hành nơi phi xứ này thì các Bồ Tát nhất định không giữ gìn được Tịnh giới Ba la mật. Nếu không giữ gìn Tịnh giới Ba la mật thì các Bồ Tát này xả bỏ bổn nguyện. Nếu xả bỏ bổn nguyện nên biết là Bồ Tát phạm giới”.

Không ai có thể vỗ ngực tự hào mình là người không bao giờ phạm giới. Nếu giữ giới được như Ưu Ba Li (skt: Upali), chỉ được xưng tụng là Thánh, vì giữ mình được thanh tịnh, trong sáng hơn người. Tu Bồ Tát đạo không có nghĩa là tu cho mình, mà tu cho tất cả chúng sinh theo thệ nguyện. Trái với thệ nguyện nên gọi là Bồ Tát phạm giới, vi phạm bổn nguyện. Đã phạm giới, vi phạm bổn nguyện làm sao chứng Vô Thượng Giác ngộ?

 

2. Nhất thiết trí trí xa lìa các tướng. 

 

Bồ Tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Tuy cầu chứng đắc Nhất thiết trí trí nhưng không thể gọi là hộ trì sai lầm (giới cấm thủ). Nếu các Bồ Tát tu hành bố thí, thọ trì tịnh giới, hồi hướng Nhị thừa, chấp lấy tịnh giới thì các Bồ Tát này mất Bồ Tát giới, nên biết đó gọi là phạm giới Bồ Tát.

 

3. Hành xứ của Bồ Tát: 

 

Nếu Bồ Tát tác ý với bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát. Nếu Bồ Tát tác ý với 18 pháp không, nên biết đây là hành xứ của Bồ Tát. Nếu Bồ Tát tác ý với thập nhị chơn như, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, Tam giải thoát môn v.v... Nói chung cho đến tất cả pháp mầu Phật đạo là hành xứ của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát an trụ tu hành chắc chắn nơi các hành xứ này, nên biết đây là Bồ Tát trì giới.

 

4. Thế nào là Tịnh giới Ba la mật? 

 

Bồ Tát tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp, ở tại gia hưởng thọ năm dục lạc, nhưng không phát khởi tâm hồi hướng Nhị thừa. Nên biết các Bồ Tát này không gọi là phạm Bồ Tát giới. Vì sao? Vì các Bồ Tát này ý thích hướng thượng, không thối chuyển, nghĩa là quyết cầu Nhất thiết trí trí.

Nếu có người tuy trải qua hằng hà sa số đại kiếp tu hành phạm hạnh, nhưng phát tâm hồi hướng Nhị thừa, nên biết người này không gọi là người trì tịnh giới. Vì người này bỏ Tịnh giới Ba la mật, an trụ giới Thanh văn, Độc giác thừa. Cũng vậy, nếu các Bồ Tát an trụ giới Thanh văn, Độc giác thừa, thì không gọi là Bồ Tát. Vì sao? Vì các Bồ Tát này xa lìa Tịnh giới Ba la mật, tâm không cầu Nhất thiết trí trí, nhất định không thể chứng quả vị Vô Thượng Cháng Đẳng Bồ đề.

Nếu Bồ Tát nào nhàm chán sanh tử, mong cầu mau chứng Bồ đề. Do tâm mong cầu nên có phân biệt, giới hạn. Do phân biệt, giới hạn nên không thể thành thục thiện căn thù thắng. Do không thể thành thục thiện căn thù thắng nên không thể tu hành bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định, Bát nhã Ba la mật. Như vậy, không thể đắc các Ba la mật. Nếu không đắc các Ba la mật, sẽ không thuận nhẫn, không vào được Bồ Tát chánh tánh ly sanh, không thể chứng Bồ Tát bất thối nói chi đến chứng Vô Thượng Bồ đề.

Nếu các Bồ Tát muốn khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới, các Bồ Tát này trước hết phải tự khởi tâm tương ưng với tịnh giới; sau đó mới khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới. Đã khuyến hóa, hướng dẫn người khác thọ trì tịnh giới rồi, lại bảo họ hồi hướng Nhất thiết trí trí, Bồ Tát như vậy là tự tu thiện căn, hồi hướng Nhất thiết trí trí; lại khuyến hóa, hướng dẫn các hữu tình khác khởi tâm thanh tịnh thọ trì tịnh giới, thọ trì tịnh giới rồi lại làm cho họ hồi hướng Nhất thiết trí trí, mới có thể gọi là bậc thầy khéo léo giáo hóa các hữu tình.

Thích nghĩa cho phần lược giải của quyển 584, phần “Tịnh Giới Ba La Mật”:

(1). Bồ Tát giới: (菩薩戒) Là giới luật của Bồ Tát Đại thừa nhận giữ. Cũng gọi Đại thừa giới, Phật tính giới, Phương đẳng giới, Thiên Phật đại giới. Đối lại với Tiểu thừa thanh văn giới. Nội dung của giới Bồ Tát là Tam tụ tịnh giới (ba nhóm giới trong sạch); đó là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới. Cũng tức là thu tóm hết thảy Phật pháp vào ba môn lớn là: Giữ gìn luật nghi, Tu các pháp lành, Cứu độ chúng sinh, và lấy đó làm giới cấm để tuân thủ. Có rất nhiều kinh sách Đại thừa nói về Bồ Tát, nhưng có thể tổng hợp làm hai loại sách luật là Phạm võng và Du già. Bồ Tát giới bản được lấy ra từ phẩm Luật tạng của kinh Phạm võng gồm có 10 giới nặng, 48 giới nhẹ, bất luận là người xuất gia hay người tại gia đều có thể nhận giữ. Còn giới bản được trích ra từ luận Du già sư địa quyển 40, quyển 41 thì lấy Tam tụ tịnh giới, Tứ chủng tha thắng xứ pháp làm nền tảng. Trước phải nhận giới của bảy chúng Tiểu thừa trong thời gian dài, nếu người nào không vi phạm thì mới được nhận giữ giới Bồ Tát. Đời xưa lấy giới Bồ Tát trong Kinh Du già sư địa làm chính, nhưng ngày nay thì giới Bồ Tát trong Kinh Phạm võng lại thịnh hành. Giới Viên đốn của tông Thiên thai tức là giới trong Kinh Phạm võng. Cứ theo Kinh Phạm võng quyển hạ chép, thì nhận giữ giới Bồ Tát được năm lợi ích: 1. Được chư Phật ở mười phương thương nhớ, che chở. 2. Khi sắp chết được chính kiến, tâm vui mừng. 3. Sinh ở nơi nào đều được làm bạn với các Bồ Tát. 4. Chứa góp nhiều công đức, thành tựu giới Ba la mật. 5. Đời này đời sau, tính giới phúc tuệ tròn đầy. Giới Bồ Tát là Ba la đề mộc xoa (giới biệt giải thoát) nằm ngoài giới của bảy chúng (Ưu bà tắc, Ưu ba di, sa di, sa di ni, thức xoa ma ni, tỉ khưu, tỉ khưu ni). Người nhận giữ giới Bồ Tát có thể ở trong bảy chúng, mà cũng có thể ở ngoài bảy chúng, chỗ tôn quí của giới Bồ Tát là vượt lên trên và bao trùm tất cả giới. Kinh Phạm võng nói giới Bồ Tát là nguồn gốc của chư Phật, là cội rễ của Bồ Tát và Phật tử. Tính chất của giới Bồ Tát tương tự như tám giới (tám giới quan trai); tám giới cũng là một loại giới Biệt giải thoát nằm ngoài giới của bảy chúng. Nhưng, vì trong giới Bồ Tát có một vài giới tương tự như giới Bát quan trai, nên là Đốn lập giới, lại cũng có một số giới không giống giới Bát quan trai mà tương tự như Tiệm thứ giới của giới bảy chúng, cho nên giới Bồ Tát có thể được chia làm hai loại: 1. Đốn lập: Có thể nhận ngay giới Bồ Tát. 2. Tiệm thứ: Trước phải nhận ba qui y, năm giới v.v... rồi sau mới nhận giới Bồ Tát. Trong tạng kinh Hán dịch, có sáu loại Bồ Tát giới bản hoặc Bồ Tát giới kinh rất được coi trọng là: Kinh Bồ Tát anh lạc bản nghiệp, Phạm võng kinh Bồ Tát giới bản, Du già sư địa luận Bồ Tát giới bản, Bồ Tát địa trì kinh giới bản, Bồ Tát thiện giới kinh giới bản và Ưu bà tắc giới kinh giới bản. Nếu sáu thứ trên đây được chia theo hai loại đốn và tiệm, thì Anh lạc và Phạm võng thuộc về Đốn lập, còn các giới kinh Du già, Địa trì, Thiện giới, Ưu bà tắc v.v... thuộc Tiệm thứ. Giới Bồ Tát bắt đầu được truyền bá ở Trung quốc do Ngài Cưu ma la thập (344 - 413). Trong các bản chép tay tìm thấy ở Đôn hoàng có Thụ Bồ Tát giới nghi quỹ 1 quyển do Ngài soạn. Còn người đầu tiên làm phép thụ giới là Ngài Đàm vô sấm (358 - 433) khi Ngài trao giới Bồ Tát cho nhóm các sư Đạo tiến v.v... gồm hơn mười người ở Cô tang (tỉnh Cam túc, huyện Vũ uy). Đến đời Lương, đời Trần thuộc Nam triều, phong trào thụ giới Bồ Tát khá thịnh hành, như Lương Vũ Đế, Trần Văn Đế đều nhận giới Bồ Tát. Lương Vũ Đế từng lập đàn giới, thỉnh Ngài Tuệ Siêu trao giới Bồ Tát. Lại năm Thiên giám 18 (519), nhà vua tự phát nguyện rồi theo Ngài Tuệ Ước nhận giới Bồ Tát ở điện Đẳng giác. Thái tử, Công khanh, xuất gia, tại gia v.v... xin thụ giới Bồ Tát rất đông, có tới 84.000 người. Cũng có thuyết nói Lương Vũ Đế nhận giới Bồ Tát nơi Ngài Trí Tạng. Đến đời Tùy, vua Văn Đế nhận giới Bồ Tát nơi Ngài Trí Khải, đều xưng là Bồ Tát giới đệ tử. Cứ đó mà suy, có thể biết phong trào thụ giới Bồ Tát tại Trung quốc vào thời ấy đã thịnh hành đến mức nào. [X. Kinh Bồ Tát anh lạc bản nghiệp Q.hạ; Kinh Bồ Tát thiện giới Q.4; Kinh Bồ Tát thiện giới (1quyển); Kinh Ưu bà tắc giới Q.3; Bồ Tát giới bản; Thụ Bồ Tát giới nghi (Trạm nhiên); luận Đại trí độ Q.46; Phạm võng kinh Bồ Tát giới bản sớ Q.1; Tứ phần luật hành sự soa tư trì ký Q.thượng; Bát tông cương yếu Q.thượng; Tục Cao Tăng truyện Q.5; Trí Tạng truyện Q.6; Tuệ Siêu truyện, Tuệ Ước truyện; Quảng hoằng minh tập Q.22]. (xt. Tam Tụ Tịnh Giới, Giới, Truyền Giới, Viên Đốn Giới)- Phật Quang từ điển.

 

Chúng ta tụng tiếp Q. 585, phần “Tịnh Giới Ba La Mật”.


Quyển thứ 585

 

Bấy giờ, Xá lợi Tử lại nói với Mãn Từ Tử:

- Nếu các Bồ Tát tu hành Tịnh giới Ba la mật thấy có chút ít pháp gọi là tác giả, thì nên biết tuy trụ ở trong pháp Bồ Tát nhưng gọi là xả bỏ các pháp Bồ Tát. Đây là Bồ Tát tác ý phi lý. Nếu khởi tác ý phi lý như vậy, nên biết gọi là Bồ Tát phạm giới.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nếu các Bồ Tát không thấy một ít pháp gọi là tác giả, thì các Bồ Tát này thọ trì Tịnh giới Ba la mật không có sự vi phạm. Vậy pháp gì đối với Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát này là lợi ích hay tổn giảm?

Xá lợi Tử đáp:

- Không có pháp nào đối với Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát này là lợi ích hay tổn giảm. Nếu thấy một ít pháp đối với Tịnh giới Ba la mật này là lợi ích hay tổn giảm, thì nên biết là Bồ Tát chấp thủ tịnh giới. Nếu các Bồ Tát thấy có một ít pháp đối với Tịnh giới Ba la mật này cho là lợi ích hay tổn giảm, thì các Bồ Tát này không nhiếp trì được Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát không thấy có ít pháp gọi là tác giả, thì các Bồ Tát này nhiếp trì đúng Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát thọ trì tịnh giới, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, thì mới gọi là Tịnh giới Ba la mật. Nếu các Bồ Tát thọ trì tịnh giới mà không hồi hướng Nhất thiết trí trí, nên biết giới này tuy đắc nhưng chẳng gọi là Tịnh giới Ba la mật, hoặc vì cầu Nhị thừa, quả thế gian vậy. 

 

(Thế nào gọi là đầy đủ Tịnh giới Ba la mật).

 

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tùy theo sự hành bố thí đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tùy theo sự nhiếp trì giới, đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát bị các hữu tình đánh, hoặc mắng, hoặc phỉ báng, lăng nhục, khinh chê v.v…, tùy theo sự tu hành an nhẫn đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát vì muốn cứu vớt tất cả hữu tình thoát khỏi các khổ não sanh tử nơi đường ác, thường hành tinh tấn, đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tu tĩnh lự lại suy nghĩ: Ta phải phát khởi tịnh lự thù thắng, do đấy phát khởi thần thông thù thắng, biết tâm hành sai khác của các hữu tình, nên thuyết giảng trao truyền thuốc pháp, giúp họ thoát các khổ sanh tử nơi đường ác. Lại vì điều hoà phiền não thân tâm, làm phước điền thanh tịnh cho loài hữu tình, kham dẫn phát Nhất thiết trí trí. Suy nghĩ như vậy, tu tĩnh lự tất cả đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ Tát.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tùy theo sự tu hành trí huệ vi diệu thậm thâm đều vì đối với pháp mà xa lìa điên đảo, được các thiện xảo, nghĩa là uẩn thiện xảo, xứ thiện xảo, giới thiện xảo, đế thiện xảo, duyên khởi thiện xảo, thị xứ phi xứ(1) thiện xảo.

 

(Thế nào gọi là thiện xảo đối với ngũ uẩn?)

 

Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng (2) có bao nhiêu sắc uẩn. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu sắc uẩn đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng (3) có bao nhiêu sắc uẩn. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu sắc uẩn đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn vui hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn ngã hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịnh hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ-tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn có tướng hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn có nguyện hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu sắc uẩn xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thọ, tưởng, hành, thức uẩn xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với uẩn.

 

(Thế nào gọi là thiện xảo đối với 12 xứ?)

 

Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn xứ. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn xứ. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ thường, hoặc vô thường đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ vui, hoặc khổ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ ngã, hoặc vô ngã đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịnh, hoặc bất tịnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ Không, hoặc bất Không đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có tướng, hoặc vô tướng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có nguyện, hoặc vô nguyện đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ tịch tĩnh, hoặc không tịch tĩnh đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ xa lìa, hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với xứ.

Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn xứ, sắc xứ. Như thật biết rõ có bao nhiêu nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy, gọi là thiện xảo đối với 12 xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhãn xứ, sắc xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; như thật biết rõ có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với 12 xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu sắc xứ. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với 12 xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhãn xứ, sắc xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu nhãn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ; có bao nhiêu thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với 12 xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhãn xứ, sắc xứ thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc bất tịch tĩnh, xa lìa hoặc bất xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ 12 xứ thường, hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh v.v... đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với 12 xứ.

 

(Thế nào gọi là thiện xảo đối với 18 giới?)

 

Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng, cộng tướng có bao nhiêu nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới (hay nói rộng gồm 18 giới) đều bất khả đắc. Có bao nhiêu nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới thường hay vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với 18 giới.

 

(Thế nào là tu thiện xảo đối với lục đại chủng?)

 

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu địa chủng. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không thức chủng. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đại chủng.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu địa chủng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức chủng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đại chủng.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu địa chủng. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức chủng. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đại chủng.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu địa chủng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức chủng đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đại chủng.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu địa chủng thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không, thức chủng thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, v.v... đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với lục đại chủng.

 

(Thế nào là thiện xảo đối với Tứ đế?)

 

Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế(4).

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với đế.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu Thánh đế khổ thường, hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo thường, hoặc vô thường vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, v.v... đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với bốn đế.

 

Lưu ý: Đoạn Kinh sau đây thuộc quyển 586, tuy nhiên để Kinh văn được liên tục nên chúng tôi ghi vào cuối quyển 585.

 

(Thế nào gọi là thiện xảo đối với bốn duyên?)

 

Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhân duyên. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên và từ các duyên sanh ra các pháp. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu nhân duyên đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhân duyên. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu nhân duyên đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên thường hoặc vô thường vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, v.v... đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

 

(Thế nào gọi là thiện xảo đối với 12 duyên khởi?)

 

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu vô minh. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu vô minh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu vô minh. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu vô minh đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với duyên khởi.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu vô minh thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử thường, hoặc vô thường vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, v.v... đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với 12 duyên khởi.

 

(Thế nào gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ?)

 

Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu thị xứ. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu phi xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng có bao nhiêu thị xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các tự tướng có bao nhiêu phi xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu thị xứ. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu phi xứ. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các cộng tướng có bao nhiêu thị xứ đều bất khả đắc. Như thật biết rõ các cộng tướng có bao nhiêu phi xứ đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật có bao nhiêu thị xứ thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, Không hoặc bất Không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu phi xứ thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, v.v... đều bất khả đắc. Như vậy gọi là thiện xảo đối với thị xứ phi xứ.

Thích nghĩa cho Q.585:

 (1). Thị xứ phi xứ: Khả năng biết đúng hay không đúng.

 (2). và (3). Cộng tướng và tự tướng, cộng tướng và bất cộng tướng:

1- Cộng tướng (phản nghĩa của Tự tướng): Chỉ cho tướng chung, nghĩa là cộng thông với các pháp khác. Nếu là tự thân chỉ có cái thể tướng đặc thù, thì gọi là Tự tướng. Thực ra thì tự thể của các pháp, chỉ có trí chứng mới có thể biết, không thể dùng lời nói thí dụ, nên gọi là Tự tướng. Còn đem tâm phân biệt để an lập thi thiết năng thuyên, sở thuyên của các pháp, dùng lời nói để diễn tả, tìm hiểu thể nghĩa của các pháp làm chỗ cho trí phân biệt duyên theo, thì là Cộng tướng. Như hết thảy sắc pháp đều có tự tướng riêng biệt, nhưng khi dùng câu hết thảy vạn hữu đều là vô ngã, để nói rõ về tính không của các pháp thì vô ngã ấy tức là Cộng tướng. Như vậy, vô ngã là nghĩa tướng chung của hết thảy vạn hữu, cùng với khổ, không, vô thường v.v... dùng để giải thích thể nghĩa của các pháp, cho nên đều là Cộng tướng. Thông thường phần nhiều cho Cộng tướng có thể giải thích được và coi nó như đối lập với Tự tướng, nhưng Nhân minh nhập chính lý luận sớ quyển thượng phần đầu, thì phản đối luận thuyết tương đối này mà cho rằng trong các pháp có thể giải thích, bao hàm cả Tự tướng và Cộng tướng, hai tướng này có mối quan hệ nhiều lớp với nhau như năm uẩn sắc, thụ, tưởng v.v... là Tự tướng, còn sự vô thường của năm uẩn là Cộng tướng - lại trong Sắc uẩn, Sắc xứ là Tự tướng, Sắc uẩn là Cộng tướng. Ngoài ra, trong sắc xứ thì các mầu xanh, vàng là Tự tướng, còn sắc xứ là Cộng tướng. Như vậy, cuối cùng, lấy tự tính bản chân do Thánh trí chứng được làm Tự tướng, và lấy tự tính giả khác (vì không lìa trí giả và nói năng) làm Cộng tướng. [X. Phật địa Kinh luận Q.6 - luận Câu xá Q.23 - luận Đại tì bà sa Q.42 - Thành duy thức luận thuật ký Q.2 phần cuối - Đại thừa pháp uyển nghĩa lâm chương Q.2 phần cuối].

2- Cộng tướng (phản nghĩa với Bất cộng tướng): Tức là tướng do mọi người cùng chung cảm được, cùng thụ dụng chung, gọi là Cộng tướng. Như núi sông, đất đai v.v... là bởi nghiệp chung của mọi người tạo thành, là nơi nương tựa và thụ dụng chung của mọi người, cho nên là Cộng tướng - còn như thân thể của mỗi cá nhân, là do nghiệp riêng của cá nhân ấy mà có, cũng chỉ do cá nhân ấy thụ dụng, cho nên gọi là Bất cộng tướng. Chủng tử thân nhân duyên của Cộng tướng, gọi là Cộng tướng chủng tử, được chủng tử cộng nghiệp giúp đỡ mà sinh khởi hiện hành. Cộng tướng có thể chia làm hai thứ: 1. Như núi sông, đất đai thuộc y báo, do nghiệp chung mà có, đều do người, thú, sấu, cá, v.v... cùng chung thụ dụng, gọi là Cộng trung cộng (chung trong chung). 2. Như ruộng vườn, nhà cửa của mỗi cá nhân, thì chỉ cá nhân ấy thụ dụng chứ người khác không được dùng chung, thì gọi là Cộng trung bất cộng (riêng trong chung). [X. luận Thành duy thức Q.2 - Thành duy thức luận thuật ký Q.3 phần đầu]. (xt. Bất Cộng Tướng, Cộng Bất Cộng). - Phật Quang Từ điển.

(4). Đế (s: satya, p: sacca, ): Chân lý đúng đắn, chắc thật. Từ “đế” nói ở đây là chỉ cho pháp “Tứ đế” hay “Tứ diệu đế”: Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.

 

Lược giải:

 

1. Không có pháp nào đối với Tịnh giới Ba la mật (của Bồ Tát)

là lợi ích hay tổn giảm.

 

Xá Lợi Tử đáp: “Không có pháp nào đối với Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát là ích là tổn. Nếu thấy có chút pháp đối với Tịnh giới Ba la mật này là ích là tổn, thì nên biết Bồ Tát chấp trước tịnh giới. Nếu các Bồ Tát thấy có chút pháp đối với Tịnh giới Ba la mật này cho là ích là tổn, thì các Bồ Tát này không nhiếp trì được Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát không thấy có chút gọi là tác giả, thì các Bồ Tát này nhiếp trì đúng Tịnh giới Ba la mật. Nếu các Bồ Tát thọ trì tịnh giới, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí, thì mới gọi là Tịnh giới Ba la mật”.

Nếu các Bồ Tát tùy theo sự nhiếp trì giới, tùy theo sự hành bố thí, tùy theo sự tu hành an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, tu huệ đều lấy đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đủ giới Bồ Tát. Tu như thế được xem là vô thượng, vì bi trí song tu, phước huệ mới vuông tròn. Bồ Tát tu hành lục Ba la mật như trên thì uẩn, xứ, giới, lục đại chủng, Tứ đế, duyên khởi, thị xứ phi xứ mới được thiện xảo.

 

2. Làm sao cho ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, lục đại chủng v.v...

đều được thiện xảo?

 

1- Thế nào gọi là thiện xảo đối với uẩn?

Nghĩa là biết rõ tự tướng, cộng tướng có bao nhiêu sắc uẩn đều bất khả đắc. Như thật biết rõ có bao nhiêu tự tướng, cộng tướng của thọ, tưởng, hành, thức đều bất khả đắc. Bồ Tát như thật biết rõ ngũ uẩn thường hay vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, không hoặc bất không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa... đều bất khả đắc. Như vậy, gọi là thiện xảo đối với ngũ uẩn.

 

2- Thế nào gọi là thiện xảo đối với xứ, giới?

Nếu Bồ Tát biết rõ tự tướng, cộng tướng của 12 xứ, 18 giới đều bất khả đắc. Bồ Tát như thật biết rõ 12 xứ, 18 giới thường hay vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, không hoặc bất không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa... đều bất khả đắc. Như vậy, gọi là thiện xảo đối với 12 xứ, 18 giới.

Vì sao? Vì ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới là cửa ngõ của sanh diệt, đoạn thường... nếu nương vịn vào đó thì làm sao an tịnh được tâm. Nếu tâm không an tịnh thì làm sao tu tịnh giới. Nếu không tu tịnh giới làm sao hiển lộ chân tâm phát huy trí tuệ giác ngộ mà chứng Niết bàn. Vì vậy, mới nói xa lìa uẩn xứ giới là phương tiện tốt nhất để hoàn thành giới uẩn, định uẩn, giải thoát và giải thoát tri kiến tạo điều thuận lợi để chứng ngũ phần pháp thân(1).

 

3- Thế nào gọi là thiện xảo đối với lục đại chủng?

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng, cộng tướng có bao nhiêu địa giới. Như thật biết rõ các tự tướng, cộng tướng có bao nhiêu thủy, hỏa, phong, không thức giới. Như vậy, gọi là thiện xảo đối với lục đại chủng. Nghĩa là, các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng, cộng tướng của lục đại chủng đều bất khả đắc. Như thật biết rõ lục đại chủng thường hay vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, không hoặc bất không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa... đều bất khả đắc. Như vậy, gọi là thiện xảo đối với các đại chủng.

 

4- Thế nào gọi là thiện xảo đối với Tứ đế?

Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật các tự tướng, cộng tướng có bao nhiêu Thánh đế khổ. Như thật biết rõ các tự tướng, cộng tướng có bao nhiêu Thánh đế tập, diệt, đạo. Như vậy gọi là thiện xảo đối với Tứ đế.

Lại nữa, các Bồ Tát biết rõ như thật biết các tự tướng, cộng tướng có bao nhiêu tứ Thánh đế khổ đều bất khả đắc. Như thật biết có bao nhiêu tứ Thánh đế khổ thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, không hoặc bất không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa đều bất khả đắc. Như vậy, gọi là thiện xảo đối với Tứ đế.

 

5- Tu thiện xảo đối với bốn duyên, đối với 12 duyên khởi, đối với thị xứ phi xứ... cũng lại như thế. Nghĩa là các Bồ Tát biết rõ như thật tự tướng, cộng tướng của bốn duyên, 12 nhân duyên, thị xứ phi xứ... thường hoặc vô thường, vui hoặc khổ, ngã hoặc vô ngã, tịnh hoặc bất tịnh, không hoặc bất không, có tướng hoặc vô tướng, có nguyện hoặc vô nguyện, tịch tĩnh hoặc không tịch tĩnh, xa lìa hoặc không xa lìa... đều bất khả đắc. Biết tất cả những thứ ấy từ ngoài vào, đều không thể nắm bắt, thì không trụ chấp nương vịn, tâm sẽ được như như, bình đẳng và thanh tịnh. Do đó, không cần tịnh giới mà tâm được vắng lặng chỗ gọi là thiện xảo đối với 4 nhân, 12 duyên và thị xứ phi xứ.

 

Như vậy, Bồ Tát tự kiểm soát trong ngoài: Ngoài không chấp đắm trong không nắm giữ tức tự mình làm chủ lấy mình. Đó là thiện xảo của người tu hành. Tự mình làm chủ trọn vẹn chính mình có nghĩa mình là chủ nhân ông của đời mình trong vô vàn biến động của những trắc trở, ngả nghiêng của cuộc sống. Biết như thế rồi Bồ Tát không trốn chạy, ra vào qua lại sanh tử, thực hiện các công hạnh khó hành, cứu rỗi chúng sanh trong muôn ngàn số kiếp không hề mệt mỏi độ vô lượng chúng sanh.

 

Bồ Tát dửng dưng đối với những gì còn bám víu vào cái gọi ngã và ngã sở của các Ngài. Có lẽ chỉ có việc trên cầu Vô Thượng Giác Ngộ dưới hóa độ chúng sinh, đạt Nhất thiết trí trí mới là mối bận tâm duy nhất trong cuộc đời hành đạo của các Ngài!

Thích nghĩa quyển thứ 585 này:

(1). Ngũ phần pháp thân (五分法身) Cũng gọi Vô lậu ngũ uẩn, Vô đẳng đẳng ngũ uẩn (Phạm: Asamasama-paĩcaskandha). Năm thứ công đức đầy đủ trong tự thể của Phật và A la hán. Có hai cách giải thích.

1- Theo cách giải thích của Tiểu thừa: Câu xá luận quang ký quyển 1, phần cuối, nêu và giải thích 5 phần pháp thân là: 1. Giới thân (Phạm: Zìla-skandha), cũng gọi Giới uẩn, Giới chúng, Giới phẩm. Tức là thân nghiệp và ngữ nghiệp vô lậu. 2. Định thân (Phạm: Samàdhiskandha), cũng gọi Định uẩn, Định chúng, Định phẩm. Tức là ba Tam muội không, vô tướng và vô nguyện của bậc Vô học. 3. Tuệ thân (Phạm:Prajĩà-skandha), cũng gọi Tuệ uẩn, Tuệ chúng, Tuệ phẩm. Tức là chính kiến, chính tri của bậc Vô học. 4. Giải thoát thân (Phạm: Vimuktiskandha), cũng gọi Giải thoát uẩn, Giải thoát chúng, Giải thoát phẩm. Tức là thắng giải tương ứng với chính kiến. 5. Giải thoát tri kiến thân (Phạm: Vimukti-jĩàna-darzana-skandha), cũng gọi Giải thoát sở kiến thân, Giải thoát tri kiến uẩn, Giải thoát tri kiến chúng, Giải thoát tri kiến phẩm. Tức là tận trí, vô sinh trí của bậc Vô học. Trong đó, Giải thoát thân và Giải thoát tri kiến thân hợp lại gọi chung là Giải thoát tri kiến. Bởi vì tận trí và vô sinh trí của bậc Vô học Tiểu thừa là giải thoát tri kiến. Trong giáo đoàn Phật giáo, điều này vốn được coi là pháp môn ngăn dứt những dục vọng của nhục thể và tinh thần, giúp cho tâm tĩnh lặng, trí tuệ sáng suốt để giải thoát tất cả mọi sự trói buộc.

2- Theo cách giải thích của Đại thừa. Trong Đại thừa nghĩa chương quyển 20, phần đầu, Ngài Tuệ Viễn giải thích năm phần pháp thân như sau: 1. Giới thân: Chỉ cho Giới pháp thân Như lai đã xa lìa hết thảy lỗi lầm của 3 nghiệp thân, khẩu, ý. 2. Định thân: Trong Định pháp thân của Như lai, chân tâm vắng lặng, tự tính không động, xa lìa tất cả vọng niệm. 3. Tuệ thân: Tuệ pháp thân của Như lai thể chân tâm tròn sáng, tự tính sáng tỏ, quán xét thấu suốt hết thảy pháp tính, tức chỉ cho trí căn bản. 4. Giải thoát thân: Giải thoát pháp thân của Như lai tự thể không bị câu thúc, giải thoát khỏi tất cả sự trói buộc. 5. Giải thoát tri kiến thân: Giải thoát tri kiến pháp thân của Như lai tự thể chứng biết xưa nay vốn thanh tịnh vô nhiễm, đã thực sự giải thoát.

Về danh nghĩa của Ngũ phần pháp thân thì sách đã dẫn trên giải thích rằng: Phần tức là nhân, vì 5 thứ nói trên là nhân để thành thân, nên gọi là phần; Pháp là tự thể, vì 5 thứ trên là tự thể của bậc Vô học nên gọi là pháp; lại nữa, pháp nghĩa là khuôn phép, mà 5 thứ trên là khuôn phép để thành thân nên gọi là pháp; Thân tức là thể, 5 thứ trên là thể của chư Phật, cho nên gọi là thân; thân cũng có nghĩa là chỗ tích tụ mọi công đức, vì thế gọi là thân. Về thứ tự của Ngũ phần pháp thân thì rất rõ ràng, từ giới sinh định, từ định phát tuệ, do tuệ mà được giải thoát, do giải thoát mà có giải thoát tri kiến. Giới, định, tuệ là căn cứ theo nhân mà đặt tên, còn giải thoát và giải thoát tri kiến thì căn cứ theo quả mà đặt tên, tuy nhiên, cả 5 thứ đều là công đức của Phật. Theo luận Câu xá quyển 1, thì giới uẩn thuộc về sắc uẩn, 4 uẩn còn lại thuộc về hành uẩn. Thỉnh quan âm kinh sớ của Ngài Trí Khải thì cho rằng: Nếu chuyển được 5 ấm sắc, thụ, tưởng, hành, thức thì lần lượt có thể được Ngũ phần pháp thân: Giới thân, định thân... Ngoài ra, trong Ngũ phần pháp thân của Mật giáo, thì Giới chỉ cho Tam muội da giới: Chúng sinh và Phật không hai, 6 đại vô ngại; Định chỉ cho tâm đại quyết định, an trụ trong chúng sinh và Phật không hai; Tuệ chỉ cho trí tuệ tự giác rõ suốt lý 6 đại vô ngại; Giải thoát chỉ cho địa vị tự ngộ, rõ suốt lý 6 đại vô ngại, xa lìa mọi chấp trước mà được giải thoát; Giải thoát tri kiến chỉ cho sự thấy biết sau khi chứng ngộ không còn bị các chấp trước trói buộc. [X. Kinh Tạp a hàm Q.24, 47; Kinh Trường a hàm Q.9; Kinh Tăng nhất a hàm Q.2, 18, 29; Kinh Tăng già la sát sở tập Q.hạ; Kinh Quán Phổ hiền hành pháp; Kinh Bồ Tát anh lạc Q.thượng; Phật địa kinh luận Q.4] -Từ điển Phật Quang.

Chúng tôi nghĩ phần thích nghĩa này không những giúp cho sự thấu hiểu quyển thứ 585 trên mà còn giúp cho tất cả những người tu Phật trong việc nhiếp phục thân khẩu ý. Xin Quý vị lưu ý cho! TB

 

Chúng ta tụng tiếp Q.586, phần “Tịnh Giới Ba La Mật”.


Quyển thứ 586

 

(Phải tùy thuận Nhất thiết trí trí và Vô thượng Bồ đề

để tu tịnh giới).

 

Như vậy, Bồ Tát đối với các uẩn phải khéo léo tu hành. Do khéo léo nên thuyết pháp cho các hữu tình, giúp họ dứt hẳn các tưởng hữu tình. Bồ Tát khởi tâm thù thắng như vậy là lợi mình và lợi người, tu các trí tuệ vi diệu, tất cả đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ Tát, đầy đủ tịnh giới vô thượng. Nếu các Bồ Tát muốn cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải siêng năng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát dùng sáu Ba la mật này, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí, thì các Bồ Tát này do tịnh giới đây nên thù thắng hơn tất cả Thanh văn, Độc giác.

 

(Câu nói trở nên quan trọng đối với người tu tịnh giới cần phải nhớ là “...tu các trí tuệ vi diệu, tất cả đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ Tát, đầy đủ tịnh giới vô thượng”).

 

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình ở thế gian đều thành tựu đầy đủ mười nghiệp thiện đạo, bao nhiêu giới đó đối với các Bồ Tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới, thì (các hữu tình đã thành tựu 10 nghiệp thiện đạo) trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một (Bồ Tát mới phát tâm dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới).

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình ở thế gian đều thành tựu đầy đủ năm thần thông trước, bao nhiêu giới đó đối với các Bồ Tát phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình ở thế gian đều an trụ đầy đủ từ, bi, hỷ, xả, bao nhiêu giới đó đối với các Bồ Tát phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình ở thế gian đều thành tựu đầy đủ tùy thuận nhẫn Không, vô tướng, vô nguyện, bao nhiêu giới đó đối với một giới Bồ Tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Giả sử tất cả hữu tình ở thế gian đều thành tựu đầy đủ pháp của bậc Đệ Bát, bao nhiêu giới đó đối với các Bồ Tát phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

 

(Ngũ uẩn là Đệ Bát địa hay lìa ngũ uẩn là Đệ Bát địa?) 

 

Bấy giờ, Mãn Từ Tử lại thưa với Xá lợi Tử:

- Nay tôi muốn hỏi Tôn giả, có bao nhiêu nghĩa thú của Đệ Bát địa(1), xin Tôn giả hứa khả, vì tôi giải thích nghĩa thú này.

Xá lợi Tử đáp:

- Tùy theo ý của Ngài hỏi điều gì, tôi sẽ theo đó mà giải thích.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức sắc uẩn là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa sắc uẩn có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức thọ, tưởng, hành, thức uẩn là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa thọ, tưởng, hành, thức uẩn có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức nhãn xứ là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa nhãn xứ có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ là Đệ bát địa phải không sao?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức sắc xứ là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa sắc xứ có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức nhãn giới là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa nhãn giới có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý giới có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức sắc giới là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa sắc giới có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức thanh, hương, vị, xúc, pháp giới là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa thanh, hương, vị, xúc, pháp giới có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức nhãn thức giới là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa nhãn thức giới có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý thức giới có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức nhãn xúc là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa nhãn xúc có Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc là Đệ bát địa phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp

- Cụ thọ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức địa giới có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa địa giới có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tức thủy, hỏa, phong, không, thức giới có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Lìa thủy, hỏa, phong, không, thức giới có phải là Đệ bát địa không?

Xá lợi Tử đáp:

- Đại sĩ! Không phải.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Nếu vậy, Tôn giả nói những pháp nào là Đệ bát địa? Làm sao tôi hiểu được nghĩa thú của Tôn giả nói mà thọ trì cho đúng?

Xá lợi Tử đáp:

- Nếu đối trong tánh bình đẳng các pháp đem trí như thật biết tánh bình đẳng, chứng tánh bình đẳng. Do trí đây nên sở tác dứt. Tôi đối trong ấy chẳng thấy Đệ bát, cũng lại chẳng thấy trí biết tánh bình đẳng, vì trong ấy không ngã không ngã sở, thì làm sao đối trong đó khá gạn hỏi nhau được. (Q.586, Phần “Tịnh Giới Ba La Mật”)

Mãn Từ Tử hỏi:

- Tôn giả đã thuyết trước sau chẳng trái ngược nhau phải không? Trước nói: Tất cả Đệ bát có bao tịnh giới đối chúng các Bồ Tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới, thì trăm phần chẳng bằng một, ngàn phần chẳng bằng một, cho đến cực số phần cũng chẳng kịp một. Nay lại nói rằng tôi đối trong ấy đều chẳng thấy có Đệ bát và trí?

Xá lợi Tử đáp:

- Lời nói trước của tôi là vì người mới học, không vì người đã nhập tánh bình đẳng. Lời nói trước của tôi là muốn khiến cho hữu tình vào chánh pháp, không vì người đã nhập tánh bình đẳng. Lời nói trước của tôi là vì muốn hữu tình biết Đại thừa, tu hành vượt qua nhị thừa, không thuyết thật tánh bình đẳng của các pháp. Lời nói trước của tôi là muốn hữu tình hiểu rõ như thật về sự thù thắng của Phật thừa, Đại thừa và tịnh giới, cho nên nói như vầy: Giả sử tất cả hữu tình ở thế gian đều thành tựu Đệ Bát địa, người kia có được tịnh giới nhưng đối với một Bồ Tát giới của các Bồ Tát mới phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một. Chẳng nói thật tánh bình đẳng các pháp, lìa ngã ngã sở, đâu có trái nhau!

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả tịnh giới của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán và Độc giác đối với các Bồ Tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới, thì trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một.

Đại sĩ nên biết! Có những người muốn làm cho tịnh giới của Thanh văn, Độc giác hơn giới Bồ Tát, là vì muốn làm cho tịnh giới Thanh văn, Độc giác hơn giới Như Lai. Nên biết, người kia muốn tranh đua hơn thua với Như Lai. Ví như có người tranh giành với Vương tử. Nên biết, người kia muốn tranh giành với vua. Như vậy, nếu có người muốn làm cho tịnh giới Thanh văn, Độc giác hơn giới Bồ Tát, là vì muốn làm cho tịnh giới của Thanh văn, Độc giác hơn giới Như Lai. Nên biết, người kia muốn tranh giành hơn thua với Như Lai. Vì sao? Mãn Từ Tử! Pháp của Bồ Tát, nhị thừa không thể hơn được, vì Bồ Tát là Chơn pháp vương tử vậy.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví có người không tay, không chân mà lại nói như vầy: “Tôi có thể bơi qua bờ biển bên kia”. Lời nói kia hư dối không thật, bởi tăng thượng mạn nên nói như thế. Như vậy nếu có Thanh văn, Độc giác nói như vầy: “Giới của ta hơn giới Bồ Tát”. Nên biết, lời nói kia hoàn toàn không thật. Vì sao Mãn Từ Tử? Vì công đức Bồ Tát ví như biển lớn, người ngu kia thật sự không có tay chân làm sao có thể bơi qua biển lớn được. Như vậy, có người chỉ đến bậc nhị thừa, thật sự không có công đức thù thắng như Bồ Tát, nhưng lại nói ta thù thắng hơn tịnh giới Bồ Tát. Điều này không thể có. Vì sao? Vì tịnh giới Bồ Tát không có ngằn mé.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Do nhân duyên gì mà nói tịnh giới Bồ Tát không có ngằn mé?

Xá lợi Tử đáp:

- Do tịnh giới Bồ Tát giải thoát vô lượng hữu tình phạm giới ác. An lập vô lượng hữu tình giữ giới thanh tịnh.

Mãn Từ Tử lại hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Tôn giả đã nói người phạm giới ác là có ý gì?

Xá lợi Tử đáp:

- Chấp ngã, ngã sở và các phiền não khác gọi là phạm giới ác. Nghĩa là nắm giữ hoặc tưởng ngã, tưởng hữu tình, tưởng sanh mạng, tưởng sự sống, tưởng sự nuôi dưỡng, tưởng sĩ phu, tưởng chúng sanh, tưởng có, tưởng không. Các tưởng như vậy và các phiền não là phạm giới ác. Tịnh giới Bồ Tát năng khắp giải thoát vô lượng hữu tình, nên lượng không ngằn mé.

 

(Tịnh giới viên mãn, tức gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác) 

 

Lại nữa, các Bồ Tát có bao tịnh giới năng khắp an lập vô lượng hữu tình khiến trụ tịnh giới. Vậy nên, Bồ Tát an trụ Đại thừa sở đắc tịnh giới lượng không ngằn mé, Thanh văn Độc giác chỗ chẳng thể bì kịp.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát hơn tất cả Thanh văn, Độc giác, nghĩa là tu Tịnh giới Ba la mật, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí.

Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:

- Vì sao tịnh giới hữu lậu của Bồ Tát hơn tịnh giới vô lậu của nhị thừa?

Xá lợi Tử đáp:

- Vì tịnh giới vô lậu của Thanh văn, Độc giác chỉ cầu tự lợi, hồi hướng Niết bàn. Tịnh giới Bồ Tát vì độ thoát vô lượng hữu tình, hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Thế nên, tịnh giới hữu lậu của Bồ Tát hơn tịnh giới vô lậu của nhị thừa.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu tâm các Bồ Tát phát khởi tịnh giới có phân biệt giới hạn khi lợi ích hữu tình, thì sự phát khởi tịnh giới của các Bồ Tát này không hơn được tịnh giới vô lậu của nhị thừa, không được gọi là Tịnh giới Ba la mật. Nhưng nếu tâm các Bồ Tát không có phân biệt, giới hạn, chỉ vì độ thoát vô lượng hữu tình, cầu đại Bồ đề nên phát khởi tịnh giới, thì sự phát khởi tịnh giới của Bồ Tát này hơn hẳn tịnh giới vô lậu của nhị thừa, gọi là Tịnh giới Ba la mật.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như mặt trời mọc phóng ra ánh sáng lớn, làm ánh sáng của lửa đom đóm đều chìm mất. Bồ Tát tu hành Tịnh giới Ba la mật cũng vậy, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí, hơn hẳn tịnh giới của tất cả Thanh văn, Độc giác hồi hướng Niết bàn.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như mặt trăng xuất hiện chiếu ánh sáng lớn, khiến ánh sáng các ngôi sao đều bị lu mờ. Bồ Tát tu hành Tịnh giới Ba la mật cũng vậy, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, hơn hẳn tịnh giới của tất cả Thanh văn, Độc giác hồi hướng Niết bàn.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Khi Bồ Tát nhớ nghĩ về Như Lai, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, do khởi tâm lực tương ưng thù thắng, nên được Tịnh giới Ba la mật. Bấy giờ, gọi là hành tự hành xứ, khắp hơn tất cả Thanh văn Độc giác.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nếu Bồ Tát không hiện khởi tâm Nhất thiết trí, thì khi ấy Bồ Tát gọi là gì?

Xá lợi Tử đáp:

- Nếu Bồ Tát không hiện khởi tâm Nhất thiết trí, thì khi ấy Bồ Tát gọi là tâm vô ký an trụ liên tục. Lúc đó, Bồ Tát này gọi là đầy đủ Bồ Tát giới, đối với Bồ Tát giới chưa gọi là hủy phạm, không gọi là xả bỏ tịnh giới Bồ Tát. Nếu khi Bồ Tát không hiện khởi tâm Nhất thiết trí, mà Bồ Tát hồi hướng Thanh văn hoặc Độc giác, thì khi ấy Bồ Tát xả bỏ Bồ Tát địa, mất tự hành xứ. Nếu các Bồ Tát bất kỳ khi nào hồi hướng địa vị Thanh văn hoặc Độc giác, thì khi ấy các Bồ Tát này đối với Vô thượng thừa gọi là chết. Tuy chẳng phải là chết thật nhưng cũng gọi là chết. Như thầy huyễn thuật hoặc đệ tử, nắm tay một bé nhỏ dẫn lên cầu thang cao, nhà ảo thuật cắt thân thể ra từng phần vứt xuống. Khi đó mọi người đều nói đứa bé kia đã chết, thương xót buồn khóc, sanh khổ não lớn: “Đứa bé này bỗng dưng chết mất, thân thuộc chúng tôi làm sao thấy lại!?” Bồ Tát cũng vậy, bỏ đại Bồ đề thối lui an trụ địa vị Thanh văn, Độc giác, mất Nhất thiết trí nên biết như là chết. Cũng như đứa bé kia tuy không chết nhưng thân thuộc lại tưởng chết.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ý đại sĩ thế nào? Tịnh giới Bồ Tát cùng với tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác có khác nhau không?

Mãn Từ Tử đáp:

- Các giới như vậy, pháp tánh chơn như thật không khác nhau.

Xá lợi Tử hỏi:

- Các giới như vậy, pháp tánh, chơn như tuy không khác nhau, nhưng cũng có tướng khác nhau. Tướng khác nhau đó nên nói thế nào?

Mãn Từ Tử đáp:

- Như các Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Phàm phu, Thanh văn, Độc giác không như vậy. Như vậy tịnh giới của Bồ Tát cùng với các giới kia nói có khác nhau.

Xá lợi Tử nói:

- Bởi vì tịnh giới của Bồ Tát hơn tịnh giới của các phàm phu, Thanh văn, Độc giác. Nghĩa là giới Bồ Tát hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, gọi là Tịnh giới Ba la mật. Giới khác không như vậy, nên nói là khác nhau. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì tịnh giới Bồ Tát hơn ba ngàn đại thiên thế giới và vô lượng vô biên hữu tình. Trừ tịnh giới của Phật Thế Tôn, đối với tịnh giới khác là đệ nhất tối thắng. Vì sao? Vì tịnh giới Bồ Tát đưa vô lượng, vô biên hữu tình giải thoát sanh tử và các đường ác. Do nhân duyên này nên tịnh giới Bồ Tát đối với tịnh giới của các phàm phu, Thanh văn, Độc giác là tối thắng, là tối cao, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như núi Tuyết Sơn đầy đủ sự hùng vĩ. Các núi khác không bằng. Nếu núi nào đầy đủ sự hùng vĩ đều được gọi là núi chúa, nếu không đủ sự hùng vĩ thì không được đặt tên là núi chúa. Tịnh giới của Bồ Tát cũng vậy, hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề, không xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí, gọi là Tịnh giới Ba la mật. Tịnh giới của Độc giác, Thanh văn, phàm phu không muốn cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí, không gọi là Tịnh giới Ba la mật.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tịnh giới của các Bồ Tát hơn hẳn tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Do nhân duyên gì mà tịnh giới của chúng đại Bồ Tát hơn hẳn tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác?

Xá lợi Tử đáp:

- Tịnh giới Bồ Tát hơn hẳn là vì lợi lạc tất cả hữu tình, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí. Phàm phu, Thanh văn, Độc giác không được như vậy. Cho nên tịnh giới Bồ Tát hơn hẳn tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác.

Mãn Từ Tử khen ngợi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng như lời Tôn giả nói. Khen ngợi tịnh giới Bồ Tát như thế, làm cho Bồ Tát càng siêng năng tinh tấn, thọ trì tịnh giới Bồ Tát. Tôn giả nhất định phải nương thần lực của Phật mà nói tịnh giới của các Bồ Tát hơn hẳn tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác.

Lúc bấy giờ, Phật bảo A nan đà:

- Ngươi nên thọ trì giáo pháp tương ưng với Tịnh giới Ba la mật của các đại Bồ Tát, đúng như lời diễn thuyết của Xá lợi Tử và Mãn Từ Tử. Diễn thuyết như vậy chắc chắn không hư dối. Giả sử có người đem núi Diệu Cao bay lên cõi Phạm Thế, rồi gieo xuống dưới, người kia gieo rồi phát lời thành thật chắc chắn:

“Nếu giới Bồ Tát hơn các tịnh giới của phàm phu, Thanh văn, Độc giác thì hãy làm cho núi Diệu Cao trụ ở trong hư không”.

Nói rồi liền trụ chắc chắn không rơi xuống. Vì sao? A nan đà! Vì trừ giới của Như Lai ra, chỉ có giới của các Bồ Tát đối với tịnh giới khác hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu là tối thắng, là tôn cao, là vi diệu, là thượng, là vô thượng.

Khi ấy, Xá lợi Tử nhờ thần lực của Phật, thấy các cõi Phật này có một cõi Phật ở phương Đông quá trăm ngàn cõi, trong ấy hiện có Như Lai vì vô lượng trời, người tuyên thuyết chánh pháp.

Bấy giờ, Phật hỏi Xá lợi Tử:

- Ngươi có thấy quá trăm ngàn cõi ở phương Đông có một cõi Phật, hiện có Như Lai vì vô lượng chúng thuyết chánh pháp phải không?

Xá lợi Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy, nhưng chưa biết vị Phật ở cõi kia hiệu là gì?

Thế Tôn bảo Xá lợi Tử:

- Thế giới Phật kia tên là Minh Đăng. Trong ấy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang thuyết pháp hiệu là Nguyệt Quang. Vị Phật ấy có một đệ tử Thanh văn tên là Hữu Đảnh, có thần thông đệ nhất, dùng sức thần thông qua lại thế giới khác, dùng tay phải nắm lấy núi Diệu Cao, bay lên cõi Phạm Thế rồi thả xuống. Vị kia vừa thả xuống rồi, phát ra lời thành thật chắc chắn: “Trừ giới của Như Lai ra, chỉ có giới Bồ Tát đối với tịnh giới khác hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu là tối thắng, là tôn cao, là vi diệu, là thượng, là vô thượng”. Nếu lời như thế không có hư dối, thì làm cho núi này trụ ở giữa hư không. Nói rồi liền thấy trụ lại, không bị rơi xuống.

Thế Tôn bảo Xá lợi Tử:

- Ngươi lại thấy núi Diệu Cao kia trụ giữa hư không chẳng bị rớt xuống phải không?

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con thấy vậy.

Thế Tôn bảo Xá lợi Tử:

- Núi kia trụ ở hư không là do nương vào tịnh giới của Bồ Tát. Trừ giới của Như Lai ra, phát lời thành thật chắc chắn hơn giới của phàm phu, Thanh văn v.v... Cho nên Ta nói nhất định không hư dối. Đệ tử Thanh văn trong chúng của Phật kia, bằng sức thần thông qua lại thế giới khác, dùng tay phải nắm lấy núi Diệu Cao bay lên đặt trên cõi Phạm Thế rồi thả rớt xuống. Thả rồi lại phát ra lời thành thật chắc chắn. Nói rồi núi kia liền trụ giữa hư không, là chứng tỏ lời Ta nói nhất định không hư dối. Khi đệ tử Thanh văn của Như Lai kia nương vào giới Bồ Tát mà phát lời thành thật, chắc chắn làm cho núi kia trở về lại chỗ cũ.

Xá lợi Tử thấy rồi liền khen ngợi.

- Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ lạ. Giới các Bồ Tát phát ra lời thành thật oai lực khó nghĩ, tất cả thế gian không ai sánh bằng.

Xá lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu có người muốn hơn giới Bồ Tát, nên biết người kia muốn hơn giới Như Lai. Vì sao? Vì trừ giới Như Lai ra không có giới nào hơn giới Bồ Tát. Nếu tu tịnh giới Bồ Tát viên mãn, tức gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Thế nên giới Bồ Tát là thù thắng hơn.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Khó có người thối lui tịnh giới phải không?

Xá lợi Tử đáp:

- Nhất định không có Bồ Tát trụ tâm Bồ Tát rồi lại còn có thối chuyển. Nếu có thối chuyển thì chẳng phải Bồ Tát. Như người bắn tên giỏi, nếu bắn mũi tên không trúng đích, thì nên biết người kia không phải là người bắn tên giỏi. Bồ Tát cũng vậy, nếu không phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí, tuy siêng năng tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, nhưng không hồi hướng Nhất thiết trí trí thì nên biết, người kia không đầy đủ Bồ Tát giới.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát tu các công đức không biết làm thế nào để hồi hướng Nhất thiết trí trí, nên duyên theo công đức của Thanh văn, Độc giác cho là sở cầu Nhất thiết trí trí. Nên biết, những vị kia, do đó cũng được gọi là đầy đủ Bồ Tát giới. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì vị kia không có phương tiện thiện xảo của Bồ Tát, không hiểu được hồi hướng Nhất thiết trí trí, duyên nơi công đức của hàng nhị thừa, cho là sở cầu Nhất thiết trí trí. Vì ý muốn chẳng hoại nên cũng được gọi là đủ giới Bồ Tát giới. Vậy, trì giới Bồ Tát, do có hồi hướng Nhất thiết trí trí nên được gọi là trì giới Bồ Tát, hộ trì Tịnh giới Ba la mật. Người kia, về sau nếu gặp bạn lành, duyên nơi Nhất thiết trí trí, chơn thật hồi hướng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhất định sẽ chứng đắc Nhất thiết trí trí. (Hết Q.586, phần “Tịnh Giới Ba La Mật”).

Thích nghĩa cho Q.586:

(1). Bậc địa bát hay Bát nhân địa (八人地) Tám pháp nhẫn. Tông Thiên thai lập bốn giáo hóa pháp: Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo và Viên giáo. Bát nhân địa là địa thứ ba trong mười địa của Thông giáo. Nhân, có nghĩa là nhẫn: Tức là hàng ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát cùng từ Thế đệ nhất pháp (hạnh cuối cùng trong bốn gia hạnh) vào mười sáu tâm kiến đạo, tức giai vị tu tám pháp nhẫn để chính thức dứt trừ Kiến hoặc. Tám pháp nhẫn là: Khổ pháp trí nhẫn, tập pháp trí nhẫn, diệt pháp trí nhẫn, đạo pháp trí nhẫn, khổ loại trí nhẫn, tập loại trí nhẫn, diệt loại trí nhẫn, đạo loại trí nhẫn v.v... [X. Chỉ quán phụ hành truyền hoằng quyết Q.6]- Phật Quang Từ điển.

 

Lược giải:

 

1. Phải tùy thuận Nhất thiết trí trí và Vô thượng Bồ đề

để tu tịnh giới.

 

“Như vậy, Bồ Tát đối với các uẩn phải khéo léo tu hành. Do khéo léo nên thuyết pháp cho các hữu tình, giúp họ dứt hẳn các tưởng hữu tình. Bồ Tát khởi tâm thù thắng như vậy là lợi mình lợi người, tu trí tuệ vi diệu, tất cả đều dùng đại bi làm đầu, thường phát khởi tâm tùy thuận hồi hướng tương ưng với Nhất thiết trí trí. Nên biết đây gọi là đầy đủ giới Bồ Tát, đầy đủ tịnh giới vô thượng. Nếu các Bồ Tát muốn cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề phải siêng năng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, hồi hướng sở cầu Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát dùng sáu Ba la mật này, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, thì các Bồ Tát này do tịnh giới đây nên thù thắng hơn tất cả Thanh văn, Độc giác”.

 

Tịnh giới cho Ta, cho cá nhân Ta... tức muốn thân tâm Ta được thanh tịnh, thì không được xem là Tịnh giới Ba la mật. Vì sao? Vì Ta làm Ta hưởng, không đem lại lợi ích cho ai cả. Còn tịnh giới hướng đến Nhất thiết trí trí và Vô Thượng Bồ đề nghĩa là tịnh giới với mục đích mong mỏi mình người đều được thanh tịnh để tiến đến giác ngộ như nhau thì mới được xem là đầy đủ Bồ Tát giới, đầy đủ tịnh giới Ba la mật, đầy đủ tịnh giới vô thượng.

 

2. Uẩn, xứ, giới là Đệ Bát địa hay lìa

uẩn, xứ, giới là Đệ Bát địa?

 

“Mãn Từ Tử hỏi Xá Lợi Tử: “Ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, có phải là Đệ Bát địa không?”

Xá Lởi Tử đáp “Không phải!”

Mãn Từ tử hỏi: “Lìa ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, có phải là Đệ Bát địa không?”

Xá Lợi tử đáp: “Không phải!”

Mãn Từ Tử lại hỏi: “Nhãn xúc là Đệ Bát địa, lìa nhãn xúc có phải là Đệ Bát địa không?”

Xá Lợi Tử đáp: “Không phải!”

Mãn Từ Tử lại hỏi:

“Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra là Đệ Bát địa hay lìa nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra có phải là Đệ Bát địa không?”

Xá Lợi Tử đáp: “Không phải!”

Mãn Từ Tử hỏi: “Lục đại chủng hay lìa lục đại chủng có phải là Đệ Bát địa không?”

Xá Lợi Tử đáp: “Không phải!”

Mãn Từ Tử hỏi: “Vậy làm sao hiểu nghĩa Đệ Bát địa được?”

Xá lợi Tử đáp: “Nếu đối trong tánh bình đẳng của các pháp, đem trí như thật biết tánh bình đẳng, chứng tánh bình đẳng. Do trí đây nên sở tác dứt. Nếu sở tác dứt thì chẳng thấy Đệ Bát, cũng lại chẳng thấy trí biết tánh bình đẳng, vì trong ấy không ngã không ngã sở”.

 

Chứng tánh bình đẳng đã là khó, vì phải có trí biết tánh bình đẳng. Do trí này nên biết sở tác dứt, nghĩa là không thấy Đệ Bát mà cũng chẳng thấy trí biết tánh bình đẳng. Đó mới thật là khó. Để giải thích điểm này phẩm thứ ba, nói về “Tập Tương Ưng” (tiếp theo), tập 2, quyền 37, Luận Đại Trí Độ nói rằng: “Lại nữa, hết thảy pháp đều chỉ là một tướng (nhất tướng), đều là chẳng có tướng (vô tướng), nên đều là bình đẳng với nhau. Thế nhưng nếu đã dấy tâm chấp tướng thì thấy có những tướng sai khác, khiến chẳng còn thấy các pháp bình đẳng với nhau nữa.

Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật chẳng thấy các pháp bình đẳng hay chẳng bình đẳng. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là tự tánh “không”. Vì tự tánh “không” nên là chẳng phải pháp, tức là vô pháp. Vì là vô pháp nên chẳng thể thấy được, tức là bất khả kiến. Vì bất khả kiến nên chẳng phải bình đẳng cũng chẳng phải chẳng bình đẳng vậy.

Nếu bình đẳng và chẳng bình đẳng hòa hợp thì mới là tương ưng. Nếu chẳng hòa hợp thì chẳng có tương ưng”. Có bình đẳng, không bình đẳng đều dẹp hết thì mới tương ưng với Bát nhã Ba la mật, nên bảo là hợp với “Đạo tâm” mà chứng tánh.

 

Tất cả tịnh giới của hoặc Đệ Bát, hoặc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn,  A la hán, hoặc Độc giác đối với tịnh giới của các Bồ Tát mới phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề dù chỉ mới phát một Bồ Tát giới, thì tịnh giới của hàng Thánh chúng trên trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một so với tịnh giới của Bồ Tát mới phát tâm. Vì tịnh giới của Bồ Tát không có ngằn mé.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử: “Do nhân duyên gì mà nói tịnh giới Bồ Tát không có ngằn mé?”

Xá lợi Tử đáp: Do tịnh giới Bồ Tát độ thoát vô lượng hữu tình phạm giới ác. An lập vô lượng hữu tình giữ giới thanh tịnh”.

 

3. Tu tịnh giới viên mãn, tức gọi là Như Lai

Ứng Chánh Đẳng Giác.

 

“Nếu tâm các Bồ Tát phát khởi tịnh giới có phân biệt giới hạn khi lợi ích hữu tình, thì sự phát khởi tịnh giới của các Bồ Tát này không hơn được tịnh giới vô lậu của nhị thừa, nên không gọi là Tịnh giới Ba la mật. Nhưng nếu tâm các Bồ Tát không có phân biệt, giới hạn, chỉ vì độ thoát vô lượng hữu tình, cầu đại Bồ đề nên phát khởi tịnh giới, thì sự phát khởi tịnh giới của Bồ Tát này hơn hẳn tịnh giới vô lậu của nhị thừa, gọi là Tịnh giới Ba la mật”.

“Như núi Tuyết Sơn đầy đủ sự hùng vĩ của ngọn núi. Các núi khác không bằng. Nếu núi nào đầy đủ sự hùng vĩ đều được gọi là núi chúa. Tịnh giới của Bồ Tát cũng vậy, hồi hướng quả vị Vô Thượng Bồ đề, không xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí, gọi là Tịnh giới Ba la mật. Tịnh giới của Độc giác, Thanh văn, phàm phu không muốn cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí, không gọi là Tịnh giới Ba la mật”.

Vì vậy, nên Xá Lợi Tử bạch Phật rằng:

- “Bạch Thế Tôn! Nếu có người muốn hơn giới Bồ Tát, nên biết người kia muốn hơn giới Như Lai. Vì sao? Vì trừ giới Như Lai ra không có giới nào hơn giới Bồ Tát. Nếu tu tịnh giới Bồ Tát viên mãn, tức gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Thế nên Bồ Tát giới là thù thắng hơn cả”.

Đoạn Kinh trên chỉ phân tích, so sánh giới của Nhị thừa với giới Bồ Tát và khuyên người tu tịnh giới phải tùy thuận Vô Thượng Bồ đề và Nhất thiết trí trí, thì tịnh giới của Bồ Tát mới viên mãn, mới đáng gọi là Tịnh giới Ba la mật, đầy đủ tịnh giới vô thượng. Tịnh giới hoàn hảo viên mãn tột độ thì xứng đáng suy tôn là Thánh nhân. Nhưng muốn thành quả Phật, đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề thì phải tu tất cả pháp mầu Phật đạo, tu lục độ vạn hạnh nhất Bát nhã Ba la mật và phải hồi hướng Nhất thiết trí trí.

 

Chúng ta tụng tiếp Q.587, phần “Tịnh Giới Ba La Mật”.


Quyển thứ 587

                                                                          

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Có hai Bồ Tát đều chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bồ Tát thứ nhất có phương tiện thiện xảo nên mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Bồ Tát thứ hai không có phương tiện thiện xảo nên chậm chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Cụ thọ nên biết! Thà làm Bồ Tát chậm chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, mà không rơi vào bậc Thanh văn hoặc Độc giác. Nếu các Bồ Tát mau cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, thì trong đây nên biết có hai việc xảy ra:

Một là, nếu không có phương tiện thiện xảo liền chứng thật tế sẽ rơi vào nhị thừa.

Hai là, nếu có phương tiện khéo léo, mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, cũng như trong nhà lửa có nhiều châu báu, có người muốn vào trong nhà này lấy châu báu. Bấy giờ, có 2 điều xảy ra đối với người kia:

Một là, nếu không có phương tiện khéo léo sẽ chết trong nhà lửa.

Hai là, nếu có phương tiện khéo léo thì lấy được vật báu đem ra.

 

Bồ Tát cầu mau chứng quả vị Vô thượng Bồ đề cũng vậy. Nên biết, trong đây có hai việc xảy ra:

Một là, nếu không có phương tiện khéo léo liền chứng thật tế, rơi vào nhị thừa như bị chết trong nhà lửa.

Hai là, nếu có phương tiện khéo léo mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, như người cầm vật báu đi ra.

Vì vậy, nên biết thà là Bồ Tát chậm chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, không vì cầu mau chứng để khỏi rơi vào nhị thừa.

 

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Mau chứng thật tế chẳng phải phương tiện khéo léo của Bồ Tát chăng?

Xá Lợi Tử đáp:

- Mau chứng thật tế chẳng phải là phương tiện khéo léo của Bồ Tát. Vì sao? Vì rơi vào nhị thừa chẳng phải là nhân đẳng lưu(1)của phương tiện thiện xảo, mà là quả đẳng lưu của không phương tiện thiện xảo, nên thối thất sở cầu đại Bồ đề, vì Bồ Tát cầu đại Bồ đề để nhiêu ích hữu tình, không cầu thật tế, nên chứng thật tế thì chẳng phải là khéo tiện.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta hành bố thí còn Bồ Tát khác không hành, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là bố thí Ba la mật.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta giữ giới còn Bồ Tát khác không giữ, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là Tịnh giới Ba la mật.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta tu nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ còn các Bồ Tát khác không tu, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là an nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ Ba la mật.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta hành 18 pháp Không còn Bồ Tát không hành, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, như vậy là không hành 18 pháp Không một cách rốt ráo.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta quán 12 duyên khởi, tứ Thánh đế còn Bồ Tát khác không quán, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành nơi phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không quán 12 duyên khởi, tứ Thánh đế một cách rốt ráo .

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta tu hành bốn tĩnh lự còn Bồ Tát khác không tu, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn bốn tĩnh lự. Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta tu hành bốn vô lượng, bốn định vô sắc, còn Bồ Tát khác không tu, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn bốn vô lượng, bốn định vô sắc.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta tu hành 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn còn Bồ Tát khác không tu, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn một cách rốt ráo.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ còn Bồ Tát khác không tu, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ một cách rốt ráo.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta tu hành tất cả pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, tu hành năm loại mắt, sáu phép thần thông, Như lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng đại sĩ tám mươi vẻ đẹp phụ thuộc, tu hành pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, nói chung là tất cả pháp mầu Phật đạo còn Bồ Tát khác không tu, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tất cả tất cả pháp mầu Phật đạo một cách rốt ráo.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta tùy hỷ các công đức của người khác, còn Bồ Tát khác không tùy hỷ, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không viên mãn tùy hỷ các công đức của người khác.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta hồi hướng Nhất thiết trí trí, còn Bồ Tát khác không hồi hướng, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không viên mãn hồi hướng Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta nhất tâm tu tập các công đức, hơn hẳn Bồ Tát khác trụ hằng hà sa số đại kiếp tu tập các công đức, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu tập viên mãn các công đức.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta tu hành phương tiện thiện xảo, còn các Bồ Tát khác không tu, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn phương tiện thiện xảo.

Cụ thọ nên biết! Nếu các Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo tu tập các công đức, mà khởi lên những suy nghĩ như vậy, thì nên biết vị kia không có phương tiện thiện xảo. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì Bồ Tát không nên tranh đoạt hơn thua với Bồ Tát. Bồ Tát không nên khinh mạn Bồ Tát. Bồ Tát đối với các Bồ Tát khác phải cúng dường, cung kính như cúng dường cung kính Như Lai.

 

(Bồ Tát phải cung kính Bồ Tát và các hữu tình như thế nào?)

 

Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:

- Bồ Tát chỉ nên cung kính Bồ Tát hay phải cung kính các hữu tình khác nữa?

Xá lợi Tử đáp:

- Các Bồ Tát nên cung kính tất cả hữu tình. Nghĩa là các Bồ Tát phải cung kính như cung kính Như Lai, như vậy cũng phải cung kính Bồ Tát khác. Nếu như cung kính Bồ Tát thì cũng nên cung kính hữu tình, tâm không khác nhau. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các Bồ Tát đối với các hữu tình tâm phải khiêm hạ, phải thật cung kính, hòa hợp tự tại, và nên xa lìa kiêu mạn. Như vậy, Bồ Tát đối với các hữu tình, tâm rất cung kính như cung kính Phật và Bồ Tát. Bồ Tát nên nghĩ như vầy: Khi ta chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ Tát, phải vì hữu tình thuyết giảng chánh pháp sâu xa, làm cho họ dứt trừ phiền não được nhập Niết bàn, hoặc được cứu cánh an lạc Bồ đề, hoặc giúp giải thoát các đường ác.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Như vậy, Bồ Tát đối với hữu tình phải khởi tâm từ bi, tâm xa lìa kiêu mạn. Nghĩ như vầy: Ta nên tu học phương tiện thiện xảo, làm cho tất cả hữu tình đều được tánh thù thắng đệ nhất. Vì sao? Vì tánh đệ nhất gọi là Phật tánh. Ta nên dùng phương tiện để các hữu tình đều được thành Phật. Như vậy, Bồ Tát đối với hữu tình đều khởi tâm từ bi, muốn tất cả hữu tình đều ở ngôi vị Pháp vương. Ngôi vị Pháp vương này tối thắng, tối tôn, nên hữu tình đối với pháp đều được tự tại. Vì vậy, đại Bồ Tát phải cung kính khắp tất cả hữu tình. Trải lòng từ cùng khắp không một chỗ nào thiếu, vì pháp thân Như Lai biến khắp tất cả.

Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Tại sao Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Ta phải cung kính tất cả hữu tình. Ta chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề rồi nên dạy dỗ, trao truyền cho tất cả hữu tình đều chứng đắc tánh tối thắng đệ nhất. Tất cả đều được ở ngôi vị Pháp vương.

Ví như nhà ảo thuật hoặc đệ tử vị ấy, ở ngã tư đường hóa làm đại vương và bốn thứ quân mạnh mẽ khó địch nổi. Vua huyễn trong đây không nghĩ: Nay, ta đầy đủ bốn loại quân hùng dũng, thế lực khó địch. Bốn loại quân huyễn cũng không nghĩ: Tất cả chúng ta đều thuộc quyền của đại vương, tùy ý đại vương điều khiển. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì tất cả trong đây, vua hay quân đều chẳng phải thật có, hoàn toàn không tự tánh. Thật có tự tánh thì đều không bị lệ thuộc. Cũng như Thế Tôn thuyết các pháp như huyễn. Tất cả hữu tình cũng lại như vậy, đều như huyễn. Vậy thì ai cung kính ai. Ai lại có thể làm cho ai được tánh đệ nhất, ở ngôi vị Pháp vương thuyết những pháp gì?

Xá lợi Tử đáp:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Hữu tình và tất cả pháp đều như huyễn. Nên biết trong đây Bồ Tát như huyễn; cung kính tất cả hữu tình như huyễn; dùng phương tiện khéo léo dạy dỗ, trao truyền làm cho được Phật tánh đệ nhất như huyễn; ở ngôi vị Pháp vương thuyết pháp như huyễn. Mặc dù các Bồ Tát nghĩ như vậy, nhưng trong đó hoàn toàn không có sở chấp, nếu các Bồ Tát đối với trong các pháp, còn có một chút sở kiến thì các Bồ Tát này chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Nếu khi Bồ Tát đối với trong các pháp hoàn toàn không sở kiến, thì Bồ Tát này không xa lìa Bát nhã Ba la mật. Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo như vậy, tuy hành tinh tấn Ba la mật giáo hóa hữu tình làm cho được thành Phật, nhưng đối với các pháp hoàn toàn không sở kiến. Nghĩa là không thấy thật có một chút pháp tánh có thể khiến người khác được tánh đệ nhất. Cũng không thấy thật có một chút pháp tánh nào có thể làm cho người khác ở ngôi vị Pháp vương. Tuy không sở kiến nhưng không thối chuyển.

Nên biết, Bồ Tát mặc áo giáp, đội mũ tinh tấn, hoàn toàn không sở chấp. Nghĩa là các Bồ Tát biết ngôi vị Pháp vương chỉ là huyễn, hoàn toàn không thật có nhưng vẫn siêng năng cần cầu, không thối chuyển. Dù siêng năng tinh tấn cầu quả Phật, nhưng đối với các pháp hoàn toàn không sở kiến. Tuy không sở kiến nhưng không thối chuyển. Bồ Tát như vậy tuy biết trời, người, A tu la v.v... đều hư hoại, nhưng đối với trong đó không tưởng hư hoại, vì hiểu tất cả đều như huyễn. Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo như vậy, cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, muốn vì hữu tình thuyết pháp tịch tĩnh. Nghĩa là mặc dù tuyên thuyết về tên gọi, văn cú, chữ nghĩa, phương tiện của tất cả pháp tánh, nhưng bổn tánh của pháp hoàn toàn bất khả thuyết.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Tất cả pháp tánh bất khả hiển thị, bất khả tuyên thuyết. Khi Bồ Tát chứng đắc đại Bồ đề, tuy vì hữu tình thuyết tánh các pháp nhưng lại suy nghĩ: Ta đối với sự giác ngộ hoàn toàn vô sở đắc, cũng thường đối với pháp không vì hữu tình mà có sự tuyên thuyết. Ta tuy chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, nhưng Bồ đề này thật không thể chứng. Ta tuy tuyên thuyết tánh tất cả pháp, nhưng tánh các pháp thật không thể thuyết. Năng thuyết, sở thuyết hoàn toàn không tự tánh. Năng chứng, sở chứng cũng không thể đắc. Vì vậy, chúng đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đối với các pháp không nên chấp trước. Tuy không chấp trước nhưng không thối chuyển. Do không thối chuyển nên tâm không bị chìm đắm. Do không bị chìm đắm nên giữ gìn sự tinh tấn. Đây gọi là tinh tấn Ba la mật. Lại dùng tinh tấn Ba la mật, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, viên mãn Tịnh giới Ba la mật, lại dùng Tịnh giới Ba la mật hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí, làm cho Tịnh giới Ba la mật này thêm thù thắng, thêm tăng thượng, thêm sáng tỏ, thêm thanh tịnh. Bồ Tát tu học Tịnh giới Ba la mật như vậy, mau được viên mãn tăng thượng, thù thắng, sáng tỏ, thanh tịnh, đều do Bồ Tát hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử liền hỏi cụ thọ Xá lợi Tử:

- Nếu tất cả pháp đều như huyễn, hoàn toàn không thật có, thì tại sao Bồ Tát hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí mà được thành tựu?

Xá lợi Tử đáp:

- Nếu tất cả pháp chỉ có một chút phần thật có, chẳng phải việc như huyễn, thì các Bồ Tát hoàn toàn không hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí. Vì tất cả pháp không có một chút phần thật có, đều như huyễn cho nên các Bồ Tát hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí. Bồ Tát như vậy là có sự kham nhẫn(2), có thể siêng năng hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, không nhàm chán. Đều do hiểu rõ các pháp chẳng phải thật, như huyễn như hóa, có sự kham nhẫn. Nên biết tức là Bồ Tát tinh tấn Ba la mật.

Mãn Từ Tử hỏi:

- Bồ Tát như vậy có sự kham nhẫn, nên tinh tấn hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí không nhàm chán. Vậy pháp nghiệp gì để thuyết kham nhẫn tức là tinh tấn. Làm sao tu học kham nhẫn như thế?

Xá lợi Tử đáp:

- Kham nhẫn tức là hành động của phương tiện thiện xảo. Bồ Tát chỉ cần nương vào phương tiện thiện xảo, biết tất cả pháp đều như huyễn, Bồ Tát an trụ phương tiện khéo léo, không sợ pháp Không, không rơi vào thật tế. Ví có người đứng ở trên đỉnh núi cao, hai tay cầm cái lọng to nhẹ, leo đến ngọn núi cao, kiễng chân và ngẩng cổ về phía trước, cúi nhìn xuống vực sâu nguy hiểm. Vì nhờ vào lọng dù căng gió, được sự chống đỡ của sức gió, tuy đến chỗ hiểm mà không bị rớt xuống. Bồ Tát cũng vậy, dùng phương tiện thiện xảo nhờ sức hộ trì của đại bi Bát Nhã, tuy thật quán các pháp như huyễn, hiển thị hư dối, bổn tánh không tịch, nhưng tâm hoàn toàn không thấp hèn sợ sệt, đối với pháp thật tế cũng không chứng vào.

Vì sao Mãn Từ Tử? Vì các Bồ Tát này dùng phương tiện thiện xảo, nhờ sức hộ trì của đại bi Bát Nhã không sợ pháp Không, không chứng thật tế. Giống như nắm giữ chắc lọng dù, khi bung ra từ trên cao ngó xuống vực sâu, không sợ rớt. Cũng vậy, chúng Đại Bồ Tát mặc áo đội mũ kiên cố, giữ gìn phương tiện thiện xảo là chỗ nương tựa thành tựu viên mãn Tịnh giới Ba la mật đệ nhất. Tuy cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, nhưng không thấy pháp đã chứng, đang chứng. Nên biết rõ Bồ Tát Tịnh giới Ba la mật như thế, tất cả đều do được phương tiện khéo léo nhiếp thọ, nên mới đến được Vô Thượng Bồ đề. Sự hộ trì phương tiện thiện xảo của Bồ Tát như vậy thường không xa lìa sở học sáu Ba la mật. Các Bồ Tát này do không xa lìa sở học sáu Ba la mật, dần dần thân cận Nhất thiết trí trí, vượt hơn tất cả Thanh văn, Độc giác. Vì sao? Vì các Bồ Tát này, tâm chuyên cầu Nhất thiết trí trí như cầu vật quí báu vô giá.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Ví như có hai người dùng phương tiện lớn, đi vào hang núi sâu tìm vật báu vô giá. Hai người kia vào chưa được bao lâu liền thấy hai bên có vàng, bạc v.v..., những vật quí ít giá trị, cả hai đều không lấy. Đi lần lần về phía trước, lại thấy hai bên có nhiều vật báu nhiều giá trị. Một người thấy liền tham lam vác lấy rồi đi về. Một người thấy nhưng không lấy, lại tiến về phía trước nữa, đến chỗ rất đẹp, được vật báu vô giá, tha hồ đem về, được nhiều lợi ích. Bồ Tát dùng phương tiện lớn cũng vậy, cầu chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, muốn làm lợi ích lớn cho các hữu tình, nhập vào Phật pháp. Tóm lược có hai hạng:

Một là, có Bồ Tát không có phương tiện thiện xảo, tuy nghe các thiện pháp ở thế gian, tâm không tham đắm nhiễm trước, nhưng nghe công đức của nhị thừa, tâm liền thích thú. Do thích thú cho nên siêng năng nhiếp trì, xa lìa sở cầu Nhất thiết trí trí, thối thất quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Giống như người mới thấy vật báu có giá trị ít, tuy không tham đắm, nhưng thấy vật ấy quá nhiều bèn tham lam đắm trước lấy về, nên đánh mất vật báu vô giá.

Hai là, có Bồ Tát đủ phương tiện thiện xảo, mới nghe các thiện pháp ở thế gian, tâm không tham lam đắm trước. Tiếp đến nghe công đức của nhị thừa, cũng không thích thú. Do không thích thú nên không tưởng đến. Do không tưởng nhớ liền không tu tập. Đã không tu tập còn nhàm chán phương tiện. Vì sao? Vì các Bồ Tát này biết thiện pháp thế gian tội lỗi rất nhiều, hoàn toàn chẳng lợi mình, lợi người, chướng ngại cho sở cầu Nhất thiết trí trí. Công đức thiện căn của Thanh văn, Độc giác, tuy ra khỏi thế gian nhưng chỉ tự lợi, không lợi ích cho tất cả hữu tình, cũng chướng ngại cho sở cầu Nhất thiết trí trí, cho nên không thích thú cũng không nghĩ tưởng. Đối với thiện căn kia không ưa tu tập. Do đó vượt khỏi bậc nhị thừa kia, siêng cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, dần dần chứng đắc Nhất thiết trí trí. Giống như người sau thấy vật báu giá trị ít và giá trị nhiều, đều không tham trước. Tiến dần vào trong đến chỗ rất đẹp, lấy được vật báu vô giá, tha hồ đem về, làm lợi ích lớn cho các hữu tình.

Như vậy, Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo đã không tham đắm, nhiễm trước thiện pháp thế gian. Đối với pháp nhị thừa cũng không thích thú. Do đây, lần lần đến đại Bồ đề, tu hơn trăm ngàn hạnh khổ khó hành, cúng dường cung kính vô lượng Như Lai, thành thục hữu tình trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, viên mãn Nhất thiết trí, lợi ích an lạc vô lượng hữu tình. Như báu vật vô giá được nhiều lợi ích.

Như vậy, Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo tuy nghe các công đức nhị thừa nhưng biết được nó đều không rốt ráo. Tuy chứng được nhưng rất nhàm chán. Tuy rất nhàm chán nhưng rất khéo léo, dùng phương tiện lợi ích hữu tình kia, làm cho họ khéo tu hành chứng nhập Niết bàn. Như vậy, Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo không nhiếp trì công đức nhị thừa, tinh tấn tu hành các hạnh Bồ Tát, chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích an lạc cho các hữu tình.

Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:

- Nếu các Bồ Tát trụ ở ngôi vị bất thối chuyển, thì đối với những hạnh gì không nên đắm trước vị ngọt của nó?

Xá lợi Tử đáp:

- Đối với sáu Ba la mật không nên đắm trước vị ngọt của nó. Vì sao Mãn Từ Tử? Vì nếu đắm trước vị ngọt của bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, tâm liền bị tạp nhiễm, không đem lại lợi ích an lạc thật sự cho hữu tình, cũng lại không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đó phải trải qua thời gian lâu mới chứng đắc sở cầu Vô Thượng Bồ đề. Cho nên Bồ Tát kia suy nghĩ: Ta đối với 6 Ba la mật, tuy phải siêng năng tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để gián đoạn, như cứu lửa cháy đầu; nhưng trong ấy không nên đắm trước vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của 18 pháp quán Không, các pháp chân như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh v.v... Vì sao Mãn Từ Tử? Vì tâm liền bị tạp nhiễm, không đem lại lợi ích an lạc thật sự cho hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây nên trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sở cầu Vô thượng Giác ngộ. Vì vậy, Bồ Tát kia phải nên suy nghĩ: Ta đối với các pháp quán Không, các pháp chân như, pháp tánh v.v... như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng trong ấy không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của các pháp quán 12 duyên khởi, Tứ đế, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, Đà la ni môn, Tam ma địa môn, 5 loại mắt, 6 thần thông, 8 thắng xứ, 9 định thứ lớp, Như lai mười lực, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí... Nói chung là tất cả các pháp mầu Phật đạo. Vì sao Mãn Từ Tử? Vì nếu đắm trước vào vị ngọt của sự quán sâu tất cả các pháp mầu Phật đạo nói trên, tâm liền bị tạp nhiễm, không đem lại lợi ích an lạc thật sự cho hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây phải trải qua nhiều kiếp mới có thể chứng đắc sự cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì vậy, Bồ Tát kia phải suy nghĩ: Ta đối với các pháp mầu Phật đạo như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để thời gian bị gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; nhưng trong ấy không nên đắm trước vào vị ngọt của nó.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không nên hiện hành phân biệt: Ta hộ trì tịnh giới Bồ Tát là do cầu các tướng hảo như vậy. Nếu các Bồ Tát có tâm phân biệt như thế, nên biết gọi là phạm giới Bồ Tát. Vì vậy, Bồ Tát không nên tham cầu các tướng hảo, chỉ cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nếu Bồ Tát chấp lấy, đắm trước tướng hảo để thọ trì giới, nên gọi là chấp trước tịnh giới có sự hủy phạm. Nếu các Bồ Tát chấp trước tịnh giới có sự hủy phạm, nhất định không chứng sự cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. (Hết Q.587, phần “Tịnh Giới Ba La Mật”)

Thích nghĩa cho Q.587:

(1).  Nhân đẳng lưu: Đẳng là đồng đẳng (cùng), lưu là lưu loại (dòng), đẳng lưu nghĩa là cùng một dòng. Nhân đẳng lưu: Nhân sao quả vậy. Do nhân mà trôi chảy tới quả, do gốc mà trôi chảy tới ngọn.

(2). Kham nhẫn: (堪忍) Phạm: Kwama. Nhẫn nại chịu đựng sự bức bách đau đớn của thân và tâm. Kinh Đại Bát Niết Bàn (bản Nam) quyển 26 (Đại 12, 779 hạ) nói: Không tiếc thân mệnh, kham nhẫn các nạn. Lại nữa, tiếng Phạm: Sahà(dịch âm: Sa bà), cũng được dịch là kham nhẫn. Thế giới Kham nhẫn là chỉ cho thế giới Sa bà (hay còn gọi là Ta bà) mà chúng ta đang sống, vì chúng sinh trong thế giới Sa bà nhẫn chịu 3 độc tham, sân, si và các nỗi khổ não, rồi các Bồ Tát vì giáo hóa chúng sinh cũng nhẫn chịu khổ, cho nên gọi là thế giới Kham nhẫn.

 

Lược giải:

 

Ai tu cũng muốn mau chứng đắc, mau giác ngộ. Thói thường là như vậy, nhưng ở đây Kinh lại nói rằng: Bồ Tát nếu tu để mau chứng thật tế chẳng phải là phương tiện khéo léo của Bồ Tát. Vì sao? Vì chứng thật tế là vào Niết bàn, tức không có tâm phục vụ chúng sanh thì chẳng khác nào Nhị thừa. Nên Kinh bảo thà Bồ Tát chậm chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, không vì cầu mau chứng để khỏi rơi vào nhị thừa. Tôn chỉ của Đại thừa là phục vụ chúng sanh. Đó là sự khác biệt giữa Nhị thừa và Đại thừa mà Kinh lặp lại như trong phần “Bố Thí Ba La Mật”. Nếu Bồ Tát hành như Nhị Thừa là hành nơi phi xứ, tức trái với bổn nguyện của Bồ Tát thì gọi là vi phạm Bồ Tát giới.

 

1. Thế nào là hành nơi phi xứ?

 

1- Nếu Bồ Tát suy nghĩ, ta hành bố thí còn Bồ Tát khác không hành, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không được gọi là bố thí Ba la mật. Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta giữ giới, ta tu nhẫn nhục, ta tu tinh tấn, thiền định, trí tuệ, còn Bồ Tát khác không giữ không tu như vậy, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không gọi là giữ giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, Bát nhã Ba la mật.

Nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta hành 18 pháp không, ta hành Tứ đế, 12 duyên khởi, 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 37 pháp trợ đạo v.v... cho đến Nhất thiết tướng trí hay nói chung là hành tất cả các pháp Phật, còn các Bồ Tát khác không hành, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không tu viên mãn tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo hay tư lương Bồ đề Bồ Tát.

Lại nữa, nếu các Bồ Tát suy nghĩ, ta thành thục hữu tình, ta trang nghiêm cõi Phật, còn Bồ Tát khác thì không, thì các Bồ Tát này hành nơi phi xứ. Vì hành phi xứ hay nói khác là còn tâm đố kỵ nên giới bị khiếm khuyết, hủy phạm, không viên mãn thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật vậy.

Đó cũng là điều dễ hiểu. Nếu Bồ Tát còn thấy Ta như thế này, ta như thế nọ… trong khi các Bồ Tát khác không tu, không hành được như vậy, thì Bồ Tát còn chấp ngã, chấp pháp, tâm đố kỵ chưa tiêu, làm sao xứng danh Bồ Tát nói chi đến việc chứng đắc Giác ngộ hay Nhất thiết trí trí.

Vả lại, nếu các Bồ Tát tu tập các công đức, khởi lên những suy nghĩ như vậy, thì nên biết vị kia không có phương tiện thiện xảo. Vì sao? Vì Bồ Tát không nên tranh đấu hơn thua, Bồ Tát không nên khinh mạn Bồ Tát khác. Bồ Tát đối với các Bồ Tát khác phải cung kính cúng dường như cung kính cúng dường Thế Tôn.

 

2- Các Bồ Tát không những đối với các Bồ Tát và Như Lai mà cả đến đối với các hữu tình tâm phải khiêm hạ, phải thật cung kính, hài hòa và xa lìa kiêu mạn. Bồ Tát nên nghĩ như vầy: Khi ta chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, phải vì hữu tình thuyết giảng chánh pháp sâu xa, làm cho họ dứt trừ phiền não được nhập Niết bàn, hoặc được cứu cánh an lạc hoặc giúp giải thoát các đường ác. Như vậy, Bồ Tát đối với hữu tình đều khởi tâm từ bi, muốn tất cả hữu tình đều ở ngôi vị Pháp vương. Ngôi vị Pháp vương này tối thắng, tối tôn, nên hữu tình đối với tất cả pháp đều được tự tại. Vì vậy, đại Bồ Tát phải cung kính khắp tất cả hữu tình, trải lòng từ cùng khắp như pháp thân Như Lai biến khắp tất cả.

 

2. Hữu tình như huyễn và tất cả pháp cũng như huyễn.

 

Như huyễn là cái thấy từ bờ bên kia. Khi nào thấy tất cả pháp đều như huyễn hóa kể cả con người, khi ấy mới thấy được thật tánh tất cả pháp. Thấy mà còn có sở kiến là còn chấp tức xa lìa Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, nên trong đoạn Kinh này, Xá lợi tử nói:

“Hữu tình và tất cả pháp đều như huyễn. Nên biết trong đây Bồ Tát như huyễn; cung kính tất cả hữu tình như huyễn; dùng phương tiện khéo léo dạy dỗ, trao truyền làm cho được Phật tánh đệ nhất như huyễn; ở ngôi vị Pháp vương thuyết pháp như huyễn. Mặc dù các Bồ Tát nghĩ như vậy, nhưng trong đó hoàn toàn không có sở chấp, nếu các Bồ Tát đối với các pháp, còn có một chút sở kiến thì các Bồ Tát này chẳng phải hành Bát nhã Ba la mật. Khi Bồ Tát đối với tất cả pháp hoàn toàn không sở kiến, thời Bồ Tát này không xa lìa Bát nhã Ba la mật...”

Tu Đại thừa phải thấy “chúng sanh không” và “pháp không” Chúng sanh không là thấy ngã không, không còn chấp ngã. Pháp không là thấy pháp như huyễn như mộng... mới gọi là bất khả đắc không, tức có thể chứng thật tướng các pháp. Đó chính là phương tiện thiện xảo của người tu hành. Nếu hành được như thế thì không thối thất đạo Bồ đề, dễ tu tịnh hạnh, tâm sẽ được an nhiên tịch lặng.

Trong Bát Nhã Bát Thiên tụng, Phật bảo:

“Này Xá Lợi Phất! Thực ra không có một pháp nào tồn tại, nếu không biết rõ như thế thì tức là vô minh. Phàm phu vì không biết như thế nên mới sinh lòng chấp trước, vì chấp trước nên cho tất cả pháp là có thật, vì cho các pháp có thật nên chấp trước nhị biên (chấp thường chấp đoạn), và vì chấp trước nhị biên nên mới không thấy, không biết cái chân tướng của các pháp, vì không thấy, không biết nên chấp trước tất cả các pháp hiện tại, quá khứ, vị lai, do đó mới chấp có danh sắc. Vì chấp danh sắc nên cho các pháp đều thật có, bởi thế mà không thấy không biết được đạo như thật (Yathabhutam marga), vì không thấy, không biết được đạo như thật nên không siêu việt được tam giới, không thấy rõ được thật tướng của tất cả pháp”.

Phật nói như vậy, đệ tử nói như vậy: Muốn siêu hóa vạn hữu thì phải quán các pháp không thật có, chúng như huyễn hóa như mộng, huyễn hóa mộng cũng tức là không. Quán lâu ngày thành thục liền có thể tháo gỡ được những hệ lụy thế gian. Bằng không thì huyễn vẫn là huyễn và huyễn chẳng khác nào một câu nói trào lộng không khác!

 

3. Tất cả pháp tánh bất khả hiển thị, bất khả tuyên thuyết.

 

Tất cả pháp tánh bất khả hiển thị, bất khả tuyên thuyết hay nói khác là bất khả đắc, bất khả tư nghì. Khi Bồ Tát chứng đắc đại Bồ đề, tuy vì hữu tình thuyết tánh các pháp, nhưng lại suy nghĩ: Ta đối Bồ đề trọn không sở đắc, cũng chẳng vì hữu tình tuyên thuyết. Ta dù chứng được Vô thượng Bồ đề mà Bồ đề đây thật chẳng thể chứng, ta dù tuyên nói tánh tất cả pháp mà tánh tất cả pháp thật chẳng thể thuyết. Vì năng thuyết sở thuyết đều không, năng chứng sở chứng cũng bất khả đắc. Vì vậy, các Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, đối với các pháp không nên chấp trước. Tuy không chấp trước nhưng không thối thất đạo Bồ đề. Do không thối thất đạo Bồ đề, nên tâm không thối chuyển, không mất bản nguyện. Do không mất bản nguyện, nên, tu hành tinh tấn. Đây gọi là tinh tấn Ba la mật. Lại dùng tinh tấn Ba la mật, hồi hướng Nhất thiết trí trí, viên mãn Tịnh giới Ba la mật, lại dùng Tịnh giới Ba la mật hồi hướng Nhất thiết trí trí, làm cho Tịnh giới Ba la mật này càng thêm thù thắng, tăng trưởng, sáng tỏ, thanh tịnh hơn lên. Bồ Tát tu học Tịnh giới Ba la mật như vậy, mau được viên mãn, đều do Bồ Tát hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí.

Đoạn kinh này dùng giải thích đoạn kinh trên và một lần nữa nhấn mạnh rằng “tất cả pháp tánh bất khả hiển thị, bất khả tuyên thuyết”. Giáo pháp này đã được thuyết giảng nhiều lần, đây chỉ lặp lại.

 

4. Bồ Tát đối với những hạnh gì không chấp trước vị ngọt của nó?

 

Xá Lợi Tử bảo: “Các Bồ Tát kia không nên đắm trước vào vị ngọt của tất cả các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo hay tư lương Bồ đề Bồ Tát. Vì sao? Vì nếu đắm trước quán sâu vào vị ngọt của các pháp như trên, tâm liền bị tạp nhiễm, không đem lại lợi ích an lạc thật sự cho hữu tình, cũng không trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật. Do đây nên trải qua nhiều kiếp mới chứng đắc sở cầu Vô Thượng Bồ đề. Vì vậy, Bồ Tát nên suy nghĩ: Ta đối với các pháp như vậy, tuy phải tinh tấn dõng mãnh tu tập, không để gián đoạn như cứu lửa cháy đầu; đối với các pháp đó không nên chấp đắm vào vị ngọt của nó.

Nếu các Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, không nên hiện khởi phân biệt: Ta nhiếp trì tịnh giới Bồ Tát là do cầu các tướng hảo như vậy. Nếu các Bồ Tát có tâm phân biệt hiện khởi như thế, nên nói là phạm Bồ Tát giới. Vì vậy, Bồ Tát không nên tham cầu các tướng hảo, chỉ cầu Vô Thượng Bồ đề. Nếu Bồ Tát chấp lấy, đắm trước tướng hảo để thọ trì tịnh giới, nên biết là chấp trước tịnh giới có sự hủy phạm. Nếu các Bồ Tát chấp trước tịnh giới có hủy phạm, nhất định không chứng sở cầu Vô Thượng Bồ đề”.

 

Vì vậy, phẩm “Khuyến Học”, quyển 36, Hội thứ I, ĐBN khuyên rằng: “Bồ Tát nên biết tất cả Phật pháp, nên biết nhưng không nên đắm”.

 

Phẩm “Trước Chẳng Trước Tướng”, quyển 288, Hội thứ I, ĐBN nói:

 “Tất cả thiện nam tín nữ trụ Bồ Tát thừa lấy hữu sở đắc làm phương tiện, từ lúc sơ phát tâm đối với bố thí khởi tưởng hành bố thí, hành tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật và hành tất cả pháp Phật. Nếu khởi tưởng như thế gọi là trước tướng. Đại Bồ Tát khi hành Bát nhã Ba la mật có phương tiện khéo léo, lấy vô sở đắc làm phương tiện, đối với các uẩn xứ giới và tất cả pháp Phật chẳng khởi tưởng không bất không, không có tất cả phân biệt vọng tưởng chấp trước như thế thì được coi là Bồ Tát không có tướng chấp trước”.

 

Thấy biết mà chấp đắm, động niệm thì làm sao thực hành tịnh giới. Thấy biết nhưng không chấp đắm, không tham ái tức không thủ tâm trước tướng. Không trước thì không cần lìa. Nếu hành được như thế là khế hợp Bát Nhã, nên có thể sanh thật tánh mà hiện pháp thân.

 

Chúng ta tụng tiếp Q.588 cuối cùng phần “Tịnh Giới Ba La Mật”.

 

Quyển thứ 588

 

Phật bảo Xá Lợi Tử:

- Ngươi an trụ diệu trí như vậy, nghĩa là như thật biết Bồ Tát chấp trước tịnh giới là có sự hủy phạm, Bồ Tát không chấp trước tịnh giới tức là không có sự hủy phạm phải không?

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con tin sự tuyên thuyết diệu pháp của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nên khởi trí như vậy, chứ chẳng phải con tự suy nghĩ mà nói được như thế. Theo con hiểu nghĩa Phật nói nếu các Bồ Tát khởi tâm tán thán bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, thì nên biết hủy phạm tịnh giới Bồ Tát. Nếu các Bồ Tát khởi tâm nhàm chán bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, thì cũng hủy phạm tịnh giới Bồ Tát. Vì sao? Vì nếu các Bồ Tát tán thán bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, tức sanh tâm ái nhiễm, chấp trước, không cầu đến Nhất thiết trí trí, thì đối với Bồ Tát giới có sự hủy phạm. Nếu các Bồ Tát nhàm chán bậc Thanh văn, hoặc Độc giác, sanh tâm khinh miệt, tức bị chướng ngại sở cầu Nhất thiết trí trí, thì đối với Bồ Tát giới cũng có sự hủy phạm.

Vì vậy, Bồ Tát đối với nhị thừa không nên tán thán, cũng không nhàm chán. Nếu các Bồ Tát đối với nhị thừa, tâm không cung kính hoặc sanh ái nhiễm, nên biết đều là hành nơi phi xứ. Nếu các Bồ Tát hành nơi phi xứ, nên biết gọi là phạm Bồ Tát giới, cũng gọi là chấp trước tịnh giới, không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Thế nên, Bồ Tát đối với nhị thừa, chỉ nên xa lìa không nên tán thán, cũng không hủy báng. Nếu các Bồ Tát đối với nhị thừa không xa lìa, nhất định không chứng đắc được sở cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát duyên theo cảnh năm dục lạc, khởi tâm thích thú, tuy gọi là tác ý phi lý nhưng không phá hoại quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì tác ý phi lý chỉ rơi vào phiền não. Do phiền não kia làm cho các Bồ Tát thọ sanh ở các nơi. Nếu các chúng Bồ Tát thọ nhiều thân ở các cõi kia thì càng tu học viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên Phật pháp khác. Càng tu học viên mãn các Ba la mật đó và vô lượng vô biên Phật pháp khác thì các Bồ Tát này càng thân cận Nhất thiết trí trí.

 

(Phiền não đối với các Bồ Tát có ân đức lớn).

 

Bạch Thế Tôn! Vì vậy con cho rằng, phiền não đối với các Bồ Tát có ân đức lớn. Nghĩa là tùy thuận theo Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát quán sát phiền não có thể hỗ trợ cho việc dẫn đến Nhất thiết trí trí, thì phiền não có ân đức lớn với chúng Bồ Tát. Các Bồ Tát nên biết, khi đạt đến sự chứng đắc thì mọi việc đều là phương tiện thiện xảo. Như vậy, Bồ Tát phải biết an trụ Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát. Nên biết, các Bồ Tát đối với Bồ Tát giới không có sự hủy phạm, cũng không chấp trước tịnh giới Bồ Tát.

Phật khen ngợi Xá lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Lời ngươi nói rất hay! Có các Bồ Tát đối với tịnh giới có chấp trước, có hủy phạm; có các Bồ Tát đối với tịnh giới không chấp trước, không có hủy phạm. Ngươi là người trình bày rõ thật ngữ, pháp ngữ, là người khéo tùy theo pháp lãnh nhận và thuyết pháp.  

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát an trụ nơi Tịnh giới Ba la mật, suy nghĩ như vầy: Vô lượng hữu tình ở mười phương vô lượng vô biên thế giới, do tăng trưởng oai lực sở trụ Tịnh giới Ba la mật của ta, nên người không tịnh giới đều tịnh giới, người có ác giới đều được xa lìa. Và nhờ sự tăng trưởng oai lực việc học Tịnh giới Ba la mật của ta, nên nhiếp trì các hữu tình đều được lợi ích an lạc thù thắng. Nên biết Đại Bồ Tát này thành tựu phương tiện thiện xảo.

Càng Tịnh giới Ba la mật bao nhiêu, hồi hướng thí cho vô lượng hữu tình ở vô lượng vô biên thế giới thì càng tăng trưởng sở cầu an trụ Tịnh giới Ba la mật bấy nhiêu. Càng tăng trưởng sở cầu an trụ Tịnh giới Ba la mật bấy nhiêu thì càng nhiếp trì được vô lượng Tịnh giới Ba la mật. Càng nhiếp trì được vô lượng Tịnh giới Ba la mật thì càng nhiếp trì vô lượng vô số Phật pháp vi diệu. Do đây mau đắc Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát nào an trụ Tịnh giới Ba la mật, lại nghĩ như vầy: Vô lượng hữu tình ở mười phương trong vô biên thế giới, do tăng trưởng oai lực an trụ Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát, nên người chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề đều phát tâm. Người đã phát tâm Vô thượng Bồ đề đều vĩnh viễn không thối chuyển. Nếu người có tâm hướng đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không thối chuyển, thì mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát này dùng phương tiện thiện xảo duyên với các Bồ Tát hồi hướng bố thí, Tịnh giới Ba la mật. Càng hồi hướng bố thí, Tịnh giới Ba la mật thì càng không xa lìa tâm Nhất thiết trí. Càng không xa lìa tâm Nhất thiết trí thì càng thân cận Nhất thiết trí trí. Đại Bồ Tát này nhờ tăng trưởng oai lực thiện căn này, lại nhiếp trì vô lượng Tịnh giới Ba la mật, làm cho dần dần tăng trưởng rộng lớn. Cũng nhiếp trì vô lượng, vô số Phật pháp vi diệu, khiến dần dần được viên mãn.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát nào an trụ Tịnh giới Ba la mật, rồi đem sự an trụ Tịnh giới Ba la mật của mình cho một Bồ Tát, thì phước đức đạt được hơn hẳn phước đem cho những hữu tình phạm giới ở hằng hà sa số thế giới, giúp họ thọ trì tịnh giới viên mãn.

Nếu đại Bồ Tát an trụ Tịnh giới Ba la mật, rồi đem sự an trụ Tịnh giới Ba la mật của mình, hồi hướng thí cho các hữu tình ở mười phương, giúp họ trụ tịnh giới, xa lìa sự hủy phạm giới, thì đạt được vô lượng vô biên phước đức.

Nếu đại Bồ Tát an trụ Tịnh giới Ba la mật, rồi đem sự an trụ Tịnh giới Ba la mật của mình thí cho một Bồ Tát, thì phước đức đạt được hơn phước của Bồ Tát trên gấp trăm lần, gấp ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần. Vì sao Xá lợi Tử? Vì đại Bồ Tát này đem sự an trụ Tịnh giới Ba la mật của mình thí cho một Bồ Tát, khiến cho vị ấy nhiếp trì Nhất thiết trí trí, giữ gìn Nhất thiết trí trí, thì có thể nhiếp trì, giữ gìn vô lượng hữu tình ở vô lượng vô biên thế giới, khiến được an trụ tịnh giới, xa lìa các sự hủy phạm, như vậy dần dần được nhiều lợi ích.

Ví như ngôi nhà lớn gồm mười gian mà chỉ có một cây cột. Vô lượng chúng sanh sống ở trong đó, họ cùng nhau chơi giỡn, vui đùa hưởng lạc. Có người bạo ác muốn chặt cây cột đó, khi ấy có người tốt bảo kẻ xấu kia: “Trong nhà này có nhiều gia đình, cùng nhau chơi giỡn, vui đùa... Nếu chặt cây này thì nhà sụp đổ, tổn hại vô lượng mạng sống trong đó”.

Như vậy, người tốt vì muốn lợi lạc vô lượng hữu tình đang sống trong đó, ngăn chặn người ác kia, không cho chặt cây. Lúc đó, có một người nam, khen ngợi người tốt: “Lành thay! Lành thay! Nay ông đã đem lại tuổi thọ và sự an lạc cho vô lượng chúng sanh”.

Như vậy, Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, nên dùng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật của Đại thừa và vô lượng vô biên Phật pháp khác dạy dỗ, trao truyền, giúp họ chứng quả vị Vô thượng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nếu dùng công đức thiện căn của Thanh văn và Độc giác thừa dạy dỗ, trao truyền, liền bị cản trở công đức thù thắng của vô lượng vô biên hữu tình cả đến A la hán v.v...

Nếu có Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, nên đem bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật của Đại thừa và vô lượng vô biên Phật pháp khác dạy dỗ, trao truyền, làm cho họ nhiếp trì Nhất thiết trí trí, cũng làm cho giữ gìn Nhất thiết trí trí. Đã làm cho nhiếp trì Nhất thiết trí trí, cùng giữ gìn Nhất thiết trí trí, tức đem công đức thù thắng cho vô lượng vô biên hữu tình, cả đến A la hán v.v…

Như vậy, Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, nên đem bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật của Đại thừa và vô lượng vô biên các Phật pháp khác dạy dỗ, trao truyền, tức là dạy dỗ, trao truyền vô lượng vô biên hữu tình, giúp họ tu hành các diệu hạnh an lạc.

Như vậy, Bồ Tát an trụ Tịnh giới Ba la mật, suy nghĩ như vầy: Nhờ sự an trụ Tịnh giới Ba la mật của ta, nguyện cho các hữu tình đều đầy đủ tịnh giới, xa lìa sự hủy phạm, nguyện đem thiện căn như thế hồi hướng cho tất cả hữu tình đều được chánh niệm. Do chánh niệm nên sanh hỷ lạc. Các hữu tình kia nghe lời nói này rồi, lìa tâm hủy phạm, thọ trì tịnh giới.

Lại có Bồ Tát an trụ Tịnh giới Ba la mật năng khởi một lòng đem tịnh giới đã trụ thí cho một Bồ Tát, đối công đức trước trăm lần hơn, ngàn lần hơn, cho đến muôn ức lần hơn. Như vậy, Bồ Tát càng vì hữu tình đem giới đã trụ hồi thí Bồ Tát, thì Tịnh giới Ba la mật của Bồ Tát này càng thêm tăng trưởng, mau chứng Nhất thiết trí trí. Như vậy, Bồ Tát an trụ Tịnh giới Ba la mật hồi thí hữu tình chỗ được nhóm phước không thể tính đếm.  

Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy, làm sao biết được Bồ Tát tu Đại thừa như thế trải qua bao nhiêu số kiếp mới được xuất ly(1)?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Nên biết, Bồ Tát như vậy phải dùng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật dạy dỗ, trao truyền cho các hữu tình, khiến họ phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tu hành Bồ Tát hạnh không điên đảo, mau chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích lớn cho các hữu tình. Nên biết, Bồ Tát như thế dùng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, vì các hữu tình mà hồi hướng, nguyện đắc Nhất thiết trí trí. Suy nghĩ như vầy: Nguyện cầu sở tu bố thí Ba la mật của ta, hồi hướng thí cho các hữu tình, khiến người tham lam đều biết bố thí. Nguyện cầu sở tu Tịnh giới Ba la mật của ta, hồi hướng thí cho các hữu tình, khiến người phạm giới đều được tịnh giới. Nguyện cầu sở tu an nhẫn Ba la mật của ta, hồi hướng thí cho các hữu tình, khiến người sân hận đều được an nhẫn. Nguyện cầu sở tu tinh tấn Ba la mật của ta, hồi hướng thí cho các hữu tình, khiến người giải đãi đều được tinh tấn. Nguyện cầu sở tu tĩnh lự Ba la mật của ta, hồi hướng thí cho các hữu tình, khiến người loạn tâm đều được định. Nguyện cầu sở tu Bát nhã Ba la mật của ta, hồi hướng thí cho các hữu tình, khiến người ác tuệ đều được diệu tuệ.

Xá lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát như thế đem thiện căn của mình hồi hướng thí cho các hữu tình, phải trải qua bao nhiêu số kiếp tu hành Đại thừa mới được xuất ly?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Bồ Tát như vậy đem thiện căn của mình hồi hướng thí cho các hữu tình, phải trải qua 500 đại kiếp tu hành Đại thừa mới được xuất ly.

(...)Xá lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ Tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật như vậy, phải sanh tâm hoan hỷ. Vì sao? Vì nếu các Bồ Tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật, sanh tâm hoan hỷ, nhất định không xa lìa chư Phật Thế Tôn. Chư Phật Thế Tôn cũng không bỏ vị ấy.

Phật bảo Xá lợi Tử: 

- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Nếu các Bồ Tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật, người ấy liên tục trụ tâm hoan hỷ sâu xa chỉ một ngày, thì biết các Bồ Tát này đã phát khởi tâm Đại thừa từ lâu. Nếu các Bồ Tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật như thế, người ấy liên tục trụ tâm hoan hỷ sâu xa, trải qua hai ngày hoặc trải qua ba ngày, lần lượt cho đến trải qua bảy ngày thì biết các Bồ Tát này đã phát khởi tâm Đại thừa đã lâu, từ xưa.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo như con hiểu nghĩa Phật thuyết thì các Bồ Tát này đã trải qua trăm kiếp, hai trăm kiếp, ba trăm kiếp, lần lượt cho đến bảy trăm kiếp phát tâm Đại thừa. Các Bồ Tát này tu hành Đại thừa, trải qua bảy trăm kiếp nên được xuất ly. Các Bồ Tát này nhờ nhân duyên đây nên công đức thiện căn dần dần được tăng trưởng. Các Bồ Tát này dùng phương tiện thiện xảo nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật như vậy, tuy rất vui mừng nhưng không nhiễm trước. Vì các Bồ Tát này bản tánh thanh tịnh nên nghe thuyết Đại thừa, tâm rất vui mừng, hết lòng.

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói. Ngươi đã nương thần lực của Phật mà thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật. Nếu chúng đại Bồ Tát đủ các hành trạng tướng như trước đã nói, phải biết đã phát tới Đại thừa từ xa xưa. Chúng đại Bồ Tát như thế đối Bồ đề, tâm chẳng quay lui.

Nếu các Bồ Tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật như thế mà không sanh tâm vui mừng, thì nên biết các Bồ Tát này phát tâm Đại thừa chưa lâu. Ta đối với các Bồ Tát mới phát tâm Đại thừa như vậy, cũng vì họ tuyên thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật, khiến họ siêng năng tu học dần dần được chứng đắc Nhất thiết trí trí.

 

(Chư Phật đầy đủ đại bi trí tuệ, an trụ trong tất cả pháp tánh

bình đẳng, đối với các hữu tình đều không xả bỏ). 

 

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều không lìa bỏ Bồ Tát?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Ngươi cho rằng Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chỉ không lìa bỏ các Bồ Tát sao? Ngươi không nên thấy như vậy. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì Như Lai không những không lìa bỏ các Bồ Tát mà cũng không lìa bỏ kể cả tất cả hữu tình. Tất cả Như Lai đều thương xót tất cả hữu tình sâu đậm, thường suy nghĩ phải dùng phương tiện gì để giúp hữu tình kia xa lìa khổ sanh tử để được giải thoát.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Ngươi nên biết, tâm của chư Phật Thế Tôn bình đẳng thuần tịnh, đối với hữu tình, phát khởi an trụ từ bi và ban cho niềm vui, nhổ gốc khổ não. Thương xót tất cả hữu tình một cách bình đẳng, vì muốn họ lìa khổ được vui.

Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, đối chỗ chư Phật trụ tâm riêng khác, đối các Bồ Tát trụ tâm riêng khác hoặc đối các Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu trụ tâm riêng khác hoặc đối các vị trọn nên mười thiện nghiệp đạo trụ tâm riêng khác hoặc đối với bọn hàng thịt, kẻ gánh thây chết v.v… trụ tâm riêng khác, thời các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tâm có sai khác, theo muốn mà hành, chẳng phải Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. 

Nhưng các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác như ở chỗ Phật khởi tâm thuần tịnh an trụ từ bi ban vui cứu khổ, ở chỗ Bồ Tát cũng lại như thế. Như đối Bồ Tát khởi tâm thuần tịnh an trụ từ bi ban vui cứu khổ, ở chỗ Độc giác, A la hán, Bất hoàn, Nhất lai, Dự lưu cũng lại như thế. Như đối tùy pháp hành, tùy tín hành cũng lại như thế. Như Lai đối các người trọn nên mười thiện nghiệp đạo, bọn hàng thịt, kẻ gánh thây chết... thảy cũng lại như thế.  

Do đây nên tâm Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không phân biệt, không tùy ý thích mà hành, cho nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì vậy, chư Phật đầy đủ đại bi, trí tuệ, an trụ trong tất cả pháp tánh bình đẳng, đối với các hữu tình đều không xả bỏ.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Ta hoàn toàn không thấy chư Phật Thế Tôn đối với cảnh sở duyên mà khởi lên một chút ưa thích hay tức giận. Nếu các Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với cảnh sở duyên mà khởi lên ưa thích hay tức giận, điều này thật phi lý. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì chư Phật Thế Tôn đối với sự thương ghét, tất cả phiền não đều đã chấm dứt.

Lại nữa, Xá lợi Tử! Tuy nhiên, chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đối với các Bồ Tát, chắc chắn không bao giờ xả bỏ. Vì sao? Xá lợi Tử! Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập Niết bàn, các Bồ Tát tinh tấn tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, dần dần được viên mãn. Tinh tấn tu học lìa giết hại sanh mạng, lìa lấy chẳng cho, lìa hành dục tà, lìa lời dối gạt, lìa lời thô ác, lìa lời chia rẽ, lìa lời tạp uế, lìa tham dục, lìa giận dữ, lìa nghiệp đạo tà kiến, dần dần viên mãn. Tinh tấn tu học, tất cả các thiện pháp nói chung, các pháp mầu Phật đạo, tư lương Bồ đề Bồ Tát dần dần viên mãn. Đem ánh sáng chánh pháp chiếu khắp thế gian, độ thoát vô lượng hữu tình, xa lìa khổ sanh tử, chứng đắc Niết bàn an lạc.

Chư Phật Thế Tôn quán chiếu nghĩa như vậy, dạy dỗ, trao truyền cho Bồ Tát như thế. Do nhân duyên này nên chắc chắn không bao giờ xả bỏ các Bồ Tát. Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập Niết bàn, các Bồ Tát sẽ chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, tiếp tục đem ánh sáng chánh pháp chiếu khắp thế gian, giúp thế gian tu hành đạt được lợi ích lớn. Cho nên đối với Bồ Tát, chắc chắn không bao giờ xả bỏ.

Xá lợi Tử liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng như vậy. Thật đúng Thánh giáo. Đối với chư Như Lai sau khi Niết bàn, ở mười phương thế giới có đại Bồ Tát chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đem ánh sáng chánh pháp chiếu khắp thế gian. Ví như cây lớn có nhiều lá quả. Sau khi cây lớn khô chết, cây nhỏ tiếp nối phát sanh, cọng, thân, nhánh dần dần cao lớn, bóng mát che rộng một do tuần. Vô lượng chúng sanh dừng nghỉ dưới gốc cây, để tránh gió, mưa, nóng, lạnh v.v…, lại còn bẻ lá hái quả dùng nữa. Những người có trí cùng nhau khen ngợi quả, lá, bóng mát của cây lớn này cũng lợi ích cho hữu tình chẳng khác cây xưa. Chỉ có người ngu không biết đến nương bóng mát này.

Như vậy, Bồ Tát đối với Phật Thế Tôn sau khi Niết bàn, dần dần tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô biên diệu pháp khác của chư Phật, dần dần viên mãn, ở ba ngàn đại thiên thế giới, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, tiếp nối Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trước. Như thật lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình, khiến Phật sự không đoạn tuyệt.

Nghĩa là vì vô biên các hữu tình dùng phương tiện tuyên thuyết mười nghiệp thiện, khiến cho siêng năng tu học các pháp môn, thí, giới, tu v.v... thoát nỗi khổ đường ác, được sanh trong trời, người, hưởng thọ an vui thích thú.

Hoặc vì vô biên các loài hữu tình, dùng phương tiện tuyên thuyết uẩn, xứ, giới v.v... khiến cho họ siêng năng tinh tấn, không thấy có ngã, hữu tình, sinh mạng, sự sống, người nuôi dưỡng, trưởng thành, người, ý sanh, thanh niên, người làm, người nhận, người biết, người thấy; quán sát bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, tu bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo, ba môn giải thoát và thiện pháp khác, chấm dứt các phiền não, được nhập Niết bàn.

Hoặc vì vô biên các loài hữu tình dùng phương tiện tuyên thuyết tánh thường vô thường, tánh vui không vui, ngã vô ngã, tịnh bất tịnh, tịch tĩnh bất tịch tĩnh, viễn ly bất viễn ly của 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, tứ Thánh đế v.v... đều bất khả đắc.

Dùng phương tiện tuyên thuyết vô lượng pháp môn như vậy, khiến cho họ siêng năng tinh tấn. Dùng phương tiện thiện xảo quán sát, xa lìa các pháp hý luận, không điên đảo. Dùng phương tiện tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên Phật pháp khác, chứng đắc Nhất thiết trí trí rốt ráo.                                         

Các loài hữu tình có trí tuệ hiểu biết, nghe pháp như vậy, bèn tinh tấn tu hành, tùy theo sự hiểu biết sẽ được hương vị cam lồ, hoặc tạm thời, hoặc vĩnh viễn được lợi ích an lạc. Chỉ có người ngu si và các ngoại đạo không nghe thọ trì giáo pháp, nên bị chìm đắm và trầm luân trong các nẻo. Chư Phật Thế Tôn quán nghĩa như vậy, hướng đến Bồ Tát dạy dỗ, trao truyền. Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập Niết bàn, các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh dần dần viên mãn, chứng đắc quả vị Vô thượng Bồ đề, đem ánh sáng chánh pháp soi sáng cho các thế gian. Ví như bóng mát của cây to lớn, làm lợi ích an lạc cho vô lượng hữu tình.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu lời Phật dạy, dạy dỗ trao truyền cho hàng Thanh văn thừa hoặc trăm, hoặc ngàn, cho đến vô số đều an trụ quả A la hán, không bằng dùng phương tiện thiện xảo thuyết giảng pháp yếu thâm sâu cho một Bồ Tát. Đó là pháp tương ưng với sáu Ba la mật, làm cho vị ấy nghe rồi khởi niệm nhất tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí. Pháp yếu như vậy đối với giáo pháp trên là tối thắng, là tối cao, là vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì sự phát tâm ấy đối với công đức Thanh văn là tối thắng nhất.

Phật khen Xá lợi Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ngươi nói. Ngươi đúng thật là đệ tử thông minh, sáng suốt của Phật. Nghĩa là khéo dạy dỗ trao truyền sự vô úy cho hàng Bồ Tát thừa, khiến cho họ siêng năng tu hành Bồ Tát hạnh, mau chóng chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, làm lợi ích an lạc lớn cho các hữu tình.

Bấy giờ, Phật dạy A nan đà:

- Ngươi nên thọ trì sự tu Tịnh giới Ba la mật của đại Bồ Tát như Xá lợi Tử đã thuyết, chớ để quên mất.

A nan đà bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời Thế Tôn dạy. Con đã thọ trì Tịnh giới Ba la mật của đại Bồ Tát như Ngài Xá lợi Tử đã thuyết, chắc chắn không để quên mất, làm cho các Bồ Tát chưa phát tâm Vô thượng Bồ đề mau chóng phát tâm. Vị nào đã phát tâm Vô thượng Bồ đề vĩnh viễn không thối chuyển. Nếu đối với quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề đã không thối chuyển, thì giúp cho mau chóng viên mãn Nhất thiết trí trí.

Khi đức Bạc già phạm thuyết Kinh này rồi, cụ thọ Xá lợi Tử, cụ thọ Mãn Từ Tử, cụ thọ A nan đà và các Thanh văn, Bồ Tát khác cùng tất cả trời, rồng, Dược xoa, người chẳng phải người v.v... nghe lời Phật thuyết đều hớn hở vui mừng, tín thọ phụng hành.

Thích nghĩa cho Q.588:

(1).  Xuất ly: Có nghĩa là ra khỏi. Ra khỏi căn nhà lửa, tức xa lìa được dục vọng và tham ái. Nếu xa lìa được dục vọng và tham ái, là thoát khỏi phiền não hay nói khác là giải thoát sanh tử hay chứng Niết bàn.

Tự điển Phật học Việt Anh của Thiện Phúc có đề cập đến sáu xuất ly giới trong Kinh Phúng Tụng thuộc Trường Bộ Kinh là: 1- Tu Tập Từ Tâm Giải Thoát: Ở đây vị Tỳ Kheo nói như sau: “Ta đã tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm cho thành cỗ xe, làm thành căn cứ an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần. Tuy vậy sân tâm vẫn ngự trị tâm ta”. 2- Tu Tập Bi Tâm Giải Thoát: Ở đây vị Tỳ Kheo nói như sau: “Ta đã tu tập tâm bi giải thoát, tuy vậy hại tâm vẫn ngự trị tâm ta”. 3- Tu Tập Hỷ Tâm Giải Thoát: Ở đây vị Tỳ Kheo nói như sau: “Ta đã tu tập hỷ tâm giải thoát, tuy vậy bất lạc tâm vẫn ngự trị tâm ta”. 4- Tu Tập Xả Tâm Giải Thoát: Ở đây vị Tỳ Kheo nói “Ta đã tu tập xả tâm giải thoát, tuy vậy tham tâm vẫn ngự trị tâm ta”. 5- Tu Tập Vô Tướng Tâm Giải Thoát: Ở đây vị Tỳ Kheo nói “Ta đã tu tập vô tướng tâm giải thoát, tuy vậy tâm ta vẫn chạy theo các tướng”. 6- Tu Tập Khước Từ Sự Ngạo Mạn “tôi có mặt,” mà mũi tên do dự nghi ngờ được giải thoát: Ở đây vị Tỳ Kheo nói “Quan điểm 'tôi có mặt', 'tôi bị từ khước', 'tôi là cái nầy', không được tôi chấp nhận, tuy vậy mũi tên nghi ngờ do dự vẫn ám ảnh an trú trong tôi”. Vị ấy cần phải được khuyên bảo như sau: “Chớ có như vậy, chớ nói như vậy, Đại Đức! Chớ có hiểu lầm Thế Tôn, vu khống Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy”. Những lời nói của vị nầy là vô căn cứ và không thể nào như vậy được. Ai tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, thì các tâm trên (sân tâm, hại tâm, bất lạc tâm, tham tâm, tâm theo tướng, tâm do dự nghi ngờ) không thể nào ngự trị và an trú nơi kẻ ấy được.

 

Lược giải:

 

1. Phiền não đối với các Bồ Tát có ân đức lớn.

 

Bồ Tát đối với nhị thừa không nên tán thán, cũng không nhàm chán. Nếu các Bồ Tát đối với nhị thừa, tâm không cung kính hoặc sanh ái nhiễm, nên biết đều là hành nơi phi xứ. Nếu các Bồ Tát hành nơi phi xứ, nên nói là phạm Bồ Tát giới, cũng gọi là chấp trước tịnh giới, không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Thế nên, Bồ Tát đối với nhị thừa, không nên tán thán, cũng không nên hủy báng.

Nếu các Bồ Tát duyên theo năm cảnh dục lạc, khởi tâm thích thú, tuy gọi là tác ý phi lý nhưng không phá hoại quả vị Vô Thượng Bồ đề. Vì tác ý phi lý chỉ rơi vào phiền não. Do phiền não kia làm cho các Bồ Tát thọ sanh các cõi. Nhưng nếu các Bồ Tát dần dần tu học viên mãn bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên Phật pháp khác thì cũng có thể tiến gần đến Nhất thiết trí trí.

Vì vậy, “phiền não đối với các Bồ Tát có ân đức lớn. Nhưng phải tùy thuận Nhất thiết trí trí. Nếu các Bồ Tát quán phiền não có thể hỗ trợ cho việc dẫn đến Nhất thiết trí trí, thì phiền não có ân đức lớn đối với Bồ Tát. Các Bồ Tát nên biết, khi đạt đến chứng đắc thì mọi phương tiện đều là cứu cánh, nên gọi là thiện xảo”. Như vậy, các Bồ Tát đối với Bồ Tát giới không có sự hủy phạm, cũng không chấp trước tịnh giới Bồ Tát.

Quan niệm của Bát Nhã ở đây là phiền não không phải là trở ngại lớn như người ta thường nói “có phiền não không có Bồ đề (giác ngộ), hay ngược lại”. Nhưng chính phiền não là lò luyện kim, có lửa mới luyện được vàng, có vượt qua muôn vàn khổ lụy thì công hạnh mới được tròn đầy, mới được viên mãn. Nên Kinh nói phiền não đối với các Bồ Tát có ân đức lớn là vậy. Nếu hiểu như thế thì phiền não không còn là một trở ngại trong việc tầm cầu giác ngộ, trái lại phiền não là phương tiện hỗ trợ để tiến đến giác ngộ. Nên cổ đức nói “phiền não tức Bồ đề”. Nhờ có phiền não, nên tu để thoát phiền não, tu dứt phiền não thì giác ngộ, nên nói phiền não tức Bồ đề.

Lại nữa: “Nếu đại Bồ Tát an trụ Tịnh giới Ba la mật, rồi đem sự an trụ tịnh giới của mình, hồi hướng thí cho các hữu tình ở mười phương, giúp họ trụ tịnh giới, xa lìa sự hủy phạm giới cấm, thì đạt được vô lượng vô biên phước đức. Nếu đại Bồ Tát an trụ Tịnh giới Ba la mật, rồi đem sự an trụ tịnh giới của mình thí cho một Bồ Tát, thì phước đức đạt được hơn phước của Bồ Tát trên gấp trăm ngàn lần, cho đến gấp muôn ức lần. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đem sự an trụ Tịnh giới Ba la mật của mình thí cho một Bồ Tát, khiến cho vị ấy nhiếp trì, giữ gìn Nhất thiết trí trí, thì có thể nhiếp trì, giữ gìn vô lượng hữu tình ở vô lượng vô biên thế giới, khiến được an trụ tịnh giới, xa lìa các sự hủy phạm, như vậy dần dần được nhiều lợi ích”.

Bồ Tát dùng thiện căn tu hành lục Ba la mật hồi hướng thí cho các hữu tình nhưng phải trải qua 500 đại kiếp tu hành Đại thừa mới được xuất ly, có nghĩa là mới được giải thoát khỏi san tham, phạm giới, sân hận, giải đãi, loạn tâm, ác tuệ v.v...

Nếu các Bồ Tát nghe thuyết giáo pháp tương ưng với Ba la mật như vậy, sanh tâm hoan hỷ, nhất định không xa lìa chư Phật Thế Tôn. Chư Phật Thế Tôn cũng không bỏ vị ấy.

 

2. Chư Phật đầy đủ đại bi trí tuệ, an trụ trong tất cả pháp tánh

bình đẳng, đối với các hữu tình đều không xả bỏ.

 

 Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đều thương xót, không bỏ tất cả hữu tình, thường suy nghĩ phải dùng phương tiện gì để giúp hữu tình xa lìa khổ sanh tử, mau được giải thoát.

Nếu đối với Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn hay đối với bậc tùy pháp hành, tùy tín hành, hoặc đối các vị trọn nên mười thiện nghiệp đạo, hoặc đối bọn hàng thịt, kẻ gánh thây chết v.v… trụ tâm riêng khác, thời tâm Như Lai có sai khác, theo tham ái mà hành, thì chẳng phải là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nhưng các Như Lai như ở chỗ Bồ Tát khởi tâm thuần tịnh an trụ từ bi ban vui cứu khổ. Ở chỗ Độc giác, Thanh văn, bậc tùy pháp hành, tùy tín hành cho đến bọn giết heo, gánh thây chết v.v… cũng khởi tâm an trụ như thế. Do đây, nên tâm Như Lai không phân biệt, không tùy sở thích mà hành, cho nên gọi là Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì vậy, chư Phật đầy đủ đại bi trí tuệ, an trụ trong tất cả pháp tánh bình đẳng, đối với các hữu tình đều không xả bỏ.

Chư Phật Thế Tôn đối với cảnh sở duyên mà khởi lên một chút ưa thích hay giận hờn, đó là điều phi lý. Vì sao? Vì chư Phật Thế Tôn đối với thương ghét, tất cả phiền não đều đã dứt trừ.

Còn đối với các Bồ Tát, chư Phật chắc chắn không bao giờ xả bỏ. Vì sao? Vì sau khi chư Như Lai nhập Niết bàn, các Bồ Tát tinh tấn tu hành tất cả pháp mầu Phật đạo sẽ chứng đắc Vô Thượng Bồ đề, tiếp nối sự nghiệp Như Lai, đem ánh sáng chánh pháp chiếu khắp thế gian, an lạc cho vô lượng hữu tình, khiến Phật sự không đoạn tuyệt. Nghĩa là vì vô biên các loài hữu tình dùng phương tiện tuyên thuyết tánh của ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, tứ Thánh đế v.v… thường vô thường, lạc phi lạc, ngã vô ngã, tịnh bất tịnh, viễn ly bất viễn ly, tịch tĩnh bất tịch tĩnh… đều bất khả đắc.

“Dùng phương tiện tuyên thuyết vô lượng pháp môn như vậy, khiến cho họ siêng năng tinh tấn. Dùng phương tiện thiện xảo quán sát, xa lìa các pháp hý luận. Dùng phương tiện tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô lượng vô biên Phật pháp khác, chứng đắc Nhất thiết trí trí rốt ráo.

Các loài hữu tình có trí tuệ hiểu biết, nghe pháp như vậy, bèn tinh tấn tu hành, tùy theo sự hiểu biết sẽ được hương vị cam lồ, hoặc tạm thời, hoặc vĩnh viễn được lợi ích an lạc. Chỉ có người ngu si và các ngoại đạo không chịu nghe, không thọ trì, nên bị chìm đắm và trầm luân trong các nẻo. Chư Phật Thế Tôn quán nghĩa như vậy, hướng đến Bồ Tát dạy dỗ, trao truyền. Vì sau khi chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác nhập Niết bàn, các Bồ Tát tu Bồ Tát hạnh dần dần viên mãn, nối tiếp chư Phật, chứng đắc Vô Thượng Bồ đề, đem ánh sáng chánh pháp soi sáng cho thế gian”.

 Xá lợi Tử bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu lời Phật dạy, dạy dỗ trao truyền cho hàng Thanh văn thừa hoặc trăm, hoặc ngàn, cho đến vô số đều an trụ quả A la hán, không bằng dùng phương tiện thiện xảo thuyết giảng pháp yếu thâm sâu cho một Bồ Tát. Đó là pháp tương ưng với sáu Ba la mật, làm cho vị ấy nghe rồi khởi niệm nhất tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí. Pháp yếu như vậy đối với giáo pháp trên là tối thắng, là tối cao, vi diệu, là thượng, là vô thượng. Vì sự phát tâm ấy đối với công đức Thanh văn là tối thắng nhất”.

Phật khen Xá Lợi Tử, rồi quay sang bảo Ngài A Nan: “Ngươi nên thọ trì Tịnh giới Ba la mật của đại Bồ Tát như Xá lợi Tử đã thuyết, chớ để quên mất”.

 

Kết luận:

 

Cũng như phần tu hành bố thí Ba la mật, muốn được gọi là Tịnh giới Ba la mật thì trước hết hành giả Bát Nhã phải giữ giới, trên cầu Vô thượng giác ngộ, dưới hóa độ chúng sanh với tâm vô phân biệt, tâm không chấp trước và luôn luôn hướng đến Nhất thiết trí trí. Không mong cầu, tham ái, cũng không tán thán hay xa lìa đối với hàng Nhị thừa. Theo chân chư Phật, tu từ bi hỷ xả, tu phước đức trí tuệ... an trụ trong pháp tánh bình đẳng đối với các hữu tình không kể giàu nghèo, sang hèn, ngu si hay trí tuệ v.v…

 Nói một cách giản dị: Muốn chứng quả thì tam nghiệp (thân khẩu ý) phải thanh tịnh, tam nghiệp thanh tịnh thì lên được cõi Thiên. Muốn được như thế thì phải tịnh giới. Giữ giới tuyệt đối, không vi phạm thì được gọi là Thánh. Thánh nhân tu lục độ vạn hạnh thì thành Phật, thành Bồ Tát. Phẩm “Niệm Trụ Đẳng”, phần sau quyển 568, Hội thứ VI, ĐBN. Phật nhắn nhủ Thắng Thiên Vương như sau:

“Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật tu tập hạnh Không, diệt pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng có, không có hai loại sai khác về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn gọi vô tướng, suy nghĩ như thế thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy thân không thấy tâm cũng không thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ lớp. Quán như vậy gọi là như thật thấy pháp. Chỉ là nhất tâm bất loạn. Bồ Tát tu quán hạnh như thế rồi liền được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh tịnh của Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật”.

Nhớ câu nói này của Phật: “Trước hết là phải tu tập chỉ quán để được tịnh giới. Giới thanh tịnh thì hạnh cũng thanh tịnh”. Phật cũng bảo: “Tu một pháp thì biết tất cả pháp. Pháp đó là Bát Nhã Ba la mật. Tu một hạnh được tất cả hạnh, thì thác cũng có thể sanh về cõi Phật”. Ở đây chỉ cần tu hai pháp mà kết quả không thể ngờ huống hồ tu hết lục độ vạn hạnh?

 

--o0o-- 

 

Cũng giống như phần “Đàn Ba La Mật”, thay lời kết luận, chúng tôi trích dẫn từng đoạn của phẩm thứ nhất, “Thi La Ba La Mật”, tập 1, quyển 13 và 14, Đại Trí Độ Luận, để Quý vị có thể hiểu lối giải thích của bậc thật tu thật chứng về pháp môn thắng diệu này.

Sau đây là các điều cần nêu ra đối với Thi La Ba La Mật, thuộc lãnh vực luân lý, đạo đức hay tôn giáo của Đại Trí Độ Luận:

 

A. Nghĩa Giới Tướng

 

Thực hành chân chính các việc làm thiện, chẳng tự buông lung gọi là Thi La.

Có thọ giới mà hành thiện, hoặc không thọ giới mà hành thiện cũng đều gọi là Thi La.

Nếu chỉ lược nói thì hành Thi La là hành 8 luật nghi về thân, khẩu và ý. Đó là: 1- Không não hại chúng sinh, 2- Không trộm cướp, 3- Không tà dâm, 4- Không vọng ngữ, 5- Không ỷ ngữ, 6- Không lưỡng thiệt, 7- Không ác khẩu và 8- Không uống rượu,

Tóm lại “giữ chính mạng thanh tịnh” gọi là giữ giới; trái lại, nếu không hộ trì các luật nghi nêu trên đây, mà buông lung phóng túng thì gọi là phá giới.

 

B. Tán thán nghĩa Giới Tướng

 

Người phá giới sẽ bị đọa vào 3 đường ác.

Người trì giới bậc hạ sẽ sinh làm người, người trì giới bậc trung sẽ sinh lên cõi Trời Lục Dục Thiên, người trì giới bậc thượng tu 4 Thiền, 4 Không (tứ Vô sắc định) sẽ sinh lên cõi Trời Sắc Giới và Vô Sắc Giới.

 Thường thanh tịnh trì giới được chia ra làm 3 hạng. Đó là:

- Hạng thanh tịnh trì giới bậc hạ được quả A La Hán.

- Hạng thanh tịnh trì giới bậc trung được quả Bích Chi Phật.

- Hạng thanh tịnh trì giới bậc thượng được Phật Đạo.

Nếu vì thương xót chúng sinh mà cứu độ họ, lại vì rõ biết Thật Giới Tướng, thì tâm chẳng còn chấp. Trì giới như vậy thì đời sau sẽ vào được Phật Đạo, gọi là được “Vô Thượng Phật Đạo Giới”.

Muốn cầu phước đức lớn, thì phải nên kiên tâm trì giới, quý trọng giới như các vật báu, như quý “thần hộ mạng” của thân mình. Vì sao ? Vì giới là nơi an trú của hết thảy các thiện pháp, ví như đất là nơi an trú của muôn loài sống trên quả đất này vậy.

Người mong cầu được nghiệp quả báo tốt mà chẳng muốn giữ giới, thì chẳng sao được như nguyện. Ví như người không có chân mà muốn đi, chim không có cánh mà muốn bay, người muốn vượt biển mà không có thuyền... đều không thể được vậy.

Người phá giới, tuy hãm mình tu khổ hạnh ở chốn núi non, rừng rậm, chỉ ăn trái cây, mặc áo lá... cũng như loài cầm thú không khác. Nếu tu khổ hạnh xa lìa các việc thế gian... mà chẳng có trì giới thì cũng chẳng được công đức gì.

Trái lại, người ở nhà cao vườn rộng, ăn ngon mặc đẹp mà thường trì giới thanh tịnh thì được tăng trưởng đạo tâm, được thành đạo quả.

Người sang kẻ hèn, người lớn kẻ nhỏ, người giàu kẻ nghèo, nếu thường trì giới đều được phước đức lớn, như được sinh lên cõi Trời, được vào Phật Đạo.

Người phá giới ví như nước trong mà có nhiễm độc, như hoa quả tốt tươi mà có côn trùng đục khoét.

Người tuy nghèo khổ mà thường trì giới, đáng quý trọng hơn người giàu sang mà phá giới.

Giới hương biến khắp 10 phương. Người trì giới được an lạc, được hàng Trời, Người đều tôn kính. Người trì giới thanh tịnh thường được thân tâm an lạc, tâm không sợ hãi, đến khi lâm chung vẫn được an nhiên tự tại.

 

--o0o--

 

Người trì giới thanh tịnh, dù thường hành bố thí tài vật của mình mà chẳng mảy may luyến tiếc, dù chẳng ham lợi dưỡng thế gian, nhưng vẫn chẳng có thiếu thốn gì, lại vào được 3 Thừa Đạo, sẽ được giải thoát. Người tuy không xuất gia, nhưng thường trì giới cũng sẽ được sinh lên cõi Trời. Người trì giới thanh tịnh, có thiền định, có trí huệ, muốn được thoát khỏi “Sinh, Già, Bệnh, Chết” cũng sẽ được như nguyện. Người trì giới thanh tịnh không bị các bệnh thời khí, không bị các ác nạn. Nên trì giới với tâm không thối chuyển, đến chết cũng chẳng ly thì sẽ được 7 báu trang nghiêm.

Bởi nhân duyên vậy, nên phải thường hộ trì giới luật như giữ gìn các vật quý vậy.

Hỏi: Thế nào gọi là “Người phá giới”?

Đáp: Người phá giới là người làm tội lỗi, khiến mất hết các công đức. Người phá giới thường làm các điều ác, tâm thường nghi hối. Ví như cây khô chẳng đâm chồi nảy lộc, chẳng đơm hoa kết trái, bị người làm vườn vứt bỏ, người phá giới chẳng làm việc thiện, chẳng làm lợi lạc cho người, chẳng được người ưa mến, bị mọi người ruồng bỏ. Người phá giới ví như giặc cướp, như người mắc bệnh truyền nhiễm, như kẻ ác tặc, như loài hổ lang, như hầm lửa chẳng ai muốn gần gũi. Người phá giới, ở trong chúng tinh tấn thanh tịnh trì giới, cũng ví như con ngựa chứng giữa bầy ngựa thuần thục, hiền hòa.

Người phá giới dù mặc y hậu Tỳ Kheo, cũng ví như một thây chết, như viên ngọc giả ở cạnh các viên ngọc thật, như cây y-lan mọc trong rừng Chiên Đàn, tuy cạo đầu đắp y, bên ngoài giống người thiện mà bên trong chẳng có thiện pháp, tuy ôm bình bát đi khất thực, cũng ví như đang nuốt hòn sắt nóng, tuy thọ sự cúng dường của tín đồ mà cũng ví như đang ở trong địa ngục.

Người phá giới thường hay sợ hãi, ví như người đang bị bệnh nặng sợ chết, như người phạm “5 tội nghịch” thường nghĩ mình là giặc trong Phật giáo, suốt năm tháng chẳng bao giờ được an lạc, tuy hưởng sự cúng dường mà vẫn nghĩ là mình thọ đồ bất tịnh.

Phá giới tạo bao nhiêu thứ tội lỗi, chẳng sao kể xiết được.

Bởi nhân duyên vậy, nên phải nhất tâm tinh tấn trì tịnh giới.

Hỏi: Thế nào gọi là giới tướng?

Đáp: Không làm các điều ác gọi là “Giới Tướng”. Diệt sạch các nghiệp ác ở  thân, khẩu, ý gọi là “Giới Tướng”.

Hỏi: Thế nào là ác tướng?

Đáp: Biết hết thảy chúng sinh đều tham sống, sợ chết mà cứ muốn sát hại chúng sinh, muốn đoạt sinh mạng của kẻ khác gọi là ác tướng. Còn bao nhiêu nghiệp ác khác, như giam cầm, đánh đập, tra tấn, v.v. đều gọi là ác tướng cả.

Hỏi: Sát sinh là phạm tội, còn tự sát có phải là tội không?

Đáp: Sát kẻ khác là vì ác tâm. Còn tự sát là vì nhàm chán. Trường hợp “Ngộ sát” chưa hẳn là phạm tội sát, vì do sơ sẩy mà sát, chẳng phải là cố ý sát. Quyết tâm sát sinh mới thật là phạm tội sát.

Tuy nhiên dùng lời nói để xúi giục hay ra lệnh người khác sát, cũng là phạm tội sát. Vì sao? Vì tội ác phát xuất từ tâm cũng là ác tướng vậy.

Người thọ giới “không sát sinh” phải tâm niệm, miệng nói “Từ nay cho đến trọn đời tôi không sát”. Nếu miệng nói “Không sát” mà tâm vẫn còn khởi niệm sát là chưa giữ trọn lời thệ nguyện. Nếu trọn đời miệng nói “không sát” và tâm cũng chẳng sinh niệm sát, thì mới gọi là đầy đủ giới “Không sát sinh”.

Giới không sát sinh có thể hoặc thiện hoặc vô ký.

Hỏi: Trong A Tỳ Đàm có nói “hết thảy các luật nghi đều thiện”. Sao nay nói là vô ký?

Đáp: Giữ giới “Không sát sinh” được vô lượng thiện công đức. Cho nên, dù có làm phước hay không làm phước thì phước đức vẫn thường sinh.

Nay nói “Giới không sát sinh có thể là vô ký” là nói về trường hợp “Không thọ giới không sát sinh” mà tự nguyện hành giới ấy. Trường hợp này chỉ có phước đức hạn lượng, nên không có được vô lượng thiện công đức vì trường hợp “Không sát sinh” này không được rốt ráo, nên gọi là vô ký.

Hỏi: Giới không sát sinh nhiếp về cảnh giới nào trong 3 cõi?

Đáp: A Tỳ Đàm nói “Hết thảy các luật nghi đều nhiếp về cõi Dục”, thế nhưng thật sự nhiếp về cả 3 cõi: Dục, Sắc và Vô Sắc.

Sở dĩ A Tỳ Đàm nói như vậy vì ở cõi Dục mới có sát, còn ở các cõi Sắc và Vô Sắc không có giới “Không sát”, vì ở các cõi này là vô lậu, mà vô lậu là “chân đức pháp giới” rồi vậy.

Lại có người không thọ giới “không sát sinh”, mà tâm tự nguyện chẳng bao giờ sát sinh cả, nên mới nêu ra trường hợp “Giới không sát sinh vô ký” như đã nói trên đây.

Nên biết, các đệ tử của ngài Ma Ha Ca Chiên Diên có nêu trong bộ A Tỳ Đàm rằng: “Không sát sinh là tùy thân nghiệp và khẩu nghiệp, lại còn tùy tâm hành ở hiện tại, chẳng phải do nghiệp đời trước. Cho nên phải tu cả thân lẫn tâm mới chứng được Đạo. Ví như phải chứng Tu Duy Đạo, phải đoạn hết 5 dục phiền não rồi mới chứng Kiến Đạo Đoạn, hoặc phải quán pháp Hữu Báo, pháp Hữu Quả, pháp Hữu Lậu, pháp Hữu Vi v.v… Hết thảy các duyên pháp như vậy đều phân biệt rõ ràng, gọi chung là “Giới không sát”

Hỏi: Trong 8 Thánh Đạo cũng có nói đến giới không sát sinh, nhưng chẳng có nói đến Hữu Báo, Hữu Quả, Hữu Lậu, Hữu Vi. Nay vì sao lại nói đến các pháp ấy?

Đáp: Đây chỉ nói đến trường hợp “Thọ luật nghi giới” mà không nói đến “Vô lậu luật nghi”.

Lại nữa, A Tỳ Đàm nói “Giới không sát là tùy theo tâm hành, chẳng phải do nghiệp thân, nghiệp khẩu đời trước, dù là hữu báo hoặc vô báo, hữu lậu hoặc vô lậu”.

Lại nữa, chư Phật và chư Hiền Thánh vì thấy chúng sinh chấp Ngã, nên dạy rằng: “Chẳng nên vì thân mạng mình mà sát thân mạng của chúng sinh”, việc thiết lập luật nghi nhằm răn dạy chúng sinh nên mới nói “Giới không sát sinh là hữu báo, hữu lậu”.

Hỏi: Ở thế gian, người này thường dùng sức mạnh để thắng người khác. Ví như nước này dấy binh đánh nước khác. Trường hợp thợ săn giết thú rừng, người dân chài đánh bắt cá... cũng lại là kẻ mạnh uy hiếp kẻ yếu. Như vậy, nếu không sát sinh thì những người này làm sao xây dựng được sự nghiệp?

Đáp: Người không sát sinh được vô úy an lạc, không sợ hãi. Vì sao? Vì không sát hại người, thì người cũng không sát hại ta, do vậy mà không sợ hãi. Người trì giới “Không sát sinh”, dù có đi đến những nơi hoang vắng tối tăm cũng không sợ hãi. Do thân tâm thường an lạc, nên người không sát sinh cũng không gieo sự sợ hãi cho kẻ khác, dẫn đến súc vật cũng thường đến thân cận. Người không sát sinh ít bị các hoạn nạn, lại còn được rất nhiều lợi ích khác nữa. Người gây nhiều tội sát, dù có được giàu sang phú quý, dù có làm vua, làm chúa... cũng chẳng được an ổn lương tâm thường cắn rứt. Người phạm tội sát thường bị nhiều điều đau khổ ở thân, thường bị người khác chê bai khinh bỉ, thường sợ hãi. Sau khi chết, nếu còn được tái sinh làm người cũng thường bị chết yểu.

Bởi nhân duyên vậy, nên người thiện chẳng nên sát sinh, chẳng nên cướp đoạt mạng sống của chúng sinh.

Nên biết “Sát sinh là trọng tội”, bị quả báo ngay ở đời này và cả ở đời sau. Vì sao ? Vì hết thảy chúng sinh đều quý mạng sống. Ví như người bị tai nạn hiểm nghèo chẳng tiếc gì của cải, chỉ mong được cứu sống, như người vào biển lượm ngọc quý, rủi bị tàu chìm sẵn sàng vứt bỏ hết để tìm đường thoát thân.

Khi được thoát chết, rất đỗi vui mừng, chẳng còn nghĩ đến mất của.

Trong tất cả các vật báu, thì mạng sống là quý hơn hết. Người tu muốn được phước đức, mà chẳng tu giới “Không sát” thì chẳng có ích gì cả. Vì sao? Người ở thế gian thường vì tiền tài, danh vọng v.v… mà lao mình vào tội sát, lại vì muốn nuôi dưỡng thân mạng mình, mà giết hại chúng sinh. Bởi vậy nên người tu phải thường giữ giới “Không sát sinh”, quý mạng sống của hết thảy chúng sinh.

Phật dạy: “Có 5 giới quý. Đó là: Không sát sinh - không trộm cắp - không tà dâm - không vọng ngữ - không uống rượu”.

Giữ được 5 giới đó thì không bị nạn nước, nạn lửa, nạn đao binh, tránh được hết thảy các ác nạn.

Phật dạy ông Ưu Bà Tắc Nan Đề Ca rằng: Sát sinh có 10 tội là: 1- Tâm thường ác độc, 2- Bị chúng sinh oán ghét, 3- Thường tư duy về các việc ác, 4- Bị chúng sinh xem như loài rắn độc, 5- Khi ngủ thường sinh tâm sợ hãi, 6- Thường thấy điềm dữ trong mộng, 7- Khi gần chết sợ chết và sẽ chết khổ đau, 8- Thường bị chết yểu, 9- Khi chết bị đọa vào địa ngục và 10- Nếu được tái sinh làm người, thì cũng bị chết yểu.

Người tu hành phải thường nghĩ, thường niệm rằng: “Côn trùng dù nhỏ bé cũng tiếc mạng sống. Cớ sao ta nỡ giết hại chúng sinh, ăn thịt chúng sinh? Hết thảy người trí muốn thành tựu đầy đủ trí lực, phải thường nguyện độ sinh, phải thường hành từ bi, phải thường hành “Giới không sát sinh”. Người tu hạnh Bồ Tát chẳng bao giờ phạm tội sát.

Phật dạy: “Vì lòng từ bi đối với hết thảy chúng sinh, chẳng bao giờ sát hại chúng sinh cả”.

Hỏi: Nếu bị người đến bức bách, thì mình phải làm sao để tự vệ?

Đáp: Hãy suy nghĩ cân nhắc xem bên nào khinh, bên nào trọng. Hãy tự hỏi “Giữ trọn vẹn giới là trọng, hay bảo toàn thân mạng là trọng?” Sau khi tư duy như vậy rồi, nếu thấy “Giữ trọn vẹn giới là trọng, bảo toàn thân mạng là khinh”, thì hãy nghĩ rằng “thân này sẽ già, sẽ chết, nếu do trì giới mà mất thân này thì được lợi ích lớn”. Lại hãy suy nghĩ rằng: “Từ vô lượng kiếp đến nay, biết đâu ta đã giết bao nhiêu người và vật, ta đã làm bao nhiêu việc ác. Vậy nay ta phải trì tịnh giới, chẳng nên tiếc thân mạng. Xả thân mạng để giữ giới là tốt hơn hết”.

Trong kinh có chép mẩu chuyện sau đây: Có một vị đã chứng quả Tu Đà Hoàn. Sau khi chết, vị ấy tái sinh vào nhà một nhà đồ tể. Cha mẹ bảo làm nghề của gia đình, vị ấy từ chối vì sợ sát sinh. Người cha nổi giận vung dao quát: “Nếu con chẳng chịu giết con dê này thì con chẳng còn được sống nữa”.

Vị ấy suy nghĩ: “Nếu ta vâng lời cha mà giết con dê, ta sẽ mang tội sát”. Nghĩ như vậy rồi, vị ấy bèn cầm dao tự sát. Khi tự sát xong, vị ấy liền được sinh lên cõi Trời.

Đây là trường hợp không tiếc thân mạng để hộ trì tịnh giới.

 

--o0o--

 

Hỏi: Vật của người không cho mình, mà mình lấy gọi là “đạo”. Còn biết vật của người, mà sinh tâm muốn lấy thì sao?

Đáp: Lấy vật của người đem làm của mình là “đạo” tức là lấy trộm.

Biết vật của người mà sinh tâm muốn lấy, hoặc đã đưa tay lấy mà chưa lấy được, tuy chưa phải là “đạo” nhưng cũng đã là “tựa như đạo” tuy chưa hẳn là trộm mà cũng phạm tội như trộm vậy.

Tài vật được chia ra làm 2 loại. Đó là:

- Tài vật có chủ, nghĩa là thuộc quyền sở hữu của người khác, của đoàn thể, của xóm làng, của quốc gia...

- Tài vật chẳng thuộc về ai cả, ví như ở giữa đồng hoang vắng.

Thấy vật giữa đồng hoang vắng cũng phải tìm hiểu vật ấy có chủ hay không cỏ chủ, chớ nên lấy mà phạm tội “tựa như đạo” như nói trên.

Bởi nhân duyên vậy, nên trong bộ Tỳ Ni có dạy : “Vật chẳng phải của ta, chẳng bao giờ nên lấy. Như vậy mới chẳng có tội trộm”.

 

Hỏi: Vì nhân duyên gì mà “không nên lấy trộm”?

Đáp: Nên phân biệt rõ thân mạng gồm có 2 phần. Đó là: Nội thân và Ngoại thân

Cướp đoạt tài vật của một người là cướp đoạt “ngoại thân” của họ. Vì sao? Mạng sống của một người tùy thuộc vào các thức ăn uống, áo quần, nhà cửa cùng tất cả các vật dụng khác, cần thiết trong sinh hoạt vật chất và tinh thần. Nếu cướp đoạt các tài vật của một người là cướp đoạt “ngoại thân” gián tiếp cướp đoạt sự sống của người ấy vậy.

Tài vật của người khác không cho mà mình lấy, dù lấy lén, dù uy hiếp để cướp đoạt cũng đều là “đạo”, đều là tội nặng cả. Vì sao? Như đã nói ở trên đây, hết thảy mọi người đều dùng của cải để tự nuôi sống. Nay lấy tài vật của họ là đoạt mất một phần mạng sống của họ, như vậy là bất tịnh.

Vì sao? Vì do ta chẳng có ý chí để tự thắng mình, do ta sợ bị thiếu thốn, do ta sợ chết… mới đi lấy trộm của người khác. Cho nên trộm cướp là tội nặng.

Hỏi: Sát hại mạng người là trọng tội. Nói như vậy là hợp lý. Nhưng vì sao “Lấy của người” cũng gọi là trọng tội? Người đời thường tán thán “mạnh được, yếu thua”. Như vậy vì sao lại nói cướp đoạt của người gọi là trọng tội?

Đáp: Không cho mà lấy gọi là lấy trộm, là tướng bất thiện vậy.

Vật chiếm đoạt của người, dù đẹp đẽ cao sang, cũng chỉ ví như thức ăn ngon bị nhiễm độc.

Người ngu, do không biết tội phước trong 3 đời, lại vì không có lòng nhân từ, nên mới dùng sức mạnh cưỡng đoạt tài sản của người khác, cho là “mạnh được, yếu thua” là lẽ sống ở đời.

Chư Phật và chư Hiền Thánh, vì thương xót hết thảy chúng sinh, lại rõ biết tội phước trong 3 đời, nên dạy rằng “cướp đoạt là bất thiện, là tội lỗi”.

Như Phật dạy “Của người nếu không cho mà lấy” có 10 tội, là: 1- Khiến cho người mất của nổi sân hận, 2- Gieo sự nghi kỵ nơi mọi người, 3- Không kiểm soát được hành động của mình, khiến có thể dẫn đến những hậu quả tai hại, thảm khốc chẳng lường được, 4- Khiến bạn bè phải xa lìa, 5- Phá mất thiện căn, 6- Bị pháp luật trừng trị, 7- Tài vật không vào thêm nữa, 8- Trồng nhân duyên bần cùng, 9- Khi chết sẽ đọa vào địa ngục và 10- Dù chết đi được tái sinh làm người, thì cũng chẳng giữ được tài sản. Dù cần khổ cầu tài lợi, mà tài sản vẫn tiêu tan, như bị vua quan tịch biên, bị giặc cướp lấy sạch, bị nạn nước cuốn đi, bị nạn lửa thiêu rụi, bị con cháu phá tán.

 

Hỏi: Thế nào gọi là tà dâm?

Đáp: Thông dâm với người nam, người nữ chẳng phải là chồng, là vợ của mình thì gọi là tà dâm.

Người nữ đã xuất gia, hoặc thọ giới 1 ngày 1 đêm, phải không được làm các tà hạnh dù đối với chồng của mình.

Đối với người vợ đã thọ giới, thì người chồng cũng không được làm các tà hạnh. Trường hợp người vợ đang có thai hoặc đang cho con bú, cũng như vậy.

Lại nữa, người đã có chồng, đã có vợ rồi mà còn khởi ý dục đối với người nam hay người nữ khác, thì cũng gọi là tà dâm.

Phải luôn luôn nghĩ rằng “tà dâm là hoạn nạn, như rắn độc, như lửa dữ, phải nên lánh xa”.

Phật dạy “tà dâm có 10 tội”. Đó là: 1- Thường bị người khác làm hại, 2- Vợ chồng không hòa thuận nhau, thường hay cãi nhau, 3- Các pháp bất thiện mỗi ngày mỗi tăng trưởng, 4- Không giữ gìn được con cái, 5- Tài sản càng ngày càng hao mòn, 6- Thường bị người nghi kỵ, 7- Các bậc thiện trí thức chẳng muốn gần, 8- Thường gặp điều oan trái, 9- Khi chết sẽ vào địa ngục, và 10- Dù chết đi được tái sinh làm người, thì người nữ phải chịu cảnh chồng chung, người nam phải gặp vợ không trinh tiết.

 

Hỏi: Thế nào gọi là vọng ngữ ?

Đáp: Biết mà nói là không biết, nghe mà nói là không nghe đều gọi là vọng ngữ.

Người vọng ngữ trước tự dối mình, sau dối người, lấy không làm có, lấy có làm không, điên đảo, chẳng có thiện tâm, chẳng chút Tàm quý, tự đóng kín cửa thiện, tự bít đường dẫn đến Niết Bàn.

Trái lại thật ngữ được nhiều lợi ích. Hết thảy người xuất gia và tại gia, đều nhờ nơi thật ngữ mà vun trồng được thêm công đức. Người thật ngữ được tâm đoan chính, tránh được các khổ nạn.

Hỏi: Do nhân duyên gì mà sinh vọng ngữ?

Đáp: Người ngu, khi gặp các ách nạn thường nói dối để mong được thoát nạn, mà chẳng biết rằng “nói dối khiến đời này bị khổ, đời sau cũng khổ”.

Người tu hành, không bị tham sân chi phối, nên không nói dối để mong cầu chạy tội.

Hỏi: Vọng ngữ dẫn sinh ra bao nhiêu tội?

Đáp: Vọng ngữ dẫn sinh ra 10 tội. Đó là: 1- Miệng hôi, 2- Bị thiện thần lánh xa, 3- Dù có nói thật cũng chẳng ai tin, 4- Bị người trí không cho tham dự các buổi họp bàn, 5- Thường bị người chê cười, 6- Bị người khinh khi không kính nể, 7- Thường gặp oán sầu, 8- Thường gây duyên đấu tranh, 9- Sau khi chết sẽ đọa địa ngục, và 10- Thường bị người phỉ báng, không tin cậy.

 

Hỏi: Có bao nhiêu loại rượu?

Đáp : Có 3 loại rượu. Đó là:

- Loại rượu từ ngũ cốc làm ra

- Loại rượu từ trái cây làm ra.

- Loại rượu từ rễ cây, lá cây, vỏ cây, thân cây làm ra...

Hỏi: Uống rượu vào khiến thân thể được ấm áp chống được cảm lạnh, khiến người được hoan hỷ, khoan khoái. Như vậy vì sao lại cấm uống rượu?

Đáp: Rượu lợi ích ít, mà độc hại nhiều, do vậy chẳng nên uống.

Như lời Phật dạy ông Ưu Bà Tắc Nan Đề Ca, thì rượu gây ra 35 tội. Đó là: 1- Tài vật bị hao mòn, 2- Mang nhiều bệnh tật, 3- Thích cãi cọ, 4- Tiếng xấu đồn xa, 5- Không biết xấu hổ, 6- Trí huệ bị mê ám, 7- Vật đã được cũng đánh mất, 8- Khi say rất sầu muộn, 9- Việc kín cũng nói với người, 10- Sự nghiệp không thành, 11- Thần lực bị hao mòn, 12- Thần sắc bị hoại dần, 13- Không kính cha, 14- Không kính mẹ, 15- Không kính Sa Môn, 16- Không kính Bà La Môn, 17- Không kính bậc tôn trưởng, 18- Không kính Phật, 19- Không kính Pháp, 20- Không kính Tăng, 21- Làm bạn với người ác, 22- Xa dần người thiện, 23- Không tự kiểm soát hành động, 24- Không giữ được 6 căn, 25- Buông lung phóng dật, 26- Thường phá giới, 27- Chẳng ai muốn thấy, 28- Người hiền thiện lánh xa, 29- Hành các pháp bất thiện, 30- Xa các pháp thiện, 31- Người trí không tin dùng, 32- Xa lìa Niết Bàn, 33- Gieo nhân duyên cuồng si, 34- Chết sẽ đọa địa ngục, và 35- Dù tái sinh được làm người cũng làm người cuồng si, các căn ám độn.

 

C. Trì Giới

 

Hỏi: Tướng của Thi La có thể dễ thấy biết, nhưng làm thế nào để biết được tướng của Thi La Ba La Mật?

Đáp: Bồ Tát trì giới, quyết không phá một giới nhỏ nào cả, dù phải mất mạng sống của mình. Như vậy gọi là Thi La Ba La Mật.

Lại nữa, Bồ Tát trì giới vì Phật Đạo, vì độ chúng sanh. Bồ Tát thệ nguyện độ hết thảy chúng sanh, đưa họ đến bờ bên kia nên nhất tâm trì giới, chẳng tiếc thân mạng.

Nên biết rằng, “do trì giới mà được sanh lên cõi Trời, được gặp các bậc thiện tri thức, được sanh thiện trí. Nếu được các thiện tri thức dạy cho 6 pháp  Ba La Mật thì sẽ vào được Đạo”.

Hỏi: Thế nào là “Trì giới được sanh giới”?

Đáp: Tu 5 giới dẫn đến Tỳ Kheo Giới, Thiền Định Giới, Vô Lậu Giới... Như vậy gọi là “Trì giới được sanh giới”

 

Tất cả những gì cần thiết trong pham vi thọ trì Tịnh Giới Ba La Mật của Đại Trí Độ Luận, chúng tôi cố gắng trích dẫn như trên. Tuy nhiên, chúng tôi không liệt kê hết tất cả các giới từ ngũ giới của người tu tại gia, bát giới của người tu bát quan trai giới. Chúng tôi cũng không liệt kê tất cả giới của 6 chúng xuất gia: Bồ Tát, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, Sa di ni và Thức xoa ma na. Các giới của 6 chúng này rất khác nhau tùy theo vai vị tu hành cũng như nguyện vọng đi từ dễ tới khó như: Thức Xoa Ma Na phải tập 296 hạnh pháp của Tỳ Kheo Ni, và giữ 6 pháp tịnh tâm, 2 năm tịnh thân, mới được thọ Đại Giới; Tỳ kheo phải giữ từ 250 giới cho đến 8.000 giới; Tỳ kheo ni phải giữ từ 500 giới cho đến 8.000; giới của Bồ Tát thì quá nhiều không kể xiết. Điểm đáng lưu ý là giới của người nào thì người ấy giữ, không cho người khác biết.

Ngoài ra, Luận còn liệt kê một số tội phá giới thuộc về sát, đạo, dâm, vọng ngữ và say rượu và cũng như việc định danh từng tội phạm cùng với hình phạt, nhưng rất khác biệt so với hình luật ngày nay. Chúng tôi chỉ lược qua, không muốn giải thích rườm rà thêm. Vã lại trong khuôn khổ Tổng luận nhỏ hẹp này không cho phép. Xin Quý vị tra cứu các Kinh sách đã xuất bản trên thị trường để hiểu thêm về những qui định của giới luật khi xưa.

 

---o0o---

 

 

Đến đây chấm dứt phần mười hai.

(Hội thứ XII).

 

Nếu xem việc học Phật là khó, là khổ thì chỉ cần nhớ lời Phật dạy: Hãy lấy giới luật làm thầy. Thế cũng đủ lắm rồi, không đòi hỏi gì hơn!

Trong cuộc đời này không ai có thể tự hào cho là mình không phạm tội. Không phạm tội lớn thì phạm tội nhỏ, không phạm tội thuộc vật chất thì cũng phạm tội tinh thần. Tội về vật chất hay tinh thần đều có thể che mắt được thiên hạ, nhưng không thể tự dối mình được. Phải biết thế nào là tàm và qúi. Nếu tội nhỏ, biết ăn năn sám hối thì phải quỳ hương, nếu tội lớn thì phải biết phát lồ. Sám hối là phương pháp tẩy sạch bụi nhơ nơi thân tâm, không có gì tốt bằng.

Trong các chùa, am hay tu viện các Thầy Tổ, chư Tăng thường tụng:

 

“Tánh tội vốn không do tâm tạo,

Tâm nếu diệt rồi tội sạch trong,

Tội trong tâm diệt, thảy đều không,

Thế mới gọi là chân sám hối”.

 

Kệ tụng này do Thầy Tổ tạo ra, chỉ dành cho hàng thượng căn thượng phẩm.

Phần “Mạn Thù Thất Lợi”, Hội thứ VII, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi bảo Xá Lợi Phất:

(...) “Phạm tội và bất khả tư nghì thảy là Thật tướng, và Thật tướng vốn không hai, không sinh, không diệt, không đến không đi, không nhân không quả, không thiện không ác, không dẫn vào ác đạo hay thiên đường, không đưa tới Niết bàn hay sinh tử. Tại sao? Bởi vì trong Pháp giới chân thật không có thiện hay ác, cao hay thấp, trước hay sau.

(...) Pháp giới chân thật chỉ có tướng nhất như; phạm tội hay không, không phân biệt”.

Đó là lối nói của hàng đại sĩ, theo đệ nhất nghĩa đế, lối nói của bậc đã nhập pháp giới. Không thể áp dụng qui thức này cho phàm phu tục tử, cũng không thể thuyết cho các Bồ Tát sơ học Đại thừa nói chi đến những dị sanh khác. Chưa thông đạt nhân quả nghiệp báo mà phóng túng, ngông cuồng thì không thể tránh khỏi rơi vào vực thẳm mịt mù không đáy. Ngày nào tu luyện thành thục, sạch trong sạch ngoài, thân tâm rỗng không trong suốt thì được vô thức, vô niệm, vô tâm!

Nói tóm lại, giới thanh tịnh, thì hạnh cũng thanh tịnh. Hạnh thanh tịnh thì cũng được sanh về cõi Phật.

Phẩm thứ nhất, tập 1, quyển 14, “Giải Thích các Thi La Ba La mật”, Đại Trí Độ Luận, nói: “… giới để kiểm thúc thô hoặc, thiền định để kiểm thúc tế hoặc. Lại nữa, giới thu nhiếp thân khẩu, thiền định đình chỉ loạn tâm”.

Thô hoặc là những lậu hoặc (bên ngoài) như nóng lạnh, đói rét... thuộc về thân. Tế hoặc là những phiền não kiết sử (bên trong) như tham sân si. Giới là hàng rào ngăn chận tội lỗi thâm nhập từ ngoài vào, thiền định là ngăn chận tội lỗi phát sanh từ bên trong. Giới Định Huệ đầy đủ, trong ngoài rỗng không trong suốt thì được an nhiên tịch lặng ma sanh trí tuệ.

Đối với chúng ta, thực tế nhất khi tu tịnh giới, chỉ cần nhớ: Giới độ là nghiêm cấm, tự răn. Hãy lấy đó làm thầy! Thân lìa ba lỗi, miệng dứt bốn lầm, ý tránh ba tội cũng tạm đủ trong cõi nhân thiên, không cần ước vọng cao xa nào khác.

Tóm lại, dục vọng, tham ái, phóng đảng... là nhân phá hoại tánh đức trí tuệ, tu trì giới để phá cái nhân xấu ác này. Nên nói tu trì giới để độ phá giới.

 

Phần kế tiếp là nói về an nhẫn Ba la mật. An nhẫn cũng là pháp khó tu, nó cũng được gọi là tịnh hạnh. An nhẫn là lối luyện thân tâm để đối phó với bất cứ hoàn cảnh, mọi trở ngại gian nan về vật chất lẫn tinh thần. Phẩm thứ nhất, tập 1, quyển 15, Giải Thích Sằn Đề Ba La Mật Pháp Nhẫn, Đại Độ Trí Luận, nói: “Lại nữa, đói khát, lạnh nóng là ma quân bên ngoài; kiết sử, phiền não là Ma tặc bên trong. Hãy phá hai tên quân đó để thành Phật đạo. Nếu không như vậy thời Phật đạo không thành”.  Đó là an nhẫn đối với chính bản thân mình. Còn đối với bạo lực, chịu đựng ức hiếp không căm thù oán hận kẻ lăng nhục, phải là người có đởm lược, khí phách mới có thể làm được. Pháp hội thứ XIII kế tiếp sẽ thảo luận vấn đề này.

 

 

Đến đây chấm dứt Hội thứ XII, ĐBN.

 

---o0o---

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567