Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

45. Phẩm "Chẳng Hòa Hợp"

22/08/202011:10(Xem: 6887)
45. Phẩm "Chẳng Hòa Hợp"

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-432

 

PHẨM "CHẲNG HÒA HỢP"

Cuối quyển 440 cho đến đầu quyển 441, Hội thứ II, ĐBN.

(Tương đương với phần sau phẩm “Ma Sự”, tức cuối quyển 303 cho đến

đầu quyển 304, Hội thứ I, ĐBN)



Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

Tóm lược:

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Người học pháp thì ưa thích lắng nghe, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Còn người trì pháp(1) thì tham đắm hỷ lạc, tiêu cực không chịu nói, không muốn trao truyền Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người trì pháp, tâm không tham đắm hỷ lạc, cũng không tiêu cực, muốn nói, muốn trao truyền Bát nhã Ba la mật thậm thâm, và dùng phương tiện khuyên gắng thọ trì, đọc tụng, tu tập. Còn người học pháp thì tiêu cực, tham đắm hỷ lạc, không muốn nghe thọ. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người học pháp thì ưa thích lắng nghe, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Còn người trì pháp thì muốn đến những nơi nào không có dạy, không có trao Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người trì pháp thì muốn thuyết, muốn trao Bát nhã Ba la mật thậm thâm, dùng phương tiện khuyên gắng ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập. Còn người học pháp thì muốn đến những nơi nào mà không phải nghe, phải học Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì đầy đủ ác dục, ưa chuộng danh lợi, muốn được cung kính cúng dường y phục, thức ăn nước uống, giường chõng, thuốc men và các của cải khác với tâm không nhàm chán. Còn người học pháp thì ít muốn, vui đủ, tu hạnh viễn ly, dõng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm, định, tuệ, chán lợi dưỡng, sợ cung kính, danh dự. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người trì pháp thì ít muốn, vui đủ, tu hạnh viễn ly, dõng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm, định, tuệ, chán lợi dưỡng, sợ cung kính, danh dự. Còn người học pháp thì đầy đủ ác dục, ưa chuộng danh lợi, thích được cung kính cúng dường v.v... Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì đầy đủ mười hai công đức Đỗ đa (khổ hạnh hay hạnh đầu đà), đó là: Ở chỗ thanh vắng, thường khất thực, mặc y phấn tảo, nhận một bữa ăn, ăn một lần, ăn những gì xin được, ở bãi tha ma, ở nơi đồng trống, ở dưới gốc cây, thường ngồi không nằm, nghỉ đâu cũng được, chỉ giữ ba y; còn người học pháp thì không thọ mười hai công đức Đỗ đa. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì đầy đủ mười hai công đức Đỗ đa; còn người trì pháp thì không. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì có lòng tin, có thiện pháp, muốn vì người khác nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm, dùng phương tiện khuyên gắng ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập; còn người học pháp thì không có lòng tin, không có thiện pháp, không muốn lắng nghe, thọ trì. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì có lòng tin, có thiện pháp, cầu muốn lắng nghe, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Còn người trì pháp thì không có lòng tin, không có thiện pháp, không muốn dạy trao. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì tâm không keo kiệt, thường bố thí tất cả; còn người học pháp thì tâm keo kiệt, không bố thí gì cả. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì tâm không keo kiệt, thường bố thí tất cả; còn người trì pháp thì tâm keo kiệt, không bố thí gì cả. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người học pháp thì mong muốn cúng dường cho người trì pháp y phục, thức ăn nước uống, giường chõng, thuốc men và các thứ của cải khác. Nhưng người trì pháp thì không muốn thọ dụng. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người trì pháp thì mong muốn cung cấp cho người học pháp y phục, thức ăn nước uống v.v... Nhưng người học pháp thì không muốn thọ dụng. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì thành tựu khai trí, nhưng không muốn nói rộng; còn người học pháp thì thành tựu diễn trí không muốn nói lược. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì thành tựu khai trí, chỉ muốn nói tóm lược; còn người trì pháp thì thành tựu diễn trí chỉ muốn nói rộng. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì muốn hiểu biết rộng rãi về ý nghĩa mười hai phần giáo theo tuần tự, đó là: Khế Kinh, Ứng tụng, Biệt ký, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Bổn sự, Bổn sanh, Phương quảng, Hy pháp, Thí dụ, Nghị luận; còn người học pháp thì không muốn hiểu biết rộng rãi về ý nghĩa mười hai phần giáo theo tuần tự. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì muốn hiểu biết rộng rãi về ý nghĩa mười hai phần giáo theo tuần tự; còn người trì pháp thì không muốn hiểu biết rộng rãi mười hai phần giáo theo tuần tự. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì thành tựu bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật; còn người học pháp thì không thành tựu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì thành tựu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật; còn người trì pháp thì không thành tựu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì có phương tiện thiện xảo đối với sáu pháp Ba la mật; còn người học pháp thì không có phương tiện thiện xảo đối với sáu pháp Ba la mật. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì có phương tiện thiện xảo đối với sáu pháp Ba la mật; còn người trì pháp thì không có phương tiện thiện xảo đối với sáu pháp Ba la mật. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì muốn cung kính, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm. Còn người học pháp thì không muốn cung kính, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát Nhã thậm thâm. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, nghe, thọ, ghi chép, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì muốn cung kính, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Còn người trì pháp thì không muốn cung kính, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập… Bát Nhã thậm thâm. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thì đã lìa trần cấu keo kiệt, đã lìa các triền cái tham dục, sân nhuế, hôn trầm, ngủ nghỉ, dao động, ác tác (hối hận), nghi ngờ; còn người học pháp thì chưa lìa nổi các tật đố trên. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thì đã lìa các tật đố ác nghiệp trên; còn người trì pháp thì chưa lìa trần cấu keo kiệt. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế. Có người đến nói các sự khổ trong địa ngục, bàng sanh, ngạ quỷ, và nói: Ngay thân này, ông hãy tinh tấn diệt hết khổ để được vào Niết bàn, cần gì phải ở mãi trong biển lớn sanh tử, chịu trăm ngàn sự khổ khó kham nổi để mong cầu đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề! Các thiện nam, thiện nữ này, nếu do lời kia mà đối với việc ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm không được rốt ráo, thì nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. (Q. 440, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, có người đến khen ngợi nhiều việc tốt đẹp trong loài người, khen ngợi các việc thắng diệu của chúng trời Tứ đại vương cho đến trời Tha hóa tự tại; khen ngợi các việc thắng diệu của trời Phạm chúng cho đến trời Sắc cứu cánh; khen ngợi các việc thắng diệu trời Không vô biên xứ cho đến trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhân đó mà nói rằng: “Tuy hưởng các dục lạc ở cõi Dục, thọ các hỷ lạc tịnh lự ở cõi Sắc, thọ các diệu lạc tịch tịnh, đẳng chí (định) ở cõi Vô sắc, nhưng tất cả những thứ đó đều là pháp hữu vi, vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, biến hoại, pháp tận cùng, pháp rơi rụng, pháp xa lìa, pháp tiêu diệt. Sao các vị không nương thân này tinh tấn để chứng quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, hoặc Độc giác Bồ đề nhập Niết bàn rốt ráo an vui? Cần gì ở lâu trong sanh tử luân hồi, vô cớ vì người khác chịu các thống khổ để mong cầu đến Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Nếu các thiện nam, thiện nữ… này nghe theo lời ấy thì cho dù ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm cũng không được rốt ráo. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp thân không ràng buộc, chỉ chuyên chăm lo sự nghiệp riêng mình, không lo sự nghiệp người khác; còn người học pháp thì ưa lãnh đồ chúng, thích làm doanh nghiệp cho người, không lo sự nghiệp mình. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp thân không ràng buộc, chỉ chuyên chăm lo sự nghiệp riêng mình, không lo sự nghiệp người khác; còn người trì pháp thì ưa lãnh đồ chúng, thích làm doanh nghiệp cho người, không lo sự nghiệp mình. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp không thích ồn ào; còn người học pháp thì thích nơi ồn ào. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp không thích ồn ào; còn người trì pháp thì thích nơi ồn ào. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp muốn người học pháp hỗ trợ việc làm của mình; còn người học pháp thì không muốn theo ý thích của người kia. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp muốn người trì pháp hỗ trợ việc làm của mình; còn người trì pháp thì không muốn theo ý thích của người kia. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.  (Q.440, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp vì danh lợi nên muốn vì mọi người thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm; còn người học pháp biết hậu ý của người trì pháp nên không muốn theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật được. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp vì danh lợi nên muốn thỉnh người trì pháp thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nhưng người trì pháp biết thâm ý của người học pháp nên không chấp nhận lời thỉnh cầu. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp muốn đến nơi khác, chỗ đó nguy hiểm đến thân mạng; còn người học pháp thì sợ mất thân mạng nên không muốn đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp muốn đến nơi khác, chỗ đó nguy hiểm đến thân mạng; còn người trì pháp thì sợ mất thân mạng nên không muốn đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp muốn đến nơi khác, ở nước ấy có nhiều giặc cướp, bệnh dịch đói khát; còn người học pháp thì sợ khó khăn đó nên không chịu đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, Thiện Hiện! Người học pháp muốn đến nơi khác, ở nước ấy có nhiều giặc cướp, bệnh dịch, đói khát; còn người trì pháp thì sợ khó khăn đó nên không chịu cùng đi. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp muốn đến nơi khác yên ổn, giàu vui, không tai hoạnh; còn người học pháp muốn đi theo, người trì pháp dùng phương tiện thử: “Tuy ông vì lợi muốn đi theo tôi nhưng ông đến đó đâu chắc vừa lòng, nên suy nghĩ kỹ, sau chớ hối hận”. Người học pháp nghe rồi nghĩ: Người kia không muốn cho ta cùng đi, nếu cố đi theo đâu chắc được nghe pháp. Do đó không đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Thiện Hiện! Người trì pháp muốn đến nơi khác phải trải qua đường sá, đồng trống hiểm trở, có nhiều giặc cướp và chiên đà la, ác thú, thợ săn, rắn độc v.v... khủng bố. Người học pháp muốn đi theo người trì pháp dùng phương tiện thử: “Nay ông không việc gì mà phải theo tôi đi qua các chỗ hiểm nạn như thế, hãy suy nghĩ kỹ, sau chớ hối hận”. Người học pháp nghe rồi nghĩ: Người kia không muốn cho ta đi theo, nếu cố đi theo đâu chắc được nghe pháp. Do đó không đi theo. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật thậm thâm. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Người trì pháp có nhiều thí chủ thường đi theo; người học pháp đến thỉnh người trì pháp thuyết Bát nhã Ba la mật thậm thâm, hoặc thỉnh ghi chép, thọ trì, đọc tụng để tu học đúng pháp, người trì pháp viện nhiều lý do không rảnh dạy trao; người học pháp sanh tâm hờn ghét, sau dù có dạy trao cũng không nghe. Hai bên không hòa hợp, nên không được dạy trao, đọc tụng, tu tập… Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

 

(Ác ma huyễn dụ hay khuynh đảo nên việc tu tập Bát Nhã

không được trọn vẹn)

 

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ Tát, tìm cách phá hoại làm cho Bồ Tát không thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bằng cách nào ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ Tát, tìm cách phá hoại làm cho không được ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ Tát, tìm cách phá hoại làm cho Bồ Tát nhàm chán Bát nhã Ba la mật, không ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói. Ác ma còn nói: “Kinh điển vô tướng mà ông đã đọc tụng, tu tập chẳng phải là Bát nhã Ba la mật chơn thật; còn kinh điển hữu tướng mà ta đã đọc tụng, tu tập mới đúng là Bát nhã Ba la mật”. Khi ác ma nói lời này, các Bồ Tát chưa được thọ ký liền sanh nghi ngờ đối với Bát nhã Ba la mật. Do nghi ngờ nên người ấy sanh nhàm chán Bát Nhã. Do nhàm chán nên không ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ Tát nói: “Bồ Tát nào hành Bát Nhã này thì chỉ chứng thật tế, đắc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, quyết chắc không thể chứng Phật quả Vô thượng, cần gì phải chịu nhọc nhằn đối với việc tu tập kia, chỉ uổng công mà thôi”. Bồ Tát nghe rồi bèn chẳng ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, có nhiều ác ma làm trở ngại, ngăn cản sự mong cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Các Đại Bồ Tát nên quán sát kỹ mà tự xa lìa.

Khi ấy, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là ma sự gây trở ngại để cho các Bồ Tát biết rõ mà tự xa lìa?

Phật dạy:

- Này Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, có nhiều pháp môn trông tương tự như pháp Phật nhưng thật ra gây nhiều trở ngại. Trong đó Bồ Tát nên quán sát kỹ mà xa lìa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, có người đem kinh điển tương ưng Nhị thừa đến chỗ Bồ Tát nói: “Đây là lời chơn thật mà Như Lai đã nói: Người nào học pháp này sẽ mau chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Như vậy, cũng gọi là ma sự gây trở ngại. Bồ Tát nên quán sát kỹ mà xa lìa.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ Tát nói việc học, việc hành pháp nội không, ngoại không v.v...hoặc ba mươi bảy pháp trợ đạo, hoặc ba môn giải thoát v.v... của Nhị thừa. Ác ma nói pháp ấy rồi lại bảo Bồ Tát: “Đại sĩ nên biết, ông hãy nương pháp này mà tinh tấn tu học sẽ chứng quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề, sẽ được xa lìa tất cả sanh, lão, bệnh, tử, cần gì chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề”. Do đó làm cho Bồ Tát không ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Bí sô dung mạo đoan nghiêm, uy nghi, thư thả, đến chỗ Bồ Tát. Bồ Tát thấy liền sanh lòng ưa mến. Do đó nên giảm mất Nhất thiết tướng trí, không được nghe, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả tướng Phật, thân màu vàng ròng, tỏa ánh sáng một tầm, đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm viên mãn, đến chỗ Bồ Tát. Bồ Tát thấy liền sanh lòng ưa mến. Do đó nên giảm mất Nhất thiết tướng trí , không được lắng nghe, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả tướng Phật, tuyên thuyết pháp yếu cho các Bí sô vây quanh. Bồ Tát thấy liền sanh lòng ưa mến, và nghĩ: Ta nguyện đời sau sẽ thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, tuyên thuyết pháp yếu cho các Bí sô, giống như sự việc được thấy hôm nay. Do đó nên giảm mất Nhất thiết tướng trí, không được lắng nghe, ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát.

Lại nữa, Thiện Hiện! Có các ác ma giả dạng Đại Bồ Tát hoặc trăm, hoặc ngàn cho đến vô số, đầy đủ vô ngại biện tài, tướng hảo trang nghiêm. Từ thân ấy biến hóa thành Phật thuyết pháp, dạy chúng Đại Bồ Tát tu bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật. Hiện tướng như vậy rồi đến chỗ Bồ Tát. Bồ Tát thấy liền sanh lòng ưa mến. Do đó giảm mất Nhất thiết tướng trí, không được lắng nghe ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật. Nên biết đây là ma sự của Bồ Tát. Vì sao? Vì trong pháp Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, sắc vô sở hữu, bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Mười hai xứ, mười tám giới vô sở hữu, bất khả đắc. Nhãn xúc vô sở hữu, bất khả đắc; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra vô sở hữu, bất khả đắc; các thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sanh ra cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Địa giới vô sở hữu, bất khả đắc; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Vô minh vô sở hữu, bất khả đắc; hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử, sầu, than, khổ, ưu, não cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Cõi Dục vô sở hữu, bất khả đắc; cõi Sắc, Vô sắc cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Quá khứ vô sở hữu, bất khả đắc; vị lai, hiện tại cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp hữu lậu vô sở hữu, bất khả đắc; pháp vô lậu cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp hữu vi vô sở hữu, bất khả đắc; pháp vô vi cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp thế gian vô sở hữu, bất khả đắc; pháp xuất thế gian cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Bố thí vô sở hữu, bất khả đắc; tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp nội không cho đến vô tánh tự tánh không cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Chơn như vô sở hữu, bất khả đắc; pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Thánh đế khổ vô sở hữu, bất khả đắc; Thánh đế tập, diệt, đạo cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Bốn tịnh lự vô sở hữu, bất khả đắc; bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tám giải thoát vô sở hữu, bất khả đắc; tám thắng xứ, chín định thứ đệ, mười biến xứ cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Bốn niệm trụ vô sở hữu, bất khả đắc; bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy chi đẳng giác, tám chi Thánh đạo cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp môn giải thoát không vô sở hữu, bất khả đắc; pháp môn giải thoát vô tướng, vô nguyện cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tịnh quán địa vô sở hữu, bất khả đắc; Chủng tánh địa, Đệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ Tát địa, Như Lai địa cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Cực hỷ địa vô sở hữu, bất khả đắc; Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm tuệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện tuệ địa, Pháp vân địa cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Năm loại mắt vô sở hữu, bất khả đắc; sáu phép thần thông cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Phật mười lực vô sở hữu, bất khả đắc; bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Ba mươi hai tướng Đại trượng phu vô sở hữu, bất khả đắc; tám mươi vẻ đẹp cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Pháp không quên mất vô sở hữu, bất khả đắc; tánh luôn luôn xả cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Nhất thiết trí vô sở hữu, bất khả đắc; Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Thành thục hữu tình vô sở hữu, bất khả đắc; nghiêm tịnh cõi Phật cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Đại nguyện Bồ Tát vô sở hữu, bất khả đắc; thần thông Bồ Tát cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tất cả môn Đà la ni vô sở hữu, bất khả đắc; tất cả môn Tam ma địa cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Quả Dự lưu vô sở hữu, bất khả đắc; quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Tất cả Bồ Tát hạnh vô sở hữu, bất khả đắc; chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng như vậy.

Này Thiện Hiện! Nếu ở đây sắc vô sở hữu, bất khả đắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Như vậy, cho đến tất cả Bồ Tát hạnh vô sở hữu, bất khả đắc. Chư Phật Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề cũng vô sở hữu, bất khả đắc, thì ở ngay đây tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và các chúng Đại Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, các loại Dị sanh cũng vô sở hữu, bất khả đắc. Vì sao? Thiện Hiện! Vì tự tánh của tất cả pháp là không.

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, có nhiều trở ngại và tai hoạnh phát sanh khiến cho người phước mỏng học tập không thành tựu. Như châu Thiệm bộ có nhiều châu báu là phệ lưu ly (loại đá quí sắc xanh), loa bối (ốc quí), ngọc bích, san hô, mạt ni(ngọc ma ni), Đế thanh (ngọc xanh Đế Thích), kim cương, hổ phách, vàng, bạc v.v... nhưng có nhiều nạn giặc cướp nhiễu hại, nên những người phước mỏng cầu không thể được. Châu báu vô giá Bát nhã Ba la mật thậm thâm cũng như vậy. Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, nếu người phước mỏng thì sẽ gặp nhiều chướng ngại, có các ác ma gây trở ngại.

Cụ thọ Thiện Hiện liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy! Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy! Các bảo châu không phải ai cũng có thể có được. Bát nhã Ba la mật thậm thâm cũng như các bảo châu, các thiện nam, thiện nữ v.v… trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát nhã Ba la mật như thế, nếu người nào phước mỏng thì sẽ gặp nhiều trở ngại. Vì sao? Vì người ngu si bị ma sai sử, không thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói kinh Bát nhã Ba la mật được, sẽ bị nhiều trở ngại.

Bạch Thế Tôn! Người ngu si ấy tuệ giác lu mờ, không thể nghĩ bàn Phật pháp sâu rộng, đối với kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm tự mình không thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng v.v... Lại muốn ngăn chận người khác ghi chép, thọ trì, đọc tụng v.v… Bát nhã Ba la mật.

Phật dạy:

- Thiện Hiện! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói! Người ngu si sẽ bị ma sai xử! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng v.v… Bát nhã Ba la mật sẽ gặp trở ngại.

Này Thiện Hiện! Người ngu si kia tuệ giác lu mờ, không thể nghĩ bàn Phật pháp sâu rộng, vì chưa trồng thiện căn, chưa phát nguyện rộng lớn, bị bạn ác khống chế, phước đức mỏng nên đối với kinh điển Bát nhã Ba la mật tự mình không thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói. Các thiện nam, thiện nữ v.v… tân học Đại thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế sẽ gặp nhiều trở ngại.

Thiện Hiện! Đời tương lai có các thiện nam, thiện nữ v.v… tuệ giác lu mờ, thiện căn mỏng, bị bạn ác khống chế, đối với công đức rộng lớn của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không thể tin hiểu được, đối với kinh điển Bát nhã Ba la mật thậm thâm tự mình không thể ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, vì người diễn nói. Lại muốn ngăn các thiện nam, thiện nữ khác ghi chép, thọ trì, đọc tụng… Bát nhã Ba la mật. Nên biết người này bị vô lượng tội. (Q.441, ĐBN)

Lại nữa, Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ… trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế sẽ gặp nhiều ma sự gây trở ngại, làm cho việc ghi chép, thọ trì, đọc tụng v.v… không thành tựu và không thể viên mãn Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật. Không thể viên mãn pháp nội không cho đến vô tính tự tính không. Không thể viên mãn chơn như, pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư vọng, tánh chẳng đổi khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, cảnh giới hư không, cảnh giới bất tư nghì, không thể viễn mãn Nhất thiết trí, Đạo chủng Trí, Nhất thiết chủng trí…  cho đến quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Nói rộng ra, không thể viên mãn tất cả pháp Phật, không thể viên mãn các công đức này cũng do ác ma làm trở ngại. 

Này Thiện Hiện! Các thiện nam, thiện nữ trụ Bồ Tát thừa, khi ghi chép, thọ trì, đọc tụng Bát nhã Ba la mật thậm thâm như thế, nếu không bị ác ma làm trở ngại thì có thể viên mãn Bát Nhã, tịnh lự, tinh tấn, an nhẫn, tịnh giới, bố thí Ba la mật, cho đến viên mãn Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Nên biết đều nhờ thần lực Như Lai gia hộ khiến họ ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật không bị chướng ngại. Cũng khiến cho họ viên mãn sáu pháp Ba la mật, cho đến viên mãn ba Thánh trí kia.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hiện tại tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong mười phương đang thanh tịnh thuyết pháp cũng dùng thần lực gia hộ các thiện nam, thiện nữ này, giúp họ ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật như thế đều không bị chướng ngại. Cũng khiến cho họ viên mãn sáu pháp Ba la mật và ba Thánh trí kia.

Lại nữa, Thiện Hiện! Hiện tại trong mười phương hằng hà sa số chư Phật ở các thế giới và tất cả chúng đại Bồ Tát Bất thối chuyển cũng dùng thần lực gia hộ các thiện nam, thiện nữ này, giúp họ ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật như thế đều không bị chướng ngại. Cũng khiến cho họ viên mãn sáu pháp đáo bỉ ngạn cùng viên mãn ba Thánh trí kia.

 

Thích nghĩa:

(1). Người trì pháp: Người giữ gìn Phật pháp.

 

Sơ giải:

 

Phẩm “Chẳng Hòa Hợp” của Hội thứ II này tương đương với phần sau phẩm “Ma Sự”, tức cuối quyển 303 cho đến quyển 304, Hội thứ I, ĐBN, chẳng qua là nói về sự bất đồng quan điểm trong vấn đề học tập Bát nhã Ba la mật hay quan niệm sống của người nói pháp và người thỉnh pháp hay nói khác giữa thầy và trò, đã được tóm lược và giảng rõ trong Hội thứ I, ĐBN.

Phẩm này của Hội thứ II tương đương với phẩm thứ 47, “Lưỡng Bất Hòa Hợp”, tập 4, quyển 68, Đại Trí Độ Luận.

 

1.      Lưỡng bất hòa hiệp:

 

Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ 47, có phẩm tựa là “Lưỡng Bất Hòa Hợp”, giải thích về hòa hợp như sau:

“Hết thảy các pháp hữu vi đều hội đầy đủ các duyên hòa hợp mới có. Khi có đủ các duyên hòa hợp, thì sanh; khi các duyên tan rã, thì diệt.

Thọ trì, đọc tụng, biên chép... dẫn đến tu tập Bát nhã Ba la mật, cũng như vậy. Phải hòa hợp đầy đủ các nội ngoại nhân duyên, phải có sự đồng tâm, nhất trí giữa thầy và trò, thì pháp sự mới thành tựu được.

Phật dạy: Người nghe pháp phải hội đủ: “Tín, tấn, niệm, định, huệ”, thì sự thọ trì, đọc tụng, biên chép... dẫn đến chánh ức niệm, tu tập Bát nhã Ba la mật mới đạt được kết quả mong muốn”.

Bất cứ việc học hành trau đổi giữa thầy trò mà đi ngược với chỉ dẫn như trên thì có thể xem như “bất hòa hợp”. Thí dụ như:

 

Người thuyết pháp đối với sáu phép Ba la mật có phương tiện thiện xảo, còn người nghe pháp đối với sáu phép Ba la mật không có phương tiện thiện xảo, hai bên chẳng hòa hợp, nên biết đó là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, người nghe pháp đối với sáu phép Ba la mật có phương tiện thiện xảo còn người thuyết pháp đối với sáu phép Ba la mật không có phương tiện thiện xảo; hai bên chẳng hòa hợp, nên biết đó là ma sự.

Người thuyết pháp muốn sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm, còn người nghe pháp chẳng muốn sao chép, thọ trì v.v…, hai bên chẳng hòa hợp, sự thuyết pháp học hỏi không thành, nên biết đó là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, người nghe pháp muốn được sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thậm thâm, còn người thuyết pháp chẳng muốn, hai bên chẳng hòa hợp, sự thuyết pháp học hỏi chẳng thành, nên biết đó là ma sự.

Người thuyết pháp thì đầy dẫy ác dục, quá ham mê danh lợi, còn người nghe pháp thì thiểu dục tri túc, tu hạnh viễn ly, dũng mãnh tinh tấn, đầy đủ niệm tuệ, chán sợ lợi dưỡng, chán sự cung kính, danh dự; hai bên chẳng hòa hợp, chẳng thành sự thuyết, nghe, sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật thì nên biết đó là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, người thuyết pháp tu hành chính chắn, không mê vật dục, đầy đủ niệm tuệ trong khi người thọ pháp đầy dẫy ác dục, ham mê vật chất danh lợi. Hai bên không hòa hợp nên sự truyền pháp không thành.

Người thuyết pháp một thân không hệ lụy, vô ngại tự tại, còn người nghe pháp thì liên hệ nhiều người, bị níu kéo ràng buộc; hai bên chẳng hòa hợp, sự nghe nói sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, người nghe pháp một thân không hệ lụy, vô ngại tự tại, còn người nói pháp thì liên hệ nhiều người, bị níu kéo ràng buộc; hai bên chẳng hòa hợp, sự thuyết pháp học hỏi chẳng thành, nên biết đó là ma sự của Bồ Tát.

Người thuyết pháp thì chẳng ưa tụ hội, ồn náo, còn người nghe thì thích ở chỗ tụ hội ồn náo hay ngược lại; hai bên chẳng hòa hợp, nên biết đó là ma sự của Bồ Tát.

Người thuyết pháp thích du phương thuyết pháp, không kể chốn nguy hiểm đến thân mạng, còn người nghe lại sợ mất thân mạng, chẳng dám đi theo hay ngược lại; hai bên chẳng hòa hợp, nên biết đó là ma sự của Bồ Tát. Trái lại, người thuyết pháp thích du phương thí pháp mặc dù biết chốn ấy nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, còn người nghe pháp thì lo nơi ấy gian khổ, nên chẳng cùng đi; hai bên chẳng hòa hợp, nên biết đó là ma sự của Bồ Tát, v.v…

Đại Trí Độ Luận thuyết rằng:

“Chỗ hành pháp phải tương ứng với nhau, thì giữa người thuyết pháp và người nghe pháp mới có được sự hài hòa, an lạc, đem lại nhiều lợi lạc.

Nếu trái lại, giữa người thuyết pháp và người nghe pháp chẳng có sự hòa hợp, thì sự trao pháp và thọ pháp chẳng sao thành tựu được”.

Đó là những tóm tắt sơ lược về bất hòa hợp làm trở ngại trong việc sao chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập Bát nhã Ba la mật không được thành tựu viên mãn mà Kinh cho là ma sự. Nếu sớm biết, cảnh tỉnh, sửa sai thì tránh được những rạn nứt gây đổ vỡ hòa hợp tăng, nếu câu chấp hiềm khích nhau mãi thì đến một lúc nào đó sẽ có người lặng lẽ mở cửa sau chùa “giong mất”.

 

2. Ác ma giả dạng phá hoại tâm Bồ đề:

 

Ngoài ra Kinh cũng đề cập đến những trở ngại khác là ác ma giả dạng Bí sô đến chỗ Bồ Tát tìm cách phá hoại tâm Bồ đề. Đó cũng gọi là ma sự của Bồ Tát.

“Như ác ma giả dạng Bí sô hay giả dạng làm Phật, thân toàn màu vàng, hào quang một tầm, đầy đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu, tám mươi vẻ đẹp để tự trang nghiêm đến chỗ Bồ Tát tuyên nói pháp tương ưng Nhị thừa, đó là bốn Thánh đế, bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tám giải thoát v.v… nói pháp ấy rồi, lại bảo Bồ Tát: Này Đại sĩ! Nên biết, phải nương vào pháp nầy tinh cần tu học có thể đắc quả Thanh văn hoặc quả vị Độc giác, xa lìa tất cả sanh, lão, bệnh, tử; cần gì đắc quả vị Giác ngộ tối cao. Đó là các ma sự làm cản trở việc thọ trì, đọc tụng Bát Nhã cần phải cảnh giác xa tránh”.

Nếu những thiện nam thiện nữ nào đọc tụng thọ trì kinh Bát nhã Ba la mật thì chư Phật đang thuyết pháp ở 10 phương dùng thần lực gia hộ các thiện nam, thiện nữ này, giúp họ ghi chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập, tư duy, diễn nói Bát nhã Ba la mật như thế đều không bị chướng ngại. Cũng khiến cho họ viên mãn sáu pháp Ba la mật và các Thánh pháp khác.

 

Phẩm này dễ hiểu, không cần giảng luận dong dài. Tất cả những gì ghi trên chỉ là tóm tắt phẩm “Lưỡng Bất Hòa Hợp” không hơn không kém./.

 

---o0o---

  


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567