Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

71. Phẩm “Học Tất Cả Hay Biển Học”

13/09/202013:27(Xem: 8246)
71. Phẩm “Học Tất Cả Hay Biển Học”

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***
buddha-465

 

PHẨM “HỌC TẤT CẢ hay BIỂN HỌC”(1)

Phần cuối quyển 464 đến phần đầu quyển 465, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương phẩm “Học Đạo Khắp”, phần cuối Q.366

cho đến phần đầu Q.372, Hội thứ I, ĐBN)

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu 
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên 
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

Tóm lược:

 

(Quán tứ cú là hý luận)

 

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát thành tựu trí huệ tối thắng như vậy, tuy có thể thọ nhận và thực hành pháp sâu xa thanh tịnh nhưng không nắm giữ thắng báo.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Các đại Bồ Tát thành tựu trí huệ tối thắng như vậy, tuy có thể nhận và thực hành pháp sâu xa thanh tịnh nhưng không nắm giữ thắng báo. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này đối với các pháp tự tánh chẳng động.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát này có thể đối với những pháp nào tự tánh chẳng động?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát này có thể đối pháp vô tánh tự tánh chẳng động.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Đại Bồ Tát này có thể đối với pháp vô tánh tự tánh nào chẳng động?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát này có thể đối với tự tánh của sắc chẳng động, có thể đối với tự tánh của thọ, tưởng, hành, thức chẳng động; có thể đối với tự tánh của mười hai xứ cho đến mười tám giới chẳng động; có thể đối với tự tánh của nhãn xúc cho đến ý xúc chẳng động, có thể đối với tự tánh của các cảm thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các cảm thọ do ý xúc làm duyên sanh ra chẳng động; có thể đối với tự tánh của bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật chẳng động; có thể đối với tự tánh của bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng động; có thể đối với tự tánh của bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo chẳng động; có thể đối với tự tánh của ba pháp môn giải thoát, tám giải thoát, chín định thứ đệ chẳng động; có thể đối với tự tánh của Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng chẳng động. Như vậy, cho đến có thể đối với tự tánh của Nhất thiết trí trí chẳng động, có thể đối với tự tánh của tất cả cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi chẳng động. Vì sao? Vì các pháp ấy là vô tánh, các đại Bồ Tát đối với tự tánh của vô tánh này chẳng động, vì vô tánh không thể chứng ngộ vô tánh.

Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Pháp hữu tánh có thể chứng ngộ pháp hữu tánh được không?

Phật dạy:

- Không được!

- Bạch Thế Tôn! Pháp vô tánh có thể chứng ngộ pháp hữu tánh được không?

Phật dạy:

- Không được!

- Bạch Thế Tôn! Pháp hữu tánh có thể chứng ngộ pháp vô tánh được không?

Phật dạy:

- Không được!

- Bạch Thế Tôn! Pháp vô tánh có thể chứng ngộ pháp vô tánh được không?

Phật dạy:

- Không được!

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, thì đúng ra pháp hữu tánh không thể hiện quán pháp hữu tánh, pháp vô tánh không thể hiện quán pháp hữu tánh, pháp hữu tánh không thể hiện quán pháp vô tánh, pháp vô tánh không thể hiện quán pháp vô tánh, như vậy làm sao Thế Tôn có thể đắc và có thể hiện quán được?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Tuy có đắc, có hiện quán, nhưng lìa tứ cú(2).

- Bạch Thế Tôn! Làm sao lìa tứ cú mà có đắc, có hiện quán?

- Thiện Hiện! Hoặc đắc hoặc quán, chẳng  phải có chẳng phải không, dứt hết hý luận. Vậy nên, Ta nói có đắc có quán, nhưng lìa tứ cú.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Tại sao gọi đại Bồ Tát hý luận?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các đại Bồ Tát quán sắc cho đến thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận. Quán mười hai xứ cho đến mười tám giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận. Quán nhãn xúc cho đến ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận. Quán 12 xứ, 18 giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận. Quán địa giới cho đến ý thức giới, quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, quán vô minh cho đến lão tử hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận. Quán lục Ba la mật, quán pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, nói rộng ra, quán tất cả pháp Phật hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc không vắng lặng, hoặc viễn ly hoặc không viễn ly, đó là hý luận.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nào nghĩ: Thánh đế khổ ta phải biết, Thánh đế tập ta phải trừ, Thánh đế diệt ta phải chứng, Thánh đế đạo ta phải tu, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải tu tập bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải tu bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải tu pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải tu tám giải thoát, tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải vượt khỏi quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải thực hành bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải trụ vào pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải trụ vào chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải viên mãn thập địa Bồ Tát, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát sanh năm loại mắt, sáu phép thần thông, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải phát sanh Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải viên mãn ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát sanh pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải làm phát sanh Nhất thiết, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải thực hành tất cả Bồ Tát hạnh, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Phải chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải chứng đắc Nhất thiết trí trí, đó là hý luận. Hoặc nghĩ: Ta phải vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não nối nhau, đó là hý luận.

Thiện Hiện! Đại Bồ Tát nắm lấy đủ loại phân biệt như vậy là hý luận.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nếu khi thực hành Bát Nhã thẳm sâu, các đại Bồ Tát không quán sắc cho đến thức là thường hoặc vô thường, không quán sắc là vui hoặc khổ cho đến không quán sắc là viễn ly hoặc không viễn ly là không hý luận. Như vậy, cho đến không quán Nhất thiết trí trí hoặc chứng đắc, hoặc không chứng đắc, là không hý luận. Không quán tất cả các tập khí phiền não nối nhau hoặc phải vĩnh viễn đoạn trừ, hoặc không cần phải vĩnh viễn đoạn trừ là không hý luận. Vì sao? Vì tất cả pháp và các hữu tình, hữu tánh chẳng năng hý luận hữu tánh, hữu tánh chẳng năng hý luận vô tánh, vô tánh chẳng năng hý luận vô tánh, vô tánh chẳng năng hý luận hữu tánh. Lìa tánh hữu vô, hoặc năng hý luận, hoặc sở hý luận, hoặc xứ hý luận, hoặc thời hý luận, đều bất khả đắc.

Vậy nên, Thiện Hiện! Sắc không hý luận, thọ tưởng hành thức cũng không lý luận. Như vậy, cho đến Nhất thiết trí trí không hý luận, dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau cũng không hý luận. Như vậy là các đại Bồ Tát thực hành Bát Nhã thẳm sâu không hý luận.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát khi thực hành Bát Nhã thẳm sâu, làm sao quán sắc thọ tưởng hành thức cho đến Nhất thiết trí trí, dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau mà chẳng rơi vào hý luận?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi thực hành Bát Nhã thẳm sâu nên quán sắc không có tự tánh, thọ tưởng hành thức cũng không có tự tánh. Như vậy, cho đến nên quán Nhất thiết trí trí vô tự tánh, dứt hẳn phiền não tập khí nối nhau cũng vô tự tánh. Nếu pháp vô tự tánh thời không thể hý luận.

Vậy nên, Thiện Hiện! Sắc thọ tưởng hành thức chẳng thể hý luận, nên các đại Bồ Tát chẳng nên hý luận.

Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nếu năng đối tất cả pháp lìa các hý luận như thế, thực hành Bát Nhã thẳm sâu phương tiện thiện xảo, bèn vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nếu đã được vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thì mau chứng Nhất thiết trí trí. (Q. 464, ĐBN)

Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh, lìa hý luận và bất khả đắc thì nhờ những đạo gì mà đại Bồ Tát chứng đắc Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, đó là đạo Thanh văn, Độc giác hay đạo Như Lai?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát không nhờ đạo Thanh văn, không nhờ đạo Độc giác, không nhờ đạo Như Lai được vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nhưng sau khi đã học đầy đủ các đạo, nhờ đạo Bồ Tát vị ấy được nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Giống như Bồ Tát ở địa vị thứ tám, trước tiên phải học các đạo, sau nhờ đạo của mình nên được nhập vào Chánh tánh ly sanh của thừa(địa) mình; cho đến khi chưa viên mãn đạo quả thì vị ấy chưa thể chứng đắc quả cao nhất của thừa mình. Cũng vậy, các đại Bồ Tát trước tiên phải học viên mãn tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh; cho đến khi chưa phát sanh định Kim cương dụ thì vẫn chưa thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu phát sanh định này tương ưng với Bát Nhã trong một sát na mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu trước tiên đại Bồ Tát đã học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Bạch Thế Tôn! Há chẳng phải các hướng và quả của đệ bát Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Như Lai, mỗi đạo ấy đều khác nhau sao? Bạch Thế Tôn! Nếu các đạo đã khác nhau như vậy thì vì sao trước tiên đại Bồ Tát phải học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nghĩa là: Các đại Bồ Tát phải phát khởi đạo đệ bát mới thành đệ bát, hoặc phát khởi đạo Cụ kiến mới thành Dự lưu, phát khởi đạo Tiến tu mới thành Nhất lai, Bất hoàn, phát khởi đạo Vô học mới thành A la hán, phát khởi đạo Độc giác mới thành Độc giác?

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát thành tựu đệ bát nói rộng cho đến thành tựu Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác rồi, năng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, tất không lẽ ấy. Chẳng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh mà năng chứng được Nhất thiết trí trí, cũng không lẽ ấy?

Bạch Thế Tôn! Làm sao khiến con như thật rõ biết các đại Bồ Tát cần đối các đạo khắp học đủ rồi, mới vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh mà chẳng trái lẽ?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Đại Bồ Tát nào sau khi thành tựu đệ bát rồi nói rộng cho đến thành tựu Độc giác mà có thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh thì thật phi lý; không nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh mà có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì cũng thật phi lý.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì tại sao trước tiên các đại Bồ Tát phải học đầy đủ các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh; sau khi nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh rồi, vị ấy tuần tự chứng đắc Nhất thiết trí trí, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não nối nhau.

Phật bảo Thiện Hiện:

- Từ lúc mới phát tâm các đại Bồ Tát siêng năng tinh tấn tu hành sáu Ba la mật, dùng trí tuệ thù thắng vượt qua tám địa, là Tịnh quán địa cho đến Độc giác địa; tuy tu tất cả tám địa vừa kể nhưng vị ấy dùng trí tuệ thù thắng để vượt qua. Nhờ Đạo tướng trí vị ấy được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Sau khi đã nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, tuần tự lại nhờ Nhất thiết tướng trí, vị ấy chứng đắc hoàn toàn Nhất thiết trí trí, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não nối nhau.

Thiện Hiện! Ngươi nên biết, trí của đệ bát tức là nhẫn của đại Bồ Tát, trí hoặc đoạn của Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán và Độc giác cũng là nhẫn của đại Bồ Tát. Như vậy, này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát trước hết phải học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo của mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Sau khi đã nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, vị ấy tuần tự chứng đắc Nhất thiết trí trí. Sau khi đã chứng đắc Nhất thiết trí trí, vị ấy mới đem kết quả đó làm lợi ích cho tất cả hữu tình.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như đã nói, các đại Bồ Tát nên học để biết tướng của tất cả đạo như là đạo Thanh văn, hoặc đạo Độc giác, hoặc đạo Bồ Tát, hoặc đạo Như Lai. Trí biết tất cả loại tướng của những đạo này gọi là Đạo tướng trí. Các đại Bồ Tát làm cách nào để phát sanh Đạo tướng trí này?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các hành, trạng, tướng có thể hiển bày Đạo tướng trí là đối với tất cả các hành, trạng, tướng như vậy, các đại Bồ Tát đều hiện chứng Đẳng Giác. Sau khi đã hiện chứng Đẳng Giác, họ như thật giảng nói, khai thị, tạo dựng, kiến lập cho người khác, làm cho các hữu tình được hiểu biết không điên đảo và tùy ý đạt được những lợi ích mà họ mong cầu. Đối với tất cả âm thanh, ngôn ngữ, đại Bồ Tát này đều được pháp môn Đà la ni thiện xảo. Nhờ pháp môn Đà la ni thiện xảo này, vị ấy phát sanh đủ loại âm thanh ngôn ngữ, giảng nói chánh pháp cho hết thảy các loài hữu tình khắp Tam thiên đại thiên thế giới, làm cho họ biết âm thanh được nghe đều như tiếng vang. Do đó, tuy có hiểu nhưng họ không chấp trước. Thiện Hiện! Do nhân duyên này các đại Bồ Tát nên học viên mãn các Đạo tướng trí. Sau khi đã học viên mãn Đạo tướng trí, vị ấy biết như thật về các loại ý thích và tùy miên khác nhau của tất cả các loài hữu tình. Hãy làm lợi ích an lạc theo ý thích của họ nghĩa là biết như thật ý thích tùy miên của các hữu tình ở địa ngục và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường đó; cũng biết như thật về ý thích tùy miên của các hữu tình thuộc bàng sanh và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường đó; cũng biết như thật về ý thích tùy miên của các hữu tình thuộc cõi quỷ và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường ấy; cũng biết như thật về ý thích tùy miên của rồng, Dạ xoa, A tu la và nhân quả của nó, biết rồi tìm cách ngăn lấp đường ấy; cũng biết như thật về ý thích tùy miên của người và chư thiên cõi Dục và nhân quả của họ, biết rồi tìm cách ngăn che đường ấy; cũng biết như thật về ý thích tùy miên của trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh, trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ và nhân quả của họ, biết rồi tìm cách ngăn che đường ấy; cũng biết như thật về bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, cũng biết như thật về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc và nhân quả của nó; cũng biết như thật về tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ và nhân quả của nó; cũng biết như thật về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo và nhân quả của nó; cũng biết như thật về bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật và nhân quả của nó; cũng biết như thật về pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không và nhân quả của nó; cũng biết như thật về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì và nhân quả của nó; nói rộng ra, cũng biết như thật về tất cả pháp Phật và nhân quả của chúng.

Thiện Hiện! Sau khi biết như thật về tất cả pháp Phật và nhân quả của chúng rồi, tùy theo căn của họ, các đại Bồ Tát giúp các hữu tình đứng vững nơi đạo ba thừa, làm cho họ siêng năng tu học đạt được cứu cánh.

Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên phát sanh các Đạo tướng trí như vậy. Đại Bồ Tát nào có thể học các Đạo tướng trí này thì có thể biết được các loại giới tánh, ý thích và tùy miên của các hữu tình. Sau khi đã biết, vị ấy tùy theo căn cơ mà giảng nói chánh pháp giúp cho họ đạt được thắng báo mà họ mong cầu, quyết không bị tổn hại. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này hoàn toàn thông đạt căn cơ hơn kém của hữu tình, hiểu rõ như thật tâm sở sai biệt và sự qua lại sanh tử của các hữu tình nên pháp họ nói ra không làm tổn hại hữu tình.

Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên thực hành đạo Bát nhã Ba la mật này. Vì sao? Vì tất cả pháp Bồ đề phần và đạo Thanh văn, Độc giác, mà Bồ Tát học đều lệ thuộc vào Bát Nhã thẳm sâu, tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát học pháp này đều đạt được cứu cánh. (Q.465, ĐBN)

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả Bồ đề phần pháp cho đến Bồ đề, tất cả pháp như vậy, chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng thì vì sao Bồ đề phần pháp như vậy có thể nắm giữ Bồ đề? Bạch Thế Tôn! Tất cả chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi là vô tướng, chẳng thủ, chẳng xả đối với pháp khác. Giống như hư không, không thủ, không xả, đối với tất cả pháp vì tự tánh là không. Cũng vậy, các pháp đều tự tánh là không nên không có thủ, xả đối với pháp khác thì vì sao nói Bồ đề phần pháp như bốn niệm trụ v.v… có thể nắm giữ Bồ đề?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Do tự tánh của tất cả các pháp đều không, không thủ, không xả nhưng các hữu tình không thể hiểu rằng tự tánh của tất cả pháp không, vì vậy để làm lợi ích cho họ, Ta phương tiện giảng nói Bồ đề phần pháp có thể nắm bắt Bồ đề.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hoặc sắc thọ tưởng hành thức. Hoặc nhãn xứ cho đến pháp xứ. Hoặc sắc xứ cho đến pháp xứ. Hoặc nhãn giới cho đến ý giới. Hoặc sắc giới cho đến pháp giới. Hoặc nhãn thức giới cho đến ý thức giới. Hoặc nhãn xúc cho đến ý xúc. Hoặc các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Hoặc địa giới cho đến thức giới. Hoặc nhân duyên cho đến tăng thượng duyên. Hoặc vô minh cho đến lão tử. Hoặc bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hoặc pháp nội không cho đến pháp vô tánh tự tánh không. Hoặc chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì. Hoặc Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo. Hoặc bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo. Hoặc bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc. Hoặc ba pháp môn giải thoát. Hoặc tám giải thoát cho đến mười biến xứ. Hoặc Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa. Hoặc Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa. Hoặc tất cả pháp môn Đà la ni, pháp môn Tam ma địa. Hoặc năm loại mắt, sáu phép thần thông. Hoặc Như Lai mười lực cho đến mười tám pháp Phật bất cộng. Hoặc ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ. Hoặc pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả. Hoặc Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Hoặc quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề. Hoặc tất cả Bồ Tát hạnh. Hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Hoặc đoạn trừ tất cả phiền não tập khí nối nhau, hoặc Nhất thiết trí trí (nói chung tất cả pháp Phật).

Tất cả những pháp này đều ở trong Thánh pháp Tỳ nại da chẳng hợp, chẳng tan, vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng. Để làm lợi ích các loài hữu tình, giúp họ hiểu đúng và nhập vào thật tướng các pháp, nên Như Lai dựa vào thế tục để giảng nói, không dựa vào thắng nghĩa.

Thiện Hiện nên biết: Các đại Bồ Tát nên học để hiểu biết tất cả pháp. Sau khi học và hiểu biết rồi, vị ấy thông suốt như thật các pháp như thế, đáng thọ dụng hay không đáng thọ dụng.

Cụ thọ Thiện Hiện liền bạch Phật:

- Các đại Bồ Tát phải học và hiểu những pháp gì mới có thể thông suốt như thật pháp đáng thọ dụng hay không đáng thọ dụng?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Các đại Bồ Tát phải học và hiểu biết pháp Thanh văn và Độc giác rồi mới thông suốt như thật, không nên thọ dụng, phải học và hiểu biết tất cả pháp tương ưng với Nhất thiết trí trí, mới thông suốt như thật tất cả các loại chủng tướng nên thọ dụng.

Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát đối với Thánh pháp Tỳ nại da đây, nên học Bát Nhã thẳm sâu như thế.

 

(Học pháp Vô tướng)

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã thuyết Thánh pháp Tỳ nại da. Vậy, thế nào là Thánh pháp Tỳ nại da?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hoặc Thanh văn, hoặc Độc giác, hoặc Bồ Tát, hoặc chư vị Như Lai đối với tham, sân, si chẳng hợp, chẳng tan. Đối với ngũ phần thuận hạ kiết sử chẳng hợp, chẳng tan. Đối với ngũ phần thuận thượng kiết sử chẳng hợp, chẳng tan. Đối với bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc chẳng hợp, chẳng tan. Đối với bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo chẳng hợp, chẳng tan. Đối với Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo chẳng hợp, chẳng tan. Đối với ba pháp môn giải thoát chẳng hợp, chẳng tan. Đối với tám giải thoát cho đến mười biến xứ chẳng hợp, chẳng tan. Đối với Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa chẳng hợp, chẳng tan. Đối với năm loại mắt, sáu phép thần thông chẳng hợp, chẳng tan. Đối với bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật chẳng hợp, chẳng tan. Đối với pháp nội Không cho đến pháp vô tánh tự tánh Không chẳng hợp, chẳng tan. Đối với chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì chẳng hợp, chẳng tan. Nói rộng ra, cho đến tất cả pháp Phật chẳng hợp, chẳng tan.

Thiện Hiện! Kia gọi là Thánh giả, đây là Tỳ nại da pháp thiện trị của Thánh giả kia, vậy nên gọi Thánh pháp Tỳ nại da. Vì sao? Tất cả pháp đây vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng chỗ gọi vô tướng, các Thánh giả kia như thật hiện thấy.

Thiện Hiện! Phải biết pháp vô sắc cùng pháp vô sắc chẳng hợp chẳng tan, pháp vô kiến cùng pháp vô kiến chẳng hợp chẳng tan, pháp vô đối cùng pháp vô đối chẳng hợp chẳng tan, pháp nhất tướng cùng pháp nhất tướng chẳng hợp chẳng tan, pháp vô tướng cùng pháp vô tướng chẳng hợp chẳng tan.

Thiện Hiện! Các Bồ Tát đối Bát Nhã thẳm sâu vô sắc, vô kiến, vô đối, nhất tướng, vô tướng đây thường nên tu học. Học rồi chẳng nắm lấy tướng tất cả pháp.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Lẽ nào các đại Bồ Tát không nên học tướng của sắc cho đến tướng của thức? Lẽ nào không nên học tướng của mười hai xứ cho đến mười tám giới. Lẽ nào không nên học tướng của nhãn xúc cho đến tướng của ý xúc. Lẽ nào không nên học tướng của các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến tướng của các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra. Lẽ nào không nên học tướng của địa giới cho đến tướng của thức giới. Lẽ nào không nên học tướng của nhân duyên cho đến tướng của tăng thượng duyên. Lẽ nào không nên học tướng của vô minh cho đến tướng của lão tử. Lẽ nào không nên học tướng của bố thí cho đến tướng của Bát nhã Ba la mật. Lẽ nào không nên học tướng của pháp nội không cho đến tướng của pháp vô tánh tự tánh không. Lẽ nào không nên học tướng của chơn như cho đến tướng của cảnh giới bất tư nghì. Nói rộng ra, lẽ nào không nên học tướng của tất cả pháp Phật. Lẽ nào không nên học tướng của việc dứt hẳn tất cả phiền não tập khí nối nhau và lẽ nào không học tướng của Nhất thiết trí trí. Lẽ nào không nên học tướng của việc biết khổ, dứt trừ nguyên nhân của khổ, chứng đắc Niết bàn và tu đạo. Lẽ nào không nên học tướng của việc quán duyên khởi theo chiều thuận nghịch. Lẽ nào không nên học tướng Thánh pháp của tất cả bậc Thánh. Lẽ nào không nên học tướng của cảnh giới hữu vi và cảnh giới vô vi?

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát không học các pháp tướng và các hành tướng thì làm sao có thể vượt qua địa vị của tất cả Thanh văn, Độc giác. Nếu không thể vượt qua địa vị của tất cả Thanh văn, Độc giác thì làm sao có thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nếu không thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh thì làm sao có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì làm sao có thể chuyển pháp luân vi diệu. Nếu không thể chuyển pháp luân vi diệu thì làm sao có thể dùng chánh pháp ba thừa để an lập hữu tình giúp họ vượt qua biển khổ sanh tử không bờ mé?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp có thật tướng thì các đại Bồ Tát nên học các pháp đó; do tất cả các pháp không có thật tướng nên các đại Bồ Tát không học tướng của nó, cũng không học pháp vô tướng. Vì sao? Vì dù Phật có xuất thế hay không xuất thế thì pháp giới là thường trụ và các pháp chỉ có một tướng là vô tướng. Vô tướng như vậy đã chẳng có tướng, cũng chẳng vô tướng, nên không thể học được.

Bấy giờ, Cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các pháp đều chẳng có tướng, cũng chẳng không(tướng) thì làm sao đại Bồ Tát có thể tu Bát Nhã? Bạch Thế Tôn! Đại Bồ Tát nào không tu Bát Nhã thì không thể vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác. Nếu không thể vượt qua địa vị Thanh văn, Độc giác thì không thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nếu không thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh thì không thể phát sanh Bồ Tát Vô sanh pháp nhẫn. Nếu không thể phát sanh Vô sanh pháp nhẫn thì không thể phát sanh thần thông thắng diệu của Bồ Tát. Nếu không thể phát sanh thần thông thắng diệu thì không thể trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình. Nếu không thể trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình thì không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu không thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì không thể chuyển pháp luân vi diệu. Nếu không thể chuyển pháp luân vi diệu thì không thể an lập hữu tình, giúp họ trụ nơi quả Dự lưu, hoặc quả Nhất hoàn, hoặc quả Bất hoàn, hoặc quả A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề, hoặc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, cũng không thể an lập hữu tình giúp họ trụ vào phước nghiệp của tánh bố thí, hoặc phước nghiệp của tánh trì giới, hoặc phước nghiệp của tánh tu tập để được giàu có, vui sướng tự tại trong trời người?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng như lời ngươi nói! Tất cả pháp chẳng có tướng, chẳng vô tướng. Đại Bồ Tát nào biết tất cả pháp hoặc có tướng, hoặc vô tướng, hoặc đồng một tướng chỗ gọi vô tướng. Tu vô tướng này tức là tu Bát nhã Ba la mật.

 

(Tu khiển và tu trừ khiển )

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát tu vô tướng này là tu Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào tu trừ khiển tất cả pháp là tu Bát nhã Ba la mật.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát tu trừ khiển tất cả pháp là tu Bát nhã Ba la mật?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển mười hai xứ cho đến mười tám giới, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển nhãn xúc cho đến ý xúc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển địa giới cho đến thức giới, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển nhân duyên cho đến tăng thượng duyên, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển vô minh cho đến lão tử, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển niệm Phật cho đến niệm hơi thở, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tưởng vô thường cho đến tưởng diệt, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tưởng ngã cho đến tưởng kiến giả, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tưởng duyên khởi và tưởng phi duyên khởi, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tưởng thường, lạc, ngã, tịnh và tưởng vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển bốn niệm trụ cho đến tám chi Thánh đạo, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển tám giải thoát cho đến mười biến xứ, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.

Tu trừ khiển tưởng Thánh đế và tưởng phi Thánh đế, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển Tam ma địa có tầm, có tứ, Tam ma địa không tầm có tứ, Tam ma địa không tầm, không tứ, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu từ khiển khổ trí cho đến như thuyết trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển pháp nội không cho đến pháp vô tính tự tính không, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng ra, tu trừ khiển tất cả pháp Phật cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển Nhất thiết trí trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật sâu xa. (Q. 465, ĐBN)

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đại Bồ Tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật? Tu trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật? Nói rộng cho đến trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật? Tu trừ khiển Nhất thiết trí trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã sâu xa này, nếu nghĩ có sắc và có sự tu này thì chẳng phải trừ khiển sắc, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nghĩ có thọ, tưởng, hành, thức và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến nếu nghĩ có đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, thì chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nghĩ có Nhất thiết trí trí và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển Nhất thiết trí trí, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật.

Nhưng khi tu hành Bát Nhã sâu xa này, các đại Bồ Tát chẳng nhsắc và nghĩ tu đây thì đó là trừ khiển sắc, là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng nhthọ, tưởng, hành, thức và nghĩ tu đây là trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến chẳng nhđoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau và nghĩ tu đây là trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng nh Nhất thiết trí trí và nghĩ tu đây là trừ khiển Nhất thiết trí trí, là tu Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải do tưởng đoạn trừ sự trói buộc tùy miên, tham, sân, si, mà có thể tu Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, thì gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu đây gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến tu trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau và trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển Nhất thiết trí trí và trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Người nào quán tưởng có, thì chẳng thể tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến người quán tưởng có, chẳng thể đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, cũng chẳng thể tu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì người quán tưởng có, còn chấp có ngã và ngã sở, bởi còn chấp nên còn mắc hai bên. Vì mắc hai bên nên nhất định không được giải thoát sanh tử, không đạo, không Niết bàn, làm sao có thể như thật tu sáu pháp Ba la mật, nói rộng cho đến đoạn trừ vĩnh viễn tập khí phiền não nối nhau và có thể tu tập Nhất thiết trí trí.

 

(Pháp môn bất nhị)

 

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Những gì là có, những gì là chẳng có?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Hai là có, không hai là chẳng có.

Thiện Hiện lại hỏi:

- Thế nào là hai? Thế nào là không hai?

Phật bảo:

- Tưởng sắc cho đến tưởng thức là hai, tưởng sắc không cho đến tưởng thức không là không hai. Tưởng nhãn xứ cho đến tưởng ý xứ là hai; tưởng nhãn xứ không cho đến tưởng ý xứ không là không hai. Tưởng sắc xứ cho đến tưởng pháp xứ là hai; tưởng sắc xứ không cho đến tưởng pháp xứ không là không hai. Tưởng nhãn giới cho đến tưởng ý giới là hai; tưởng nhãn giới không cho đến tưởng ý giới không là không hai. Tưởng sắc giới cho đến tưởng pháp giới là hai; tưởng sắc giới không cho đến tưởng pháp giới không là không hai. Tưởng nhãn thức giới cho đến tưởng ý thức giới là hai; tưởng nhãn thức giới không cho đến tưởng ý thức giới không là không hai. Tưởng nhãn xúc cho đến tưởng ý xúc là hai; tưởng nhãn xúc không cho đến tưởng ý xúc không là không hai. Tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra, cho đến tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra là hai; tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra không, cho đến tưởng về các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra không là không hai. Tưởng địa giới cho đến tưởng thức giới là hai; tưởng địa giới không cho đến tưởng thức giới không là không hai. Tưởng nhân duyên cho đến tưởng tăng thượng duyên là hai; tưởng nhân duyên không cho đến tưởng tăng thượng duyên không là không hai. Tưởng vô minh cho đến tưởng lão, tử là hai; tưởng vô minh không cho đến tưởng lão, tử không là không hai; tưởng bố thí cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật là hai; tưởng bố thí không cho đến tưởng Bát nhã Ba la mật không là không hai. Tưởng pháp nội không cho đến tưởng pháp vô tánh tự tánh không là hai; tưởng pháp nội không không cho đến tưởng pháp vô tánh tự tánh không không là không hai. Tưởng chơn như cho đến tưởng cảnh giới bất tư nghì là hai; tưởng chơn như không cho đến tưởng cảnh giới bất tư nghì không là không hai. Nói rộng ra, tưởng tất cả pháp Phật từ Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo là hai. Cho đến tưởng tất cả Bồ Tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề là hai; tưởng tất cả Bồ Tát hạnh và quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề không là không hai. Tưởng cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi là hai; tưởng cảnh giới hữu vi, cảnh giới vô vi không là không hai. (Q.465, ĐBN)

Thiện Hiện! Cho đến tất cả tưởng đều là hai, cho đến tất cả hai đều là có, cho đến tất cả có đều là sanh tử. Đã sanh tử thì không thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử, sầu than, lo, buồn, khổ não. Không các tưởng đều là không hai. Các pháp không hai đều là chẳng có. Các pháp chẳng có đều không sanh tử. Người không sanh tử thì có thể giải thoát sanh, lão, bệnh, tử v.v...

Thiện Hiện! Do nhân nguyên đây nên biết: Đối với kẻ tưởng có hai thì chắc chắn không bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật, không đạo không đắc, cũng không hiện quán. Cho đến thấp nhất là thuận nhẫn (3)còn chẳng có, huống là biết rõ về sắc, nói rộng cho đến Nhất thiết trí trí. Kẻ ấy còn không thể tu các Thánh đạo, huống là có thể đạt quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ đề, đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não tiếp nhau, chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, vận chuyển pháp luân vi diệu, độ thoát các loài hữu tình.

 

Thích nghĩa:

(1). Phẩm này của hai hội: Hội thứ II và Hội thứ III cùng một nội dung. Nhưng Hội thứ III có phẩm tựa rất hay là “Huệ Đến Bờ Kia”. Nội dung phẩm này rất phong phú, nghĩa thú thâm trầm giống như Tâm Kinh Bát nhã Ba la mật.

(2). Tứ cú hay “bốn câu” có, không, chẳng có chẳng không, cũng chẳng có cũng không. Tất cả tri kiến thế tục đều không ngoài bốn câu này. Vì vậy, Phật cho là hý luận!

(3). Thuận nhẫn: Giai đoạn thứ ba trong năm giai đoạn nhẫn nhục của Bồ Tát.

 

Sơ giải:

 

1. Tại sao Bồ Tát phải học tất cả?

 

Đó là câu hỏi đặt ra cho toàn phẩm này, Kinh ĐBN trả lời:

“Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều không có tự tánh, lìa hý luận và bất khả đắc thì nhờ những đạo gì mà đại Bồ Tát chứng đắc Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, đó là đạo Thanh văn, Độc giác hay đạo Như Lai?

Phật bảo:

- Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát không nhờ đạo Thanh văn, không nhờ đạo Độc giác, không nhờ đạo Như Lai được vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nhưng sau khi đã học đầy đủ các đạo, nhờ đạo Bồ Tát vị ấy được nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Giống như Bồ Tát ở địa vị thứ tám, trước tiên phải học các đạo, sau nhờ đạo của mình nên được nhập vào Chánh tánh ly sanh của thừa(địa) mình; cho đến khi chưa viên mãn đạo quả thì vị ấy chưa thể chứng đắc quả cao nhất của thừa mình. Cũng vậy, các đại Bồ Tát trước tiên phải học viên mãn tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh; cho đến khi chưa phát sanh định Kim cương dụ thì vẫn chưa thể chứng đắc Nhất thiết trí trí. Nếu phát sanh định này tương ưng với Bát Nhã trong một sát na mới có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Nếu trước tiên đại Bồ Tát đã học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Bạch Thế Tôn! Há chẳng phải các hướng và quả của đệ bát Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, Như Lai, mỗi đạo ấy đều khác nhau sao? Bạch Thế Tôn! Nếu các đạo đã khác nhau như vậy thì vì sao trước tiên đại Bồ Tát phải học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Nghĩa là: Các đại Bồ Tát phải phát khởi đạo đệ bát mới thành đệ bát, hoặc phát khởi đạo Cụ kiến mới thành Dự lưu, phát khởi đạo Tiến tu mới thành Nhất lai, Bất hoàn, phát khởi đạo Vô học mới thành A la hán, phát khởi đạo Độc giác mới thành Độc giác?

Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát thành tựu đệ bát nói rộng cho đến thành tựu Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác rồi, năng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, tất không lẽ ấy. Chẳng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh mà năng chứng được Nhất thiết trí trí, cũng không lẽ ấy.

Bạch Thế Tôn! Làm sao khiến con như thật rõ biết các đại Bồ Tát cần đối các đạo khắp  học đủ rồi, mới vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh mà chẳng trái lẽ?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Đại Bồ Tát nào sau khi thành tựu đệ bát rồi nói rộng cho đến thành tựu Độc giác mà có thể nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh thì thật phi lý; không nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh mà có thể chứng đắc Nhất thiết trí trí thì cũng thật phi lý.

Cụ thọ Thiện Hiện thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì tại sao trước tiên các đại Bồ Tát phải học đầy đủ các đạo, sau đó nhờ đạo mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh; sau khi nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh rồi, vị ấy tuần tự chứng đắc Nhất thiết trí trí, vĩnh viễn đoạn trừ tất cả tập khí phiền não nối nhau?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Từ lúc mới phát tâm các đại Bồ Tát siêng năng tinh tấn tu hành sáu Ba la mật, dùng trí tuệ thù thắng vượt qua tám địa, là Tịnh quán địa cho đến Độc giác địa; tuy tu tất cả tám địa vừa kể nhưng vị ấy dùng trí tuệ thù thắng để vượt qua. Nhờ Đạo tướng trí vị ấy được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Sau khi đã nhập Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, tuần tự lại nhờ Nhất thiết tướng trí, vị ấy chứng đắc hoàn toàn Nhất thiết trí trí, đoạn trừ vĩnh viễn tất cả tập khí phiền não nối nhau”.

“… Các đại Bồ Tát trước hết phải học đầy đủ tất cả các đạo, sau đó nhờ đạo của mình mới được nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Sau khi đã nhập vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, vị ấy tuần tự chứng đắc Nhất thiết trí trí. Sau khi đã chứng đắc Nhất thiết trí trí, vị ấy mới đem kết quả đó làm lợi ích cho tất cả hữu tình”.

 

Trên thật tế, muốn thành tựu Phật quả được Nhất thiết trí trí, người tu phải xuất gia tu tất cả các pháp mầu Phật đạo nhất là lục Ba la mật trải qua ba A tang kỳ kiếp khổ hạnh mới có hy vọng. Nhưng Kinh chỉ giải thích một cách ngắn gọn như thế, thật khó tưởng tượng. Luận Đại Trí Độ, phẩm thứ 74, “Biển Học”, tập 5, quyển 86, giải thích kỷ thuật tu trì như sau:

“Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Nếu hết thảy pháp đều là vô sở hữu tánh thì Bồ Tát hành pháp gì mà vào được Bồ Tát đạo?

Phật dạy: Bồ Tát chẳng dùng Thanh Văn đạo, chẳng dùng Bích Chi Phật đạo. Nếu chưa dùng đủ 6 Pháp Ba la mật, thì Bồ Tát chưa vào được Phật đạo. Bồ Tát phải khắp học các pháp, các đạo, mới vào được Bồ Tát vị. Vào Bồ Tát vị rồi mà chưa được Nhất thiết chủng trí, thì Bồ Tát phải trú Kim Cang tam muội, dùng “ Nhất niệm tương ưng huệ” mới được quả Nhất thiết chủng trí.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Làm sao biết được Bồ Tát khắp học các đạo, rồi mới vào Bồ Tát vị?

Phật dạy: Từ sơ phát tâm, Bồ Tát tu tập 6 pháp Ba la mật, muốn được đầy đủ đạo chủng trí. Nếu đầy đủ đạo chủng trí mới vào được Bồ Tát vị. Vào Bồ Tát vị rồi, Bồ Tát lại dùng Nhất thiết chủng trí để đoạn trừ các phiền não tập khí, được vô sanh pháp nhẫn, vào “ vị”. Khi đã đoạn tận hết thảy phiền não tập khí rồi, Bồ Tát vào “ vô học vị” được 10 trí vô lậu.

Bồ Tát có được nhu thuận nhẫn, nên ly được cả “ hữu” và “ vô”, diệt được các hý luận, được vô sanh pháp nhẫn, mãi cho đến khi được quả Vô Thượng Bồ Đề trọn chẳng còn sanh ác tâm.

Bồ Tát có đại phước đức trí huệ, nên dù vì lợi ích chúng sanh vẫn thường quán sanh diệt, mà chẳng sanh tâm sợ hãi như hàng Nhị thừa.

Bồ Tát có huệ nhãn thấy thật tướng pháp là bất khả đắc, nên chẳng chấp vô thường; quán vô sanh diệt, mà chẳng chấp vô sanh diệt. Bởi vậy nên Bồ Tát chẳng đọa về thường, cũng chẳng đọa về vô thường. Bồ Tát quán các pháp tướng như Niết Bàn tướng, biết các pháp từ xưa đến nay vốn là vô sanh diệt, là rốt ráo thanh tịnh. Bởi vậy nên “thường” mà còn
chẳng chấp, huống nữa là chấp “sanh diệt”.

Như vậy là ở nơi các tướng, Bồ Tát được bình đẳng, nên được vô sanh pháp nhẫn, vào Bồ Tát vị, đoạn phiền não, tập khí, được Nhất thiết chủng trí, độ vô lượng chúng sanh”.

Lối giải thích này trông giản dị, dễ hiểu như khó hành khó chứng. Phải mất ba A tăng kỳ mới có thể thành tựu được. Người chưa từng tu thứ bậc các giai vị không dễ gì hiểu thế nào là hữu học và vô học, học vị và vô học vị làm sao chấp trì các pháp tu như trên?

 

2. Không học pháp “có tướng”, không học pháp “vô tướng”

 

 Học như hư không mà học là học thậm thâm Bát nhã Ba la mật. Phật bảo:

- “Thiện Hiện! Nếu tất cả pháp có thật tướng thì các đại Bồ Tát nên học các pháp đó; do tất cả các pháp không có thật tướng nên các đại Bồ Tát không học tướng của nó, cũng không học pháp vô tướng. Vì sao? Vì dù Phật có xuất thế hay không xuất thế thì pháp giới là thường trụ và các pháp chỉ có một tướng là vô tướng. Vô tướng như vậy đã chẳng có tướng, cũng chẳng vô tướng, nên không thể học được”.

Các pháp chỉ có một tướng là vô tướng, vô tướng cũng tức là bình đẳng. Khi thấy tất cả pháp bình đẳng, thì tâm thể mới được an nhiên tịch lặng. Đó chính là tu Bát nhã Ba la mật.

Thế Tôn không muốn lặp lại cái tác chứng ở trước là các pháp không có tự tánh, lấy vô tánh làm tự tánh, các pháp là không, là như như. Tới đây Thế Tôn nói các pháp là nhất tướng, chỗ gọi là vô tướng. Nhất tướng là chỉ cho tướng bình đẳng vô sai biệt, vô tướng là không có định tướng, không có tướng mạo cũng tức là không, Nếu là không thì không thể chấp thật hay giả.

Tới đây, Thế Tôn muốn chỉ bày các pháp đều đồng một tướng. Đồng một tướng tức là như, nó như thế là như thế, chẳng lúc nào chẳng như, và bình đẳng nghĩa là không phân biệt to nhỏ, hơn kém... Bình đẳng có nghĩa cùng đồng một thể tính. Một khi đạt được trạng thái này thì không còn chấp tâm thủ tướng nữa thì tâm thể mới được an nhiên tịch lặng. Đó là chỗ tu, chỗ trụ của Bát nhã Ba la mật.

 

Phẩm “Học Tất Cả hay Biển Học” của Hội thứ II và phẩm “Học Đạo Khắp”, phần cuối quyển 366 cho đến phần đầu quyển 372, Hội thứ I, ĐBN giống nhau như hai anh em sanh đôi. Hội thứ I đã thích nghĩa và chiết giải rồi, nên ở đây không lặp lại nữa. Quý vị có thể quay lại tụng phẩm “Học Đạo Khắp”, nếu muốn. Tuy nhiên, phẩm này có một pháp môn tuy không được phổ thông lắm nhưng rất quan trọng trong việc tu hành nhất là tu Bát nhã Ba la mật, nên chúng tôi trình bày ra đây để Quý vị tham cứu: Đó là “tu khiển và tu trừ khiển”. Hai cụm từ này có vẻ lạ tai, nên phải chiết tự để nắm vững vấn đề trước khi luận giải pháp môn này:

 

1- Khiển: Có nghĩa là quở hay trách móc. Nếu người bị khiển hay bị trách móc thì sẽ bị phiền nhiễu, ê chề.

2- Trừ khiển: Có nghĩa không nên khiển trách hay mắng nhiếc nữa để được êm thắm!

Hãy đọc kỹ lần nữa đoạn kinh mà chúng tôi dẫn chứng sau đây:

“Phật bảo Thiện Hiện:

- Đại Bồ Tát nào tu trừ khiển tất cả pháp là tu Bát Nhã.

Cụ thọ Thiện Hiện lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao đại Bồ Tát tu trừ khiển tất cả pháp là tu Bát Nhã?

Phật bảo Thiện Hiện:

- Này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.v.v… Nói rộng ra, tu trừ khiển tất cả pháp Phật cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật. Tu trừ khiển Nhất thiết trí trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật.

Bấy giờ, Thiện Hiện bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đại Bồ Tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật v.v… cho đến tu trừ khiển Nhất thiết trí trí, cũng trừ khiển tu đây, gọi là tu Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát khi tu hành Bát Nhã sâu xa này, nếu nghĩ có sắc và có sự tu này thì chẳng phải trừ khiển sắc, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến nếu nghĩ có đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, thì chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật. Nếu nghĩ có Nhất thiết trí trí và có sự tu này, thì chẳng phải trừ khiển Nhất thiết trí trí, chẳng phải tu Bát nhã Ba la mật.

Nhưng khi tu hành Bát Nhã sâu xa này, các đại Bồ Tát chẳng nhsắc và nghĩ tu đây thì đó là trừ khiển sắc, là tu Bát nhã Ba la mật. Chẳng nhthọ, tưởng, hành, thức và nghĩ tu đây là trừ khiển thọ, tưởng, hành, thức, là tu Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến chẳng nh Nhất thiết trí trí và nghĩ tu đây là trừ khiển Nhất thiết trí trí, là tu Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì chẳng phải do tưởng đoạn trừ sự trói buộc tùy miên, tham, sân, si, mà có thể tu Bát nhã Ba la mật. Vì vậy, này Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát tu trừ khiển sắc, cũng trừ khiển tu đây, thì gọi là tu Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Người nào quán tưởng CÓ, thì chẳng thể tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Nói rộng, cho đến người quán tưởng CÓ, chẳng thể đoạn trừ vĩnh viễn các tập khí phiền não nối nhau, cũng chẳng thể tu Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì người quán tưởng CÓ, còn chấp có ngã và ngã sở, bởi còn chấp nên còn mắc hai bên. Vì mắc hai bên nên nhất định không được giải thoát sanh tử, không đạo, không Niết bàn, làm sao có thể như thật tu sáu pháp Ba la mật, nói rộng cho đến đoạn trừ vĩnh viễn tập khí phiền não nối nhau và có thể tu tập Nhất thiết trí trí”.

Sắc là cái biến động đổi dời, là hư vọng, không chắc thật, không tự tại. Phật thường bảo: “Biến ngại là tướng của Sắc”(1) và Phật cũng thường bảo “Tu Bát nhã Ba la mật không nên nương tựa Sắc hay không nên trụ Sắc v.v… ” Như vậy, có nghĩa Sắc là một trong ngũ ấm làm che mờ tánh giác, nên còn gọi là “ngũ che”. Vậy, tu Bát nhã Ba la mật phải khiển Sắc, phải khiển, phải trách, phải trừ Sắc mới có thể tu Bát nhã Ba la mật.

Nhưng một khi có khiển tức vọng sanh, đó là động niệm. Có động thì tâm không còn như như nữa tức là trái với lối tu tịch lặng. Thói thường cái gì “trái lòng nghịch ý” thì người ta hay khiển hay trách, hay trừ bỏ. Nhưng không biết rằng đó là cái mất mát của tâm. Như vậy tu khiển cũng không phải là biện pháp tốt. Vậy phải trừ khiển, mà trừ khiển lại rơi vào cái động niệm khác. Tránh “vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”. Vì vậy, Tổ Tăng Xán mới bảo rằng: Ngăn động mà cầu tịnh thì tịnh cũng thành động, tức động càng động thêm.

Giải pháp của “Tâm Kinh” trở thành mầu nhiệm. Tất cả Tổ Sư trong các am tự chùa miếu hay các thiền viện đều đọc tụng Tâm Kinh vào các buổi lễ hội hay mỗi thời kinh để đem lại tịnh tâm cũng như để khai ngộ cho tất cả Tăng và Tục. Tâm Kinh thuyết rằng:

“Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi hành thâm Bát nhã Ba la mật đa , soi thấy năm uẩn đều không, liền vượt qua mọi khổ ách”.

Khi nhập vào pháp không rồi thì thấy nhân không, pháp không, nên không còn nương tựa bất cứ thứ gì, không còn chấp tâm chấp vật nữa. Do đó, chẳng cần khiển hay trừ khiển. Biết không, sống trong pháp không là dứt trừ tất cả mộng tưởng điên đảo, nên không còn sợ hãi, xa lìa được tất cả điên đảo, đạt tới cứu cánh, mới nói là chứng Niết bàn. Ở đây, không cần khiển, không cần trừ khiển mà quán không lại có thể hóa giải tất cả khổ ách mà được Niết bàn. Như thế, khiển cũng bỏ mà trừ khiển cũng bỏ nốt thì được an nhiên tịch lặng!

 

Tóm lại, phẩm này có bốn pháp tu rất thâm trầm đáng chú ý, vì có thể đưa đến Thánh trí tự giác:

1- Tu không theo tứ cú, tứ cú là tranh cải hý luận. Có tranh cải hý luận là có động niệm, lìa tứ cú thì có thể đạt “vô tránh tam muội”;

2- Tu không thấy tướng cùng vô tướng: Tu vô tướng thì được tâm bình đẳng, còn không thấy tướng thì không bị động niệm, dễ tu;. Kinh “Kim Cương Năng Đoạn(2), mới bảo “không thấy tướng là thấy Như Lai”;

3- Tu khiển và tu trừ khiển cũng bỏ, khiển là động niệm mà khiển tu cũng là động niệm, lìa cả hai thì bất động, vô chấp;

4- Pháp môn bất nhị là lìa chấp: Cuộc đời thường là chia chẻ, phân hóa, là sống trong lưỡng nguyên đối đãi. Biết cả CÓ lẫn KHÔNG, nhưng không trụ hai bên, mới được “vô chấp vô ngại”.

Bốn pháp tu này chẳng qua là đoạn niệm, chớ chẳng có gì khác! Một khi nhập pháp không, pháp như rồi, được như như bất động thì được bình đẳng tánh. Khi đạt đến trạng thái bình đẳng tràn đầy thì tâm thể được tịch lặng an nhiên. Tới đó là giải thoát hay đạt Niết bàn.

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Phẩm “Phật Mẫu”, quyển 306, Hội thứ I, ĐBN.

(2). Hội thứ IX, quyển 577, ĐBN./.

 

---o0o---


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567