Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Thứ XV

13/03/202114:38(Xem: 6365)
Hội Thứ XV

 TỔNG LUẬN
 KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT

 Biên soạn: Cư Sĩ Thiện Bửu

Trang Nhà Quảng Đức bắt đầu online tháng 4/2022

***

buddha-549

 

 

HỘI THỨ XV.

 

Biên soạn: Lão Cư sĩ Thiện Bửu
Diễn đọc: Cư sĩ Quảng Tịnh, Cư sĩ Quảng Thiện Duyên
Lồng nhạc: Cư sĩ Quảng Phước, Cư sĩ Quảng Thiện Hùng Jordan Le

 

 

 

(Bố cục)

 

 

15. Hội thứ XV: Phần “Tĩnh Lự Ba La Mật”, 2 quyển. Nội dung đức Phật ở trong hội Linh sơn nói về tất cả thiền định như: Tứ thiền, Bát giải thoát, Cửu thứ đệ định v.v... đồng thời, Ngài nói về Không Bát Nhã tam muội cho các tôn giả Xá lợi Phất và Mãn từ Tử nghe. Theo Khai Nguyên Thích Giáo lục, bản tiếng Phạm của hai hội thứ XI, XII mỗi hội là 2.000 kệ tụng, hai hội thứ XIII, XIV, mỗi hội 400 kệ tụng, hội thứ XV có 800 kệ tụng. Nhưng Pháp Uyển Châu lâm bảo bản tiếng Phạm của hội thứ XIV có 800 kệ tụng.

 

---o0o--- 

 

 

PHẦN “TĨNH LỰ BA LA MẬT”

 

Dẫn nhập:

 

Hội thứ XV nói về “Tĩnh Lự Ba La Mật”, gồm hai quyển: Quyển 591 và  quyển 592. Vì hai quyển này có giáo lý khác nhau nên chúng tôi sơ lược và dẫn giải làm hai phần khác nhau như các phần bố thí, trì giới Ba la mật nói trên. Ý nghĩa và thực hành các pháp môn thiền định đã được Kinh ĐBN trình bày nhiều lần. Phần “Tĩnh Lự Ba La Mật” này chỉ đúc kết lại. Nên không cần phải dài dòng vô ích. Chỉ cần biết Giới là hàng rào ngăn chận tội lỗi từ ngoài vào và Định là hàng rào ngăn chận tội lỗi từ trong ra. Tội lỗi làm thân tâm giao động. Thân tâm giao động thì huệ không sanh, huệ chỉ sanh khi tâm định, chẳng khác nào như đèn trước gió bị chao động, không thể tỏa ánh sáng rộng lớn. Đèn trong nhà kín, ánh sáng mới tỏa rộng. Vì vậy, nên nói do thiền định, tâm được thanh tịnh nên huệ mở.

 

---o0o---

 

Tóm lược:

 

Quyển thứ 591

 

Tôi nghe như vầy:

Một thuở đức Bạc già phạm cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Bí sô trú trong núi Thứu Phong, tại thành Vương Xá.

Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, làm cách nào để an trụ trong tĩnh lự Ba la mật?

Phật dạy:

- Xá lợi Tử! Đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, trước nên vào sơ tĩnh lự. Đã vào sơ tĩnh lự như vậy rồi, nên nghĩ như vầy: Ta từ sanh tử vô thỉ đến nay luôn luôn nhập tĩnh lự như thế, làm việc nên làm, thân tâm vắng lặng, nên ta có ơn đối với tĩnh lự này. Nay lại làm việc nên làm, đây là chỗ nương tựa tất cả công đức.

Kế đến nên nhập tĩnh lự thứ hai. Đã vào tĩnh lự thứ hai như vậy rồi, nên nghĩ như vầy: Ta từ sanh tử vô thỉ đến nay luôn luôn nhập tĩnh lự như thế, làm việc nên làm, thân tâm vắng lặng, nên ta có ơn đối với tĩnh lự này. Nay lại làm việc nên làm, đây là chỗ nương tựa tất cả công đức.

Kế đến nên nhập tĩnh lự thứ ba. Đã vào tĩnh lự thứ ba như vậy rồi, nên nghĩ như vầy: Ta từ sanh tử vô thỉ đến nay luôn luôn nhập tĩnh lự như thế, làm việc nên làm, thân tâm vắng lặng, nên ta có ơn đối với tĩnh lự này. Nay lại làm việc nên làm, đây là chỗ nương tựa tất cả công đức.

Kế đến nên nhập tĩnh lự thứ tư. Đã vào tĩnh lự thứ tư như vậy rồi, nên nghĩ như vầy: Ta từ sanh tử vô thỉ đến nay luôn luôn nhập tĩnh lự như thế, làm việc nên làm, thân tâm vắng lặng, nên ta có ơn đối với tĩnh lự này. Nay lại làm việc nên làm, đây là chỗ nương tựa tất cả công đức.

Đã nhập bốn tĩnh lự như thế rồi, đại Bồ Tát lại nên suy nghĩ: Bốn tĩnh lự này đối với các đại Bồ Tát có ơn đức lớn và cũng là nơi nương tựa cho các đại Bồ Tát. Nghĩa là khi sắp đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, các đại Bồ Tát đều lần lượt nhập bốn tĩnh lự này. Đã nhập bốn tĩnh lự như vậy rồi, nương vào tĩnh lự thứ tư phát ra năm thần thông, chiến thắng ma quân, thành Vô thượng giác.

Đại Bồ Tát này nghĩ như vầy: Xưa kia, chúng đại Bồ Tát đều tu tập tĩnh lự Ba la mật, ta cũng nên tu. Xưa kia, chúng đại Bồ Tát đều học tĩnh lự Ba la mật, ta cũng nên học. Xưa kia, chúng đại Bồ Tát đều nương tĩnh lự Ba la mật, theo ý thích phát ra Bát nhã Ba la mật, ta cũng nên nương tĩnh lự Ba la mật như thế, theo ý thích phát ra Bát nhã Ba la mật.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Tất cả các đại Bồ Tát đều nương tĩnh lự thứ tư, phương tiện hướng đến Chánh tánh ly sanh, chứng ngộ chơn như, xả tánh phàm phu. Tất cả các đại Bồ Tát đều nương vào tĩnh lự thứ tư, phương tiện phát ra định Kim cương dụ, trừ sạch các lậu hoặc, chứng trí Như Lai.

Thế nên phải biết tĩnh lự thứ tư có ơn đức lớn đối với các đại Bồ Tát, hay làm cho các đại Bồ Tát ban đầu nhập vào Chánh tánh ly sanh, chứng nhập chơn như, xả tánh phàm phu, cuối cùng chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Do đó, chúng đại Bồ Tát luôn nhập vào tĩnh lự thứ tư.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Tất cả chúng đại Bồ Tát an trụ vào bốn thứ tĩnh lự như thế, làm phương tiện thù thắng dẫn dắt đến các công đức. Như vậy, các đại Bồ Tát nương vào tĩnh lự thứ tư sanh tưởng Không vô biên xứ, dẫn đến định Không vô biên xứ. Như vậy, các đại Bồ Tát nương vào định Không vô biên xứ, sanh tưởng Thức vô biên xứ, dẫn đến định Thức vô biên xứ. Như vậy, chúng đại Bồ Tát nương vào định Thức vô biên xứ, sanh tưởng Vô sở hữu xứ, dẫn đến định Vô sở hữu xứ. Như vậy, chúng đại Bồ Tát nương vào định Vô sở hữu xứ, sanh tưởng Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, dẫn đến định Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ.

Tuy đang nhập bốn định vô sắc nhưng chúng đại Bồ Tát không đắm nhiễm vào bốn định vô sắc, cho đến không mong sanh nơi cảnh giới tốt đẹp thù thắng của định này.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát vì quán nghĩa nào mà hiện nhập Diệt thọ tưởng định nhưng lại không nhập?(1)

Phật dạy:

- Xá lợi Tử! Vì các đại Bồ Tát sợ rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác nên không nhập vào định Diệt thọ tưởng. Rồi đắm nhiễm vào sự an vui tịch tĩnh của định này, liền vui mừng chứng nhập quả A la hán hay quả Độc giác, vào Bát Niết bàn.

Các đại Bồ Tát quán sự việc như vậy, nên tuy hiện nhập Diệt thọ tưởng định nhưng lại không hiện nhập.

Xá lợi Tử bạch Phật:                                 

- Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có thay! Các đại Bồ Tát hay làm việc khó làm, nghĩa là dù đang nhập các định như vậy nhưng không đắm trước vào các định. Dù đang nhập các định hay sanh công dụng thù thắng nhưng lại không lìa nhiễm.

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy, đúng như lời ngươi nói. Thật hiếm có! Các đại Bồ Tát hay làm việc khó làm.

Lại nữa, này Xá lợi Tử! Thật hiếm có thay! Các đại Bồ Tát, nghĩa là dù đang nhập vào bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui nhưng lại không đắm trước, cũng không lìa nhiễm. Nay Ta nói tóm lược bằng ví dụ cho ngươi được hiểu trọn vẹn nghĩa này.

Như có người sanh ở châu Thiệm bộ, tuy đối với cõi Dục chưa được lìa nhiễm, nhưng được qua châu Bắc Câu lô, nhân thấy người nữ châu kia dung mạo đoan chính, dạo chơi tự tại. Lại thấy châu kia y phục và vật trang sức xinh đẹp trang nghiêm đều từ cây sanh ra. Lại thấy châu kia có gạo thơm mùi vị ngon ngọt, không phải trồng trọt mà tự mọc lên.

Lại còn thấy châu kia, chạm vào chỗ nào cũng có các loại ngọc báu rất xinh đẹp và người ở châu đó tùy ý thọ dụng các vật dụng như thế một cách tự do, khi đang thọ dụng không chút đắm nhiễm, đã thọ dụng rồi liền vứt bỏ mà không luyến tiếc. Người ở châu Thiêm bộ này tuy chưa lìa nhiễm, nhưng khi thấy đầy đủ các sự việc tốt đẹp kia vẫn không tham đắm, vứt bỏ quay về. Nên biết người này rất hiếm có.

Như vậy, dù đang nhập bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, đã thấy trong ấy phát sanh các công đức thù thắng vắng lặng, vi diệu nhưng các đại Bồ Tát không đắm trước mà còn trở lại cõi Dục, dùng phương tiện thiện xảo nương thân cõi Dục, siêng năng tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật.

Siêng năng tinh tấn tu học quán 18 pháp không, các pháp chơn như, pháp giới, pháp tánh, v.v... Siêng năng tinh tấn tu học quán 12 duyên khởi theo hai chiều thuận nghịch, quán Tứ đế, tu học quán bốn vô lượng từ, bi, hỷ, xả, 37 pháp trợ đạo, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ. Siêng năng tinh tấn tu học pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện, tu học trí Tam thừa cộng thập địa hay thập địa Bồ Tát. Tu học pháp môn Đà la ni, Tam ma địa, tinh tấn tu học năm loại mắt, sáu phép thần thông, Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, ba mươi hai tướng Đại sĩ, tám mươi vẻ đẹp, pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả, Tinh tấn tu học Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Siêng năng tinh tấn tu học các trí thiện xảo của quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Siêng năng tinh tấn tu học tất cả hạnh Bồ Tát, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật, cũng khuyên hữu tình tu các thiện pháp như trên. Những việc như thế rất hiếm có.

Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì lý do gì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hứa cho các đại Bồ Tát bỏ bậc thắng định vắng lặng an vui, trở lại thọ thân hèn kém cõi Dục?

Phật bảo:

- Này Xá lợi Tử! Pháp của chư Phật là vậy, không cho các đại Bồ Tát sanh trời Trường thọ. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Không cho các đại Bồ Tát sanh trời Trường thọ, vì ở đó họ xa lìa việc tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô biên các Bồ đề phần pháp khác. Do đây, chậm chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề đã mong cầu. Cho nên, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hứa cho các đại Bồ Tát bỏ bậc thắng định vắng lặng an vui, trở lại thọ thân hèn kém cõi Dục mà không cho chúng đại Bồ Tát sanh ở trời Trường thọ bỏ mất bản nguyện.

Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát rất là hiếm có hay làm được việc khó làm, nghĩa là bỏ thắng định vắng lặng an vui, trở lại thọ thân hèn kém ô uế cõi Dục, mục đích hóa độ chúng sanh, nên nói rất hiếm có, làm được việc khó làm.                

Phật dạy:

- Này Xá lợi Tử! Đúng vậy, các đại Bồ Tát bỏ thắng địa, thọ thân cõi Dục, nên biết đó là phương tiện thiện xảo. Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì các đại Bồ Tát này cần cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, xả thân thắng địa trở lại sanh cõi Dục, phát sanh ý tốt, phương tiện thiện xảo, dù quán tánh sắc uẩn thường, vô thường đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn thường, vô thường cũng đều bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh sắc uẩn vui, không vui đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn vui, không vui cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

quán tánh sắc uẩn ngã, vô ngã đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn ngã, vô ngã cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh sắc uẩn tịnh, bất tịnh đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn tịnh, bất tịnh cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh sắc uẩn Không, bất Không đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn Không, bất Không cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh sắc uẩn tướng, vô tướng đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn tướng, vô tướng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh sắc uẩn nguyện, vô nguyện đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn nguyện, vô nguyện cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh sắc uẩn viễn ly, không viễn ly đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn viễn ly, không viễn ly cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh sắc uẩn vắng lặng, không vắng lặng đều bất khả đắc và quán tánh thọ, tưởng, hành, thức uẩn vắng lặng, không vắng lặng cũng bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh 12 xứ, 18 giới, thường-vô thường, vui-không vui, ngã-vô ngã, tịnh-bất tịnh, Không-bất Không, tướng-vô tướng, nguyện-vô nguyện, viễn ly-không viễn ly, vắng lặng-không vắng lặng đều bất khả đắc nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh nhãn xúc thường-vô thường, vui-không vui, ngã-vô ngã, tịnh-bất tịnh, Không-bất Không, tướng-vô tướng, nguyện-vô nguyện, viễn ly-không viễn ly, vắng lặng-không vắng lặng đều bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra xúc thường-vô thường, vui-không vui, ngã-vô ngã, tịnh-bất tịnh, Không-bất Không, tướng-vô tướng, nguyện-vô nguyện, viễn ly-không viễn ly, vắng lặng-không vắng lặng đều bất khả đắc, nhưng không lìa Nhất thiết trí trí.

Dù quán tánh lục đại chủng, bốn duyên và các pháp từ duyên sanh ra, cũng lại như thế đều bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử:

- Thưa Tôn giả! Vì lý do gì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác cho các đại Bồ Tát nhập 4 tĩnh lự, 4 định vô sắc mà không cho các đại Bồ Tát ở lâu trong ấy tâm sanh nhiễm trước?

Xá lợi Tử đáp:

- Thưa Tôn giả! Không cho các đại Bồ Tát sanh tâm nhiễm trước đối với bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc và sanh trời ở Trường thọ; cho đến Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không muốn các đại Bồ Tát sanh tâm nhiễm trước bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc và ở lâu trong ấy. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu sanh cõi Dục thì mau được viên mãn Nhất thiết trí trí, còn sanh cõi Sắc, Vô sắc không có được như vậy.

Mãn Từ Tử liền thưa Xá lợi Tử!

- Thưa Tôn giả! Các Bồ Tát rất là hiếm có, làm được việc khó làm. Nghĩa là các Bồ Tát trụ thắng định rồi, trở lại xả bỏ để thọ pháp thấp kém. Ví như có người gặp kho tàng được chôn giấu, tay nắm ngọc báu lại vứt bỏ đi. Về sau, lúc thấy vỏ sò, người kia liền lượm lấy đem vào nhà. Cũng vậy, chúng đại Bồ Tát nhập bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, tùy ý dạo đi hay dừng nghỉ, sau vứt bỏ đi, trở lại sanh cõi Dục, tiếp nhận mọi thứ thấp kém của thân tâm, rồi nương vào đó để tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô biên các Bồ đề phần pháp.

Thấy được sự việc này, nên đức Phật không cho các đại Bồ Tát sanh trời ở Trường thọ, sanh ở cõi Dục mới có thời gian lâu dài mà tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô biên các Bồ đề phần pháp, do đây mau được Nhất thiết trí trí.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con thưa với Thế Tôn như thế, há chẳng làm sáng tỏ được Phật là bậc thật ngữ, là bậc pháp ngữ, là bậc có khả năng đang nói pháp tùy pháp sao?

Phật dạy Mãn Từ Tử:

- Này Mãn Từ Tử! Nay đối với Ta, ngươi nói lời như vậy thì chẳng phải đã làm sáng tỏ Như Lai là bậc thật ngữ, là bậc pháp ngữ, là bậc có khả năng đang nói pháp tùy pháp. Vì sao? Này Mãn Từ Tử! Vì nếu các Bồ Tát sanh cõi trời Trường thọ, thì không thể tu hành công đức như thế được, không thể mau được Nhất thiết trí trí.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu các Bồ Tát nhập bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, thì các Bồ Tát này không có ý nghĩ như vầy: Do định này ta sanh cõi Sắc, Vô sắc. Cũng chẳng suy gẫm do tĩnh lự và định vô sắc ta vượt khỏi Sắc, Vô sắc.

Các Bồ Tát nhập bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, chỉ muốn phát khởi thần thông tự tại, làm nhiều lợi ích cho các hữu tình, cũng muốn điều phục thân tâm nặng nề, thô kệch để có thể tu đạt các công đức.

Các đại Bồ Tát này nhập các thắng định vắng lặng an vui, dùng phương tiện thiện xảo thọ thân cõi Dục, đối với các thắng định cũng không lui mất. Vì vậy, các đại Bồ Tát chẳng vượt ba cõi và cũng chẳng nhiễm trước, dùng phương tiện thiện xảo thọ thân cõi Dục, làm lợi ích cho hữu tình, gần gũi chư Phật, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Khi ấy, Mãn Từ Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng lẽ Nhất thiết trí trí của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã vượt khỏi ba cõi?

Phật dạy:

- Này Mãn Từ Tử! Đúng vậy! Như lời ngươi nói. Như Lai đã được Nhất thiết trí trí vượt khỏi ba cõi, không còn lệ thuộc ba cõi đó! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không cho các đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, ra khỏi pháp ba cõi hoàn toàn.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác quán nghĩa nào mà cho các đại Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an trụ vào tĩnh lự Ba la mật, và chẳng cho các đại Bồ Tát ra khỏi pháp ba cõi hoàn toàn?

Phật dạy Mãn Từ Tử:

- Này Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an trụ tĩnh lự Ba la mật, nếu Như Lai hứa cho vượt khỏi ba cõi, thì họ liền thối lui thệ nguyện Bồ Tát, mà an trụ địa vị Thanh văn hay Độc giác. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thấy sự việc như thế, nên hứa cho các đại Bồ Tát cầu chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, an trụ vào tĩnh lự Ba la mật, mà không cho các Đại Bồ Tát ra khỏi pháp ba cõi hoàn toàn, không bỏ mất bản nguyện của Bồ Tát, để lui trụ địa vị Thanh văn hay Độc giác.

Lại nữa, Mãn Từ Tử! Nếu khi các đại Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề các hạnh viên mãn, thì lúc bấy giờ các đại Bồ Tát mới nên rốt ráo bỏ pháp ba cõi. Do đó chứng đắc Nhất thiết trí trí. Vì vậy, nên Ta nói Nhất thiết trí trí vượt khỏi ba cõi, không còn lệ thuộc ba cõi.

Này Mãn Từ Tử! Nếu đại Bồ Tát tùy chỗ sanh mà bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô biên các Bồ đề phần pháp khác, và quán sát lý thú sâu xa 18 pháp không và chân như, pháp giới, pháp tánh v.v..., thì mỗi mỗi đều phát tâm không nhiễm trước, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí. Do nhân duyên ấy, Bồ Tát này bỏ dần pháp ba cõi để lần lượt gần gũi Nhất thiết trí trí.

Thích nghĩa cho quyển 591:

(1). Quangduc.com dịch: “Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát vì quán nghĩa nào mà hiện nhập định Diệt thọ tưởng nhưng lại không nhập?”. Không những quangduc.com, tuvienquangduc.com, thuvienhoasen.org cũng dịch tương tự như vậy. Nguyên văn chữ Hán trong Hoavouu.com là: Thế Tôn chư Bồ Tát Ma Ha Tát quán nghĩa cố 。雖tuy năng hiện nhập diệt thọ tưởng định nhi bất hiện nhập”.

Nếu dịch sát nghĩa thì có thể dịch: Bạch Thế Tôn các chư Bồ Tát Ma ha tát tuy năng nhập Diệt thọ tưởng định nhưng không hiện nhập.

Tuy có thể dịch như vậy, nhưng ý nghĩa cũng không được sáng tỏ lắm. Diệt thọ tưởng định là một thứ định dùng đình chỉ cảm quan và ý thức, tức lìa cảnh nhưng không rời định. Thí dụ: Người muốn nhập Nhất thiền thì trước hết phải nhập vào Diệt thọ tưởng định trước để tâm không bị ngoại cảnh chi phối, rồi từ Diệt thọ tưởng định mới nhập vào Sơ thiền. Sau khi nhập vào Sơ thiền xong, muốn vào Nhị thiền thì phải xả Sơ thiền để nhập vào Diệt thọ tưởng định, rồi từ Diệt thọ tưởng định mới nhập vào Nhị Thiền. Cứ xuất nhập như vậy cho đến Tứ thiền. Khi thiền xong, muốn xả thiền thì phải xả Tứ thiền để vào Diệt thọ tưởng định, rồi từ Diệt thọ tưởng định lại nhập vào Tam thiền, đi ngược lại cho đến Sơ thiền. Để chấm dứt buổi thiền, hành giả phải xả Sơ thiền vào Diệt thọ tưởng định, rồi xả Diệt thọ tưởng định để trở lại trạng thái bình thường. Nếu ở luôn trong thiền hay định thì gọi là nhập diệt hay vào Niết bàn! Đó là lý do để giải thích câu “chư Bồ Tát Ma ha tát tuy năng nhập Diệt thọ tưởng định nhưng không hiện nhập”. Vì nếu làm như vậy là “trốn chạy”, không chịu dấn thân cứu khổ chúng sanh.

 

Lưu ý:

Dịch giả đôi khi dịch là Diệt thọ tưởng định, đôi khi dịch là “Diệt tận định”(滅盡定-Phạm: Nirodha-samàpatti). Cụm từ phổ thông là Diệt tận định. Đó là định của Thánh giả, khác với định của phầm phu là Diệt tưởng định. Chúng tôi đã thích nghĩa nhiều lần.

 

Lược giải:

 

1. Bồ Tát nên an trụ tĩnh lự như thế nào để chứng

Vô Thượng Bồ đề?

 

Nếu đại Bồ Tát muốn chứng Vô Thượng Bồ đề, làm cách nào để an trụ tĩnh lự Ba la mật?

Đại Bồ Tát nào muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, trước nên vào sơ tĩnh lự, rồi qua tĩnh lự thứ hai, kế đến nhập tĩnh lự thứ ba, sau cùng nhập vào tĩnh lự thứ tư. Nhờ vậy, mà thân tâm được vắng lặng, nên nói tĩnh lự đối với Bồ Tát là ơn đức lớn, là chỗ nương tựa của tất cả các công đức.

Các Bồ Tát đã nhập bốn tĩnh lự như vậy rồi, nương vào tĩnh lự thứ tư phát ra năm thần thông, chiến thắng ma quân, phương tiện hướng đến Chánh tánh ly sanh, chứng ngộ chơn như, xả tánh phàm phu, phát ra Kim cương dụ định, trừ sạch các lậu hoặc, chứng Như Lai trí, cuối cùng chứng đắc sự mong cầu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Tất cả các đại Bồ Tát an trụ 4 thứ tĩnh lự như thế khởi phương tiện dẫn đến công đức thù thắng. Các đại Bồ Tát nương tĩnh lự thứ tư khởi tưởng Không vô biên xứ, dẫn đến định Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, cuối cùng dẫn vào định Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Như vậy, các đại Bồ Tát dù thường hiện vào tứ thiền, tứ định vô sắc mà chẳng đắm nhiễm, cũng không mong tái sanh nơi thù thắng của các định này.

Xá lợi Tử bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát quán nghĩa nào mà hiện nhập Diệt thọ tưởng định (còn gọi là Diệt tận định) nhưng lại không hiện nhập?”

Phật dạy: “Xá lợi Tử! Vì các đại Bồ Tát sợ rơi vào địa vị Thanh văn, Độc giác nên không hiện nhập Diệt thọ tưởng định. Nếu hiện nhập Diệt thọ tưởng định rồi đắm nhiễm vào sự an vui tịch tĩnh của định này, sanh vui mừng chứng nhập quả A la hán hay quả Độc giác, liền vào Bát Niết bàn. Các đại Bồ Tát quán việc như vậy, nên tuy hiện nhập Diệt thọ tưởng định nhưng lại không hiện nhập”.

Như vậy, dù đang nhập bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, đã thấy trong ấy phát sanh các công đức thù thắng, vi diệu nhưng các đại Bồ Tát không đắm trước mà vẫn trở lại cõi Dục, dùng phương tiện thiện xảo nương thân cõi Dục, siêng năng tinh tấn tu học bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật. Siêng năng tinh tấn tu quán 18 pháp Không, chơn như, pháp giới cho tới cảnh giới bất tư nghì; tu quán 12 duyên khởi theo hai chiều thuân nghịch, tu tứ Thánh đế, bốn vô lượng, 37 pháp trợ đạo, Bồ Tát thập địa, Tam giải thoát môn, các Đà la ni, Tam ma địa, ngũ nhãn, lục thần thông. Siêng năng tinh tấn tu học Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt. Tinh tấn tu học đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí. Nói tóm lại, tinh tấn siêng năng tu học tất cả pháp mầu Phật đạo, cũng khuyên tất cả các hữu tình tu hành như vậy.

Các đại Bồ Tát tuy thường an trụ 4 thứ tĩnh lự và 4 định vô sắc vắng lặng mầu nhiệm, nhưng không thọ sanh cảnh thù thắng của các cõi trời mà trở lại thọ thân hèn kém đủ thứ nhiễm ô ở cõi Dục để làm nhiêu ích hữu tình, nên nói rất hiếm có, làm được việc khó làm.

 

2. Bồ Tát xả thân lìa thắng địa của mình để trở lại Dục giới,

chỉ vì muốn nhiêu ích hữu tình.

 

Đại Bồ Tát này cần cầu quả vị Vô Thượng Bồ đề, xả thân rời các thắng địa (các cõi Trời) trở lại sanh ở cõi Dục, phát sanh thiện ý, phương tiện thiện xảo, dù quán tánh ngũ uẩn thường-vô thường, khổ-vui, ngã-vô ngã, tịnh-bất tịnh, Không-bất Không, tướng-vô tướng, nguyện-vô nguyện, viễn ly-bất viễn ly, tịch tĩnh-vô tịch tịch tĩnh... đều bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí. Quán 12 xứ, 18 giới thường-vô thường cho đến tịch tĩnh-bất tịch tĩnh... cũng đều bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí. Dù quán tánh lục đại chủng (phong, thủy, hỏa, thổ, không, thức) thường-vô thường cho đến tịch tĩnh-bất tịch tĩnh... đều bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí. Quán tánh bốn duyên (nhân duyên, đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên) và pháp từ duyên sanh ra cũng như vậy, đều bất khả đắc, nhưng không lìa bỏ Nhất thiết trí trí.

Nếu lìa bỏ Nhất thiết trí trí, thì không thể chứng Vô Thượng Bồ đề. Nếu không chứng được Vô Thượng Bồ đề, thì không thể hóa độ chúng sanh rộng lớn. Vì vậy, chư Phật Thế Tôn không muốn các Bồ Tát sau khi đạt được các thắng định, an vui trong cảnh trường thọ, mà quên đi bản nguyện của chính mình.

Bấy giờ, Mãn Từ Tử hỏi Xá lợi Tử: “Thưa Tôn giả! Vì lý do gì Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không muốn sau khi đắc bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, các Bồ Tát không nên ở lâu trong ấy, rồi sanh tâm nhiễm trước?”

Xá lợi Tử đáp: “Thưa Tôn giả! Chư Phật Thế Tôn không muốn các đại Bồ Tát sanh tâm nhiễm trước đối với bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc và sanh ở trời Trường thọ; cho đến chư Phật Thế Tôn không muốn các đại Bồ Tát sanh tâm nhiễm trước bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc và ở lâu trong ấy. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì nếu sanh cõi Dục thì mau được viên mãn Nhất thiết trí trí, còn sanh cõi Sắc, Vô sắc không được như vậy”.

Vả lại, dù sanh cõi Sắc hay Vô sắc cũng thuộc tam giới, nếu khởi một niệm bất giác cũng rơi rụng vào cảnh sanh tử khổ đau như mọi chúng sanh khác. Nếu đắc Nhất thiết trí trí, chứng được Bồ đề mới thoát khỏi sanh tử. Bồ Tát thà sanh cõi Dục, chịu nhiều đau khổ, thực thi các hạnh nguyện để cứu độ chúng sanh, rồi tiếp tục tu tập lục độ vạn hạnh và tất cả pháp Phật, lần lượt chứng đắc Giác ngộ, giúp mình người, giải thoát ba cõi, rồi mới nhập Niết bàn.

Quyển 591 của phần “Tĩnh Lự Ba La Mật”, Phật dạy các Bồ Tát kỹ thuật tu thiền và định với lời khuyến cáo đừng ở trong định và cũng chẳng thăm đắm hưởng thọ các diệu lạc do các định sanh ra mà quên đi bản nguyện, có thể làm thối thất đạo Bồ đề.

 

Chúng ta tụng tiếp quyển 592, phần “Tĩnh Lự Ba La Mật”.


Quyển thứ 592

 

Lúc ấy, Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật: Đối với các tĩnh lự và chi phần tĩnh lự không sanh tham đắm, cũng không thối chuyển? Đối với các tĩnh lự và chi phần tĩnh lự không sanh ngã tưởng phân biệt chấp trước. Lại đem căn lành tương ưng ấy, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí.

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Nếu chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, đối với các tĩnh lự và chi phần tĩnh lự phát khởi lên các tưởng không đắm trước thường-vô thường v.v…, lại đem căn lành tương ưng ấy, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí; như vậy, thì chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật, đối với các tĩnh lự và chi phần tĩnh lự không sanh tham đắm, cũng không thối chuyển.

Mãn Từ Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ tinh tấn Ba la mật?

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Nếu chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, vượt qua các pháp tạp nhiễm cõi Dục, dùng phương tiện nhập vào bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, rồi trở lại xả bỏ thọ thân vào cõi Dục, tinh tấn tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật và vô biên các Bồ đề phần pháp; như vậy, thì chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ tinh tấn Ba la mật.

Mãn Từ Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ an nhẫn Ba la mật?

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Nếu chúng đại Bồ Tát tu học thành tựu đại từ, đại bi, đối với các hữu tình muốn làm lợi ích, an trụ tĩnh lự Ba la mật, gặp các nghịch duyên tâm không tạp uế; như vậy, thì chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ an nhẫn Ba la mật.

Mãn Từ Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ tịnh giới Ba la mật?

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Nếu chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, đối với các Thanh văn, Độc giác không sanh chấp trước; như vậy, thì chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ tịnh giới Ba la mật.

Mãn Từ Tử lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ bố thí Ba la mật?

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Nếu chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, đối với các hữu tình khởi niệm đại bi, nguyện không xả bỏ tất cả hữu tình, muốn cho họ giải thoát khổ sanh tử, nên cầu chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, suy nghĩ thế này: Ta quyết định phải đem pháp thí lớn giáo hóa hữu tình, thường vì hữu tình nói pháp yếu chơn tịnh, dứt hẳn tất cả phiền não. Như vậy, chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ bố thí Ba la mật.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các đại Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thì đại Bồ Tát này phải gọi là Bồ Tát bậc nào?

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Nên biết Bồ Tát ấy gọi là Bồ Tát Bất thối.

Mãn Từ Tử lại bạch Phật:

- Chúng đại Bồ Tát này rất là hiếm có, hay làm việc khó làm. Sau khi an trụ trong các thắng định vắng lặng an vui như vậy, nhưng có thể xả bỏ để trở lại cõi Dục, thọ pháp thấp kém, dùng phương tiện thiện xảo làm lợi ích hữu tình.

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói, chúng đại Bồ Tát rất là hiếm có, làm được việc khó làm. Nên biết chúng đại Bồ Tát này vì độ vô lượng, vô biên hữu tình, đội mũ, mặc giáp đại nguyện vững chắc, thường nghĩ thế này: Ta phải độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư bát Niết bàn. Ta phải làm cho Pháp nhãn thanh tịnh của Phật thường không gián đoạn, đem lại lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. Tuy làm việc như vậy mà không chấp trước là làm cho hữu tình được Niết bàn, hoặc đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì các pháp không ngã, cũng không ngã sở.

Khi các khổ sanh, chỉ có khổ sanh, không có kẻ sanh. Khi các khổ diệt, chỉ có khổ diệt, không có kẻ diệt, nên biết cũng không có kẻ chứng hay có thể đắc pháp thanh tịnh. Do nhân duyên này, nên biết chúng đại Bồ Tát rất là hiếm có, làm được việc khó làm.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy. Bạch Thiện Thệ! Đúng vậy. Chúng đại Bồ Tát rất là hiếm có, làm được việc khó làm. Vì sao? Tuy thật không có pháp có sanh, có diệt, hoặc vào Niết bàn, hoặc chứng Vô Thượng Bồ đề, mà các đại Bồ Tát vì độ vô lượng, vô biên hữu tình, tinh tấn tu hành các Bồ Tát hạnh, cầu chứng Vô Thượng Bồ đề, muốn vì hữu tình tuyên nói pháp dứt hẳn tham sân si, khiến siêng tu học được vào Niết bàn; hoặc vì hữu tình giảng nói Bồ Tát đạo, làm cho siêng năng tinh tấn tu học mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Nếu tâm đại Bồ Tát không tán loạn, luôn luôn an trụ tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, thì đại Bồ Tát này an trụ tĩnh lự Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát trụ tác ý tương ưng bậc Thanh văn, hoặc tác ý tương ưng bậc Độc giác, thì đại Bồ Tát này tâm thường tán loạn. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì đại Bồ Tát tu học tác ý tương ưng Nhị thừa, ngăn ngại quả vị Vô Thượng Bồ đề, khiến cho tâm Bồ đề thường tán loạn. Tuy các đại Bồ Tát duyên cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, phát khởi các thứ tác ý phi lý, rối loạn tâm bố thí v.v... của Bồ Tát, nhưng không chướng ngại sự cầu Nhất thiết trí trí của Bồ Tát. Nếu pháp không làm chướng ngại Nhất thiết trí trí, dù hiện tiền nhưng đối với sự tu tĩnh lự Ba la mật của các đại Bồ Tát chẳng gọi là pháp quá trái nghịch, vì chẳng phải làm lui mất hẳn bậc Định Bồ Tát.

 

(Tại sao Như Lai chỉ khen ngợi công đức của các Bồ Tát

mà không khen ngợi Thanh văn?)

 

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì quán nghĩa gì mà chỉ khen ngợi tất cả công đức các đại Bồ Tát, mà không khen ngợi Thanh văn?

Phật bảo:

- Mãn Từ Tử! Nay Ta hỏi ngươi, tùy ý ngươi đáp. Ý ngươi nghĩ sao? Mặt trời xoay quanh chiếu ánh sáng khắp đến người châu Thiệm bộ này, đom đóm làm được không?

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Chẳng làm được.

Phật bảo:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Tất cả việc làm của các đại Bồ Tát cũng lại như vậy, khả năng của các Thanh văn không thể hoàn thành được.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao biết được chỉ có chúng đại Bồ Tát có suy nghĩ thế này: Ta phải độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, làm cho nhập vào cõi Vô dư bát Niết bàn. Ta phải làm cho Pháp nhãn thanh tịnh của Phật không ngừng, không đoạn tuyệt, đem lại lợi ích an vui cho tất cả hữu tình? Làm sao biết được chỉ có các đại Bồ Tát có thể làm được sự nghiệp thù thắng như vậy, các Thanh văn chẳng làm được?

Phật bảo:

- Mãn Từ Tử! Nay ông xem trong chúng Thanh văn này có một Bí sô nào có khả năng có thể suy nghĩ như các đại Bồ Tát và làm xong sự nghiệp ấy không?

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không. Bạch Thiện Thệ! Không. Con xem trong chúng Thanh văn này, không có một Bí sô nào suy nghĩ như các đại Bồ Tát, cũng không thể thành xong sự nghiệp như thế.

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Cho nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chỉ khen ngợi Bồ Tát, không khen Thanh văn. Các A la hán trong chúng này không nghĩ như vậy, cũng không thể làm nên sự nghiệp như vậy, nên biết tất cả hàng Thanh văn thừa không làm nổi sự nghiệp như các Bồ Tát đã làm. Nên Ta nói: Ví như mặt trời chiếu ánh sáng cho châu Thiệm bộ, đom đóm không thể làm được. Nghĩa là mặt trời phóng ra vô lượng ánh sáng, soi khắp các loài hữu tình ở châu Thiệm bộ, ánh sáng đom đóm chỉ soi rõ được bản thân. Cũng vậy, chúng đại Bồ Tát điều phục phiền não ác nghiệp tự thân, cũng có thể độ thoát vô lượng hữu tình, giúp lìa tất cả phiền não ác nghiệp, nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết bàn, hoặc chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề. Còn hàng Thanh văn thừa chỉ có thể điều phục phiền não ác nghiệp tự thân, không thể làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Cho nên sự nghiệp của hàng Thanh văn chẳng như Bồ Tát, nên tất cả sự nghiệp của Bồ Tát đều thù thắng.

Này Mãn Từ Tử! Như người học thuật bắn cung giỏi, đã dày công khổ luyện, thì thân, tay, cung, binh khí đều sử dụng thành thạo, và học các môn võ nghệ đến chỗ tuyệt đỉnh, được hưởng lộc của vua ban trăm ngàn năm. Khi nhà vua và oán địch muốn chiến tranh, thì sai người đó làm chỉ huy, cấp cho quân, voi, ngựa v.v… và binh sĩ khí giới, mong tiêu diệt hết kẻ thù, không để tổn thất.

Cũng vậy, chúng đại Bồ Tát đã phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, đã tu các Bồ Tát hạnh, đối với các hành tham, sân, si của các loài hữu tình có thể điều phục đạt được thiện xảo. Vì vậy, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chỉ khen các đại Bồ Tát, khuyên răn, dạy bảo giúp siêng năng tu tập, có thể làm phát sanh tư lương Bồ đề, mau được viên mãn đại nguyện, mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, nói pháp thanh tịnh cho các hữu tình dứt hẳn tham, sân, si.

Vì vậy, chúng đại Bồ Tát mặc giáp, đội mũ làm sự nghiệp, hàng Thanh văn, Độc giác đều không thể làm được. Do đó, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chỉ khen ngợi các Bồ Tát, chẳng phải khen các Thanh văn.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật vừa dạy, nên biết rằng tất cả hành động của đại Bồ Tát có định tâm. Nghĩa là các đại Bồ Tát nếu trụ bố thí Ba la mật, phải biết lúc ấy tâm cũng định. Nếu trụ tịnh giới Ba la mật, phải biết lúc ấy tâm cũng định. Nếu trụ an nhẫn Ba la mật, phải biết lúc ấy tâm cũng định. Nếu trụ tinh tấn Ba la mật, phải biết lúc ấy tâm cũng định. Nếu trụ tĩnh lự Ba la mật, phải biết lúc ấy tâm cũng định. Nếu trụ Bát Nhã, phải biết lúc ấy tâm cũng định. Nếu trụ các Bồ đề phần pháp khác, phải biết lúc ấy tâm cũng định.

Như viên ngọc lưu ly, dù ở bất cứ chỗ nào cũng giữ được màu sắc quí của nó. Nghĩa là ngọc ấy nếu đựng trong hộp bằng vàng, hoặc đựng trong hộp bạc, hoặc để trong hộp thủy tinh, đồng, sắt, sứ v.v… luôn luôn không mất mầu sắc lưu ly. Cũng vậy, các đại Bồ Tát nếu trụ bố thí, nếu trụ tịnh giới, nếu trụ an nhẫn, tinh tấn, nếu trụ tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, nếu trụ các Bồ đề phần pháp khác, phải biết lúc ấy tâm thường ở trong định. Con hiểu nghĩa Phật đã nói như vậy.

Bấy giờ, Phật khen Mãn Từ Tử:

- Lành thay! Lành thay! Đúng vậy! Đúng vậy!

 

(Thế nào gọi là Bồ Tát loạn tâm, trụ vào phi định?)

 

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, lìa sanh hỷ lạc, trụ hoàn toàn vào sơ tĩnh lự. An trụ sơ tĩnh lự như thế rồi, nếu ưa thích vào bậc Thanh văn hoặc Độc giác, gọi đó là Bồ Tát loạn tâm, nên tâm vị ấy trụ vào phi định.

Này Mãn Từ Tử! Các đại Bồ Tát tầm tứ vắng lặng, trong tâm đều tịnh, nhất tâm hướng đến tánh không tầm không tứ, định sanh hỷ lạc, trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ hai. An trụ tĩnh lự thứ hai đầy đủ rồi, ưa thích vào bậc Thanh văn hay Độc giác, gọi đó là Bồ Tát loạn tâm, nên biết tâm vị ấy trụ vào phi định.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát lìa hỷ trụ xả, đầy đủ chánh niệm chánh tri, cảm thọ về thân, cảm thọ về lạc, chỉ có bậc Thánh nói được, xả được, đầy đủ niệm, trụ lạc, trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ ba. An trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ ba rồi, nếu ưa thích địa vị Thanh văn hay Độc giác, gọi đó là Bồ Tát loạn tâm, nên biết tâm vị ấy trụ vào phi định.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát đoạn tận lạc và khổ, không còn vui buồn lúc trước, chẳng khổ, chẳng vui, y vào xả mà niệm thanh tịnh, trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ tư. An trụ vào tĩnh lự thứ tư rồi, nếu ưa thích địa vị Thanh văn hay Độc giác, gọi đó là Bồ Tát loạn tâm, nên biết tâm vị ấy trụ vào phi định.

 

(Thế nào gọi là Bồ Tát định tâm?)

 

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Mức độ nào gọi là Bồ Tát định tâm?

Phật bảo Mãn Từ Tử:

- Nếu các đại Bồ Tát khi thấy các hữu tình kia, bèn nghĩ: Ta phải siêng năng tinh tấn tu Bồ Tát hạnh. Khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chắc chắn làm cho loài hữu tình kia nhập vào cõi Vô dư y bát Niết bàn, hoặc chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát khuyên loài hữu tình thọ trì ba pháp quy y. Các hữu tình kia thọ giữ ba pháp quy y rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát khuyên loài hữu tình thọ trì năm giới. Các hữu tình kia thọ giữ năm giới rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát khuyên loài hữu tình thọ trì tám giới. Các hữu tình kia thọ giữ tám giới rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát khuyên loài hữu tình thọ trì mười giới. Các hữu tình kia thọ giữ mười giới rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát khuyên loài hữu tình thọ trì mười thiện nghiệp đạo. Các hữu tình kia thọ giữ mười thiện nghiệp đạo rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát khuyên loài hữu tình thọ trì giới Cụ túc. Các hữu tình kia thọ giữ giới Cụ túc rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát khuyên loài hữu tình thọ trì Bồ Tát giới. Các hữu tình kia thọ giữ Bồ Tát giới rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát phương tiện khuyến khích, hướng dẫn các thiện nam, thiện nữ v.v... tu hành lục Ba la mật. Các thiện nam, thiện nữ v.v… kia an trụ bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát phương tiện khuyến khích, hướng dẫn các thiện nam, thiện nữ v.v... tu hành bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, tu hành 37 pháp trợ đạo, tu hành tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ, tu hành pháp môn giải thoát Không, vô tướng, vô nguyện, cho đến tu hành Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí, quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề của chư Phật (nghĩa là tu tất cả các pháp mầu Phật đạo). Các thiện nam, thiện nữ v.v… kia an trụ rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Này Mãn Từ Tử! Nếu các đại Bồ Tát đối với sự tu hành tất cả pháp Phật… kia hết lòng tùy hỷ, cầu Nhất thiết trí trí, ngang mức độ này nên biết Bồ Tát định tâm.

Nếu các đại Bồ Tát đối với tất cả tâm được định rồi, nên gọi là an trụ tĩnh lự Ba la mật. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các các đại Bồ Tát này thường không xa lìa tác ý thù thắng Nhất thiết trí trí. Nếu các đại Bồ Tát thường không xa lìa tác ý thù thắng Nhất thiết trí trí, thì gọi là an trụ tĩnh lự Ba la mật.

Như vậy, các đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, phát khởi vô biên công đức thù thắng, mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

 

(Tĩnh lự của Bồ Tát là tối tôn, tối thắng, vi diệu, vô thượng…)

 

Mãn Từ Tử! Vì tĩnh lự Ba la mật của Bồ Tát thường không xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí. Tĩnh lự của Nhị thừa chắc chắn xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, nên đối với tĩnh lự của Bồ Tát là kém hơn.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Nếu các Thanh văn trụ tĩnh lự này, chứng đắc pháp tánh, thành quả Thanh văn, còn các Bồ Tát trụ tĩnh lự này chứng đắc pháp tánh, lìa chấp trước, thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao nói tĩnh lự Thanh văn chắc chắn xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, tĩnh lự Bồ Tát thường không xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí?

Phật bảo:

- Mãn Từ Tử! Ta hỏi ngươi, ý ngươi nghĩ sao? Các hàng Thanh văn trụ tĩnh lự này, chứng đắc pháp tánh, thành quả Thanh văn. Các Bồ Tát trụ tĩnh lự này chứng đắc pháp tánh, lìa chấp trước, thành Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, còn Thanh văn ấy chứng đắc pháp tánh gọi là Như Lai được không?

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không được.

Phật bảo:

- Mãn Từ Tử! Ta sẽ nói ví dụ cho ngươi, những người có trí nhờ vào ví dụ này được hiểu rõ nghĩa sâu xa. Thí như người thường dân, trèo lên ngai của vua, người ấy gọi là vua được không?

Mãn Từ Tử thưa:

- Bạch Thế Tôn! Không được. Vì sao? Vì người kia không có phước, không có tướng làm vua.

Phật bảo:

- Cũng vậy, các Thanh văn tuy có thể hiện nhập được bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, chứng đắc pháp tánh, thành quả Thanh văn, nhưng không có năng lực, các công đức thù thắng và các tướng tốt của Như Lai nên chẳng gọi là Như Lai. Do xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, do không có đức của Phật nên gọi là Thanh văn. Nếu không được như vậy sao gọi là Phật?

Này Mãn Từ Tử! Tĩnh lự của các hàng Thanh văn đã trụ không có công đức thù thắng nên tánh họ thấp kém, đối với sự trụ tĩnh lự của Bồ Tát trăm phần không bằng một, ngàn phần không bằng một, cho đến vô số phần không bằng một. Vì sao? Mãn Từ Tử! Tĩnh lự Ba la mật của Bồ Tát thường không xa lìa Nhất thiết trí trí, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, thành thục hữu tình, phát khởi vô biên công đức thù thắng. Do đấy Bồ Tát sở trụ thắng định, Thanh văn Độc giác đều chẳng thể biết được.

 

(Thế nào là thắng định của Bồ Tát?)

 

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là thắng định Bồ Tát? Thắng định như thế gọi tên là gì?

Phật bảo:

- Mãn Từ Tử! Thắng định Bồ Tát gọi là chẳng nghĩ bàn. Vì sao? Mãn Từ Tử! Thắng định như thế có oai lực khó nghĩ, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí. Thắng định như vậy cũng gọi là làm lợi ích an vui cho tất cả các loài hữu tình thế gian. Vì sao? Mãn Từ Tử! Vì các đại Bồ Tát muốn làm lợi ích an vui vô lượng hữu tình, mà dùng phương tiện thiện xảo nhập vào định này.

Nếu thắng định như vậy hiện tiền thì có thể dẫn đến vô biên thắng định nhiệm mầu, mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, làm lợi ích an vui lớn cho các hữu tình.

Nếu thắng định như vậy hiện tiền thì dẫn đến vô biên phương tiện thiện xảo, để khuyên răn, dạy bảo cho vô lượng hữu tình đều phát sanh tĩnh lự vô lậu, chứng chơn pháp tánh, dứt các phiền não, nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn, hoặc chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Do nhân duyên này, thắng định của Bồ Tát cũng gọi là làm lợi ích an vui cho tất cả các loài hữu tình thế gian. Cho nên các đại Bồ Tát muốn chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề phải học tĩnh lự Ba la mật. Nếu ai học tĩnh lự Ba la mật, thì mau phát ra Nhất thiết trí trí.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con cho rằng các định của Thanh văn chứng đắc hơn định của Bồ Tát. Vì sao? Vì Thanh văn đầy đủ chín định thứ lớp, Bồ Tát chỉ được tám định trước. Bồ Tát chẳng đạt được Diệt thọ tưởng định, nên định của Thanh văn hơn định của Bồ Tát.

Phật bảo:

- Mãn Từ Tử! Bồ Tát cũng được Diệt thọ tưởng định, nghĩa là đối với định này sẽ được tự tại, nhưng chẳng hiện nhập. Vì sao? Vì Như Lai không muốn các Bồ Tát hiện nhập định này, vì hiện nhập sẽ rơi vào địa vị Thanh văn hay Độc giác.

Này Mãn Từ Tử! Ta sẽ nói ví dụ cho ông, những người có trí nhờ ví dụ sẽ dễ hiểu được nghĩa sâu xa này. Như vua Chuyển luân tuy ở vùng biên địa xa xôi, nhưng thành ấp các nước nhỏ đều được an lạc, đâu cần vua Chuyển luân đi vào làng xóm của nước ấy. Lẽ nào vua Chuyển luân không đi đến nơi đó, thì nói nơi đó không được an lạc? Cũng vậy, chúng đại Bồ Tát tuy không hiện nhập Diệt thọ tưởng định, nhưng đối với các định này đã được tự tại, do được tự tại nên gọi là đắc.

Này Mãn Từ Tử! Chẳng lẽ các Bồ Tát thường không hiện nhập Diệt thọ tưởng định, cho đến chưa ngồi tòa Bồ đề vi diệu, thì chư Phật Thế Tôn không cho hiện nhập. Nếu khi được ngồi tòa Bồ đề vi diệu, chư Phật Thế Tôn cho hiện nhập. Vì sao? Mãn Từ Tử! Chớ bảo rằng, các Bồ Tát do nhập định này liền rơi vào địa vị Thanh văn hay Độc giác, hoặc bảo chư Phật ngang đồng Nhị thừa, nên Phật Thế Tôn không muốn hiện nhập.

Này Mãn Từ Tử! Như Đại vương Quán đảnh Sát đế lợi muốn vào trong chợ uống ruợu của thường dân. Khi ấy, có vị đại thần mưu trí can vua: “Bệ hạ không nên uống rượu ở chỗ này, nếu cần uống bệ hạ phải đợi về trong cung rồi uống”. Ý ông nghĩ sao? Chẳng lẽ vua không uống rượu ở chợ được sao, mà đại thần kia ân cần can không cho vua uống? Vì chẳng phải chỗ, chẳng phải thời, nên đúng pháp Đại vương Quán đảnh Sát đế lợi không được uống. Tuy không được uống nhưng vua vẫn tùy nghi dùng rượu v.v… và các vật trong chợ được. Vì sao? Vì vua có quyền lực khắp quốc thổ, thành ấp, sở hữu, vật dụng của mọi người. Như vậy, Bồ Tát có trí thù thắng, do trí này nên thường hiện nhập Diệt thọ tưởng định, nhưng Phật không muốn hiện nhập. Vì sao? Vì nếu Bồ Tát nhập Diệt thọ tưởng định là phi thời xứ. Nếu khi Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề, dứt hẳn tất cả tưởng tướng hư vọng, chứng cảnh giới cam lồ, khi ấy mới nhập vào Diệt thọ tưởng định, sau chứng đắc quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề, chuyển pháp luân vi diệu, đầy đủ 32 tướng, làm lợi ích an vui cho vô lượng hữu tình.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát rất là hiếm có, làm được việc khó làm. Nghĩa là dù có sức phát trí lậu tận, song vì hữu tình không chứng lậu tận. Vì sao? Vì các Bồ Tát luôn luôn suy gẫm làm lợi ích an lạc cho hữu tình, nên ý vui tăng thượng thường hiện tiền.

Phật bảo:

- Mãn Từ Tử! Đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Các Bồ Tát luôn luôn suy gẫm làm lợi ích an lạc cho hữu tình, nên ý vui tăng thượng thường hiện tiền.

Này Mãn Từ Tử! Các Bồ Tát này quán nghĩa lợi ích này, tuy có thể nhập đủ chín định thứ lớp nhưng không nhập. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát này dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả định tuy được tự tại nhưng không nhập vào.

Này Mãn Từ Tử! Tất cả Bồ Tát sơ phát tâm, hoặc đã Bất thối, đều an trụ tĩnh lự Ba la mật. Các Bồ Tát thường an trụ tĩnh lự Ba la mật như vậy, thường làm lợi ích cho các hữu tình, mau phát sanh Nhất thiết trí trí.

Mãn Từ Tử bạch Phật:

- Các đại Bồ Tát đủ thế lực lớn, thường làm việc lợi ích cho hữu tình, cũng có thể phát sanh Nhất thiết trí trí, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ đề.

Phật bảo:

- Đúng vậy! Đúng như lời ông nói.

Bấy giờ, Xá lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật như thế nào? Bằng phương tiện nào thoát ra khỏi định?                                             

Phật bảo:

- Này Xá lợi Tử! Các đại Bồ Tát lìa pháp dục ác, bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc, vào sơ tĩnh lự, cho đến hoàn toàn an trụ vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Đối với tĩnh lự và đẳng chí của cõi Sắc, Vô sắc, thuận nghịch đều lần lượt vượt qua thông suốt rất thuần thục, du hý tự tại, vào lại cõi Dục, không lệ thuộc vào sức định để sanh vào cõi Sắc, Vô sắc, hoặc cõi trời Trường thọ. Do phát tâm này sanh lại cõi Dục, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, phát sanh vô biên Bồ đề phần pháp.

Sanh vào cõi Sắc, Vô sắc không làm được như vậy, vì sanh ở hai cõi trên thân tâm đần độn. Do nhờ vào phương tiện thiện xảo của Bồ Tát, trước là tu tập định trên làm cho thuần thục hoàn toàn, sau phát hạ tâm sanh lại cõi Dục, tu tập vô lượng tư lương Bồ đề đầy đủ rồi, vượt khỏi ba cõi, chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Như có người nghĩ như vầy: Làm cách nào vào được cung vua, lén cùng vương hậu, phi tần đùa giỡn, hưởng lạc để vua khỏi biết, lại bảo tồn được thân mạng? Nghĩ rồi bèn tìm các loại diệu dược, uống vào thì nam căn lúc có, lúc không. Được thuốc ấy liền tìm cách phụng sự vua. Khi nhà vua tuyển dùng, người ấy uống thuốc ẩn nam căn, rồi thưa với nhà vua: “Tâu đại vương! Hạ thần không còn nam căn, xin được làm kẻ giữ cung cấm cho đại vương”. Vua nghe vậy cho điều tra sự thực rồi giao phó việc giữ trong cung.

Bấy giờ, người ấy vào trong cung cấm của vua, lén cùng các hậu phi tư tình mặc ý giao thông. Thời gian lần qua, một tháng, hai tháng, ba tháng, sợ vua biết được thì mất mạng, liền uống thuốc hiện nam căn ra lại, rồi thưa vua: “Tâu đại vương! Hạ thần bỗng nhiên hiện lại nam căn, xin từ nay trở đi không vào trong cung cấm nữa”.

Khi ấy, vua khen: “Đây là người hiền thiện chơn thật, tự đến và đi chẳng trái phép ta”. Liền hậu thưởng ban cho tước lộc, ủy nhiệm công việc bên ngoài. Phải biết người này với phương tiện thiện xảo, có thể thỏa mãn ý muốn mà còn giữ được thân mạng, lại được vua ban thưởng của cải tước vị.

Cũng vậy, Bồ Tát với phương tiện thiện xảo, vào bốn tĩnh lự và bốn định vô sắc, lần lượt vượt khỏi. Được thiện xảo rồi, liền khởi hạ tâm sanh lại cõi Dục, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, phát sanh vô biên Bồ đề phần pháp, cho đến chưa viên mãn thì không chứng thật tế.

Vì sao? Này Xá lợi Tử! Vì đại Bồ Tát này với phương tiện thiện xảo, không bỏ Nhất thiết trí. Như vậy, Bồ Tát phương tiện thiện xảo, tu hành tĩnh lự Ba la mật, ở trong thật tế chẳng chứng đắc, cũng không nhập vào Diệt thọ tưởng định, cho đến chưa viên mãn tư lương Bồ đề vẫn thọ thân cõi Dục, tu Bồ Tát hạnh.

Bấy giờ, Phật dạy A nan đà:

- Ngươi nên thọ trì tĩnh lự Ba la mật mà các chúng Bồ Tát đã học, chớ để quên mất.

A nan đà thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thọ trì tĩnh lự Ba la mật mà các Bồ Tát đã học, chắc chắn không quên mất.

Khi đức Bạc già phạm nói Kinh này rồi, cụ thọ Xá lợi Tử, cụ thọ Mãn Từ Tử, cụ thọ A nan đà và các Thanh văn, các Bồ Tát, cùng tất cả trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạt hô lạc già, người chẳng phải người v.v… tất cả đại chúng nghe Phật dạy rất vui mừng, tin nhận phụng hành.

 

Lược giải:

 

1. Bồ Tát an trụ tĩnh lự, nhiếp thọ sáu pháp

Ba la mật thế nào?

 

- Nếu chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ Bát nhã Ba la mật: Đối với các tĩnh lự và chi phần tĩnh lự không sanh tham đắm, cũng không thối chuyển. Đối với các tĩnh lự và chi phần tĩnh lự không sanh ngã tưởng phân biệt chấp trước. Lại đem căn lành tương ưng ấy, hồi hướng cầu đến Nhất thiết trí trí.

- Nếu chúng đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự, đối với các Tĩnh lự và chi phần tĩnh lự phát khởi các tưởng không sanh tham đắm, lại đem căn lành tương ưng ấy, hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí; như vậy, các đại Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ tĩnh lự Ba la mật.

- Nếu Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, vượt qua các pháp tạp nhiễm cõi Dục, dùng phương tiện nhập vào bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc vắng lặng an vui, rồi trở lại xả bỏ thọ thân cõi Dục, tinh tấn tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, Bát nhã Ba la mật và vô biên các Bồ đề phần pháp. Như vậy, là các Bồ Tát an trụ tĩnh lự, nhiếp thọ tinh tấn Ba la mật.

- Nếu Bồ Tát tu học thành tựu đại từ, đại bi, đối với các hữu tình muốn làm lợi ích, an trụ tĩnh lự Ba la mật, gặp các nghịch duyên tâm không tạp uế. Như vậy, là các Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ an nhẫn Ba la mật.

- Nếu Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, đối với Thanh văn, Độc giác không sanh chấp trước. Như vậy, là các Bồ Tát này an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ tịnh giới Ba la mật.

- Nếu Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, đối với các hữu tình khởi niệm đại bi, nguyện không xả bỏ tất cả hữu tình, muốn cho họ thoát khổ sanh tử, nên cầu chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, nguyện đem pháp thí giáo hóa hữu tình khiến dứt tất cả phiền não. Như vậy, các Bồ Tát này an trụ tĩnh lự Ba la mật, nhiếp thọ bố thí Ba la mật.

Nếu các Bồ Tát thành tựu phương tiện thiện xảo như vậy, thì các Bồ Tát này được gọi là Bồ Tát bất thối.

Bồ Tát này rất hiếm có hay làm việc khó làm. Sau khi an trụ trong các thắng định vắng lặng an vui như vậy, nhưng có thể xả bỏ để trở lại cõi Dục, thọ thân thấp hèn. Vì sao? Vì muốn độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình vào cảnh giới Vô dư bát Niết bàn, vì muốn Pháp nhãn thanh tịnh của Phật thường không gián đoạn, nên các Bồ Tát này mặc giáp đại nguyện vững chắc, hiện thân vào cõi Dục. Tuy làm việc như vậy nhưng không chấp trước, thực thi các hạnh nguyện khó hành độ thoát hữu tình được Niết bàn, hoặc đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề. Vì sao? Vì các Bồ Tát đối với tất cả pháp không còn chấp ngã, ngã sở nữa.

 

2. Tại sao Như Lai chỉ khen ngợi công đức của các Bồ Tát

mà không khen ngợi Thanh văn?

 

Các Bồ Tát độ thoát vô lượng, vô số, vô biên hữu tình, làm cho nhập vào cõi Vô dư bát Niết bàn. Các Bồ Tát làm cho Pháp nhãn thanh tịnh của chư Phật không đoạn diệt, đem lại lợi ích an vui cho tất cả hữu tình, nên Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác chỉ khen ngợi Bồ Tát, không khen Thanh văn. Tất cả hàng Thanh văn thừa không làm nổi sự nghiệp như các Bồ Tát đã làm. Các Bồ Tát điều phục phiền não ác nghiệp tự thân, cũng có thể điều phục cho vô lượng hữu tình, giúp họ lìa tất cả phiền não ác nghiệp, nhập vào cảnh giới Vô dư y Niết bàn, hoặc chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề. Còn hàng Thanh văn thừa chỉ có thể điều phục phiền não ác nghiệp tự thân, không thể làm lợi ích cho vô lượng hữu tình. Cho nên sự nghiệp của hàng Thanh văn chẳng được như Bồ Tát. Do vậy, sự nghiệp của Bồ Tát rất thù thắng. Đó là lý do tại sao Thế Tôn chỉ khen ngợi Bồ Tát, chẳng khen ngợi Thanh văn.

 

3. Thế nào gọi là Bồ Tát loạn tâm?

 

Nếu các Bồ Tát lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sanh hỷ lạc, trụ hoàn toàn vào sơ tĩnh lự. An trụ sơ tĩnh lự. Nếu các Bồ Tát có tầm tứ vắng lặng, trong tâm đều tịnh, nhất tâm hướng đến tánh không tầm không tứ, định sanh hỷ lạc, trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ hai. Nếu các đại Bồ Tát lìa hỷ trụ xả, đầy đủ chánh niệm chánh tri, cảm thọ về thân, cảm thọ về lạc, chỉ có bậc Thánh nói được, xả được, đầy đủ niệm, trụ lạc, trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ ba. Nếu các đại Bồ Tát đoạn tận lạc và khổ, không còn vui buồn như trước, chẳng khổ, chẳng vui, y vào xả niệm mà được thanh tịnh, trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ tư. Cứ an trụ vào tĩnh lự của mỗi giai đoạn từ sơ tịnh lự cho đến tịnh lự thứ tư rồi, nếu ưa thích địa vị Thanh văn hay Độc giác, gọi đó là Bồ Tát loạn tâm, nên biết tâm vị ấy trụ vào phi định.

 

4. Thế nào gọi là Bồ Tát định tâm?

 

Nếu các đại Bồ Tát năng tinh tấn tu Bồ Tát hạnh, khi chứng đắc quả vị Vô Thượng Bồ đề, chắc chắn làm cho hữu tình nhập vào cõi Vô dư y bát Niết bàn, hoặc chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề, tới mức độ đó nên biết Bồ Tát có định tâm.

Nếu các đại Bồ Tát khuyên hữu tình thọ trì tam quy, thọ trì tam quy rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng Nhất thiết trí trí, tới mức độ đó nên biết Bồ Tát có định tâm. Nếu Bồ Tát khuyên hữu tình thọ trì ngũ giới, bát giới, thập giới; thọ trì mười thiện nghiệp đạo, thọ trì Cụ túc giới, Bồ Tát giới; tu hành lục Ba la mật, bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, 37 pháp trợ đạo; tu hành tam giải thoát môn, tám giải thoát, tám thắng xứ, chín định thứ lớp, mười biến xứ; tu hành Như Lai mười lực, bốn điều không sợ, bốn sự hiểu biết thông suốt; tu hành đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng; cho đến Nhất thiết tướng trí… Nói chung, là tu hành tất cả pháp mầu Phật đạo; thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ. Nếu Bồ Tát phương tiện khuyến khích, hướng dẫn các thiện nam, thiện nữ an trụ rồi, liền đem căn lành đã tích tập hồi hướng cầu Nhất thiết trí trí, tới mức độ đó nên biết Bồ Tát có định tâm.

“Nếu Bồ Tát đối với tất cả tâm được định rồi, nên gọi là an trụ tĩnh lự Ba la mật. Vì sao? Vì các Bồ Tát này thường không xa lìa tác ý Nhất thiết trí trí. Nếu các đại Bồ Tát thường không xa lìa tác ý Nhất thiết trí trí, thì gọi là an trụ tĩnh lự Ba la mật.

Như vậy, Bồ Tát an trụ tĩnh lự Ba la mật, phát khởi vô biên công đức thù thắng, mau chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề”.

 

5. Tĩnh lự của Bồ Tát là tối tôn, tối thắng, vi diệu, vô thượng...

 

Tĩnh lự Ba la mật của Bồ Tát, trừ định của Như Lai, đối với các định khác là tôn, là thắng, là tối cao, là vô thượng… Vì sao? Vì tĩnh lự Ba la mật của Bồ Tát thường không xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí. Tĩnh lự của Nhị thừa chắc chắn xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, nên đối với tĩnh lự của Bồ Tát kém hơn. Các hàng Thanh văn trụ tĩnh lự này, chứng pháp tánh, đắc quả Thanh văn. Thanh văn không được gọi là Như Lai. Bồ Tát tu hành lục Ba la mật và các pháp mầu Phật đạo, độ vô lượng chúng sanh, đem công đức của mình và người hồi hướng Nhất thiết trí trí mới được gọi là Như Lai.

Các Thanh văn tuy có thể hiện nhập được bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc, chứng đắc pháp tánh, đắc quả Thanh văn, nhưng không có năng lực, công đức thù thắng và thân tướng hảo của Như Lai nên chẳng gọi là Như Lai. Do xa lìa tác ý tương ưng Nhất thiết trí trí, nên chỉ được gọi là Thanh văn. Các đại Bồ Tát thường không xa lìa Nhất thiết trí trí, thành thục hữu tình, trang nghiêm thanh tịnh cõi Phật, phát khởi vô biên công đức thù thắng. Do Bồ Tát sở trụ thắng định, Thanh văn Độc giác đều chẳng thể bằng.

 

6. Thế nào là thắng định của Bồ Tát?

 

Vì muốn làm lợi ích an vui vô lượng vô số hữu tình, các đại Bồ Tát phải thành đạt bốn thiền bốn định vô sắc mới có thể dẫn đến vô biên phương tiện thiện xảo, rồi khuyên răn, dạy bảo cho vô lượng hữu tình, để phát sanh tĩnh lự vô lậu, chứng chân pháp tánh, dứt tất cả các phiền não tập khí tương tục, tiến đến Nhất thiết trí trí hoặc chứng Vô thượng Bồ đề. Như thế, nên được gọi là thắng định tối thượng của Bồ Tát.

 

7. Bồ Tát nhập định, xuất định khác với

Thanh văn như thế nào?

 

Thanh văn nhập chín định thứ đệ nghĩa là trước hết nhập vào diệt thọ tưởng định, xả diệt thọ tưởng định nhập Sơ thiền, xả Sơ thiền nhập vào diệt thọ tưởng định, xả diệt thọ tưởng định nhập vào Nhị thiền, xả Nhị thiền nhập vào diệt thọ tưởng định, xả diệt thọ tưởng định nhập vào Tam thiền, xả Tam thiền nhập vào diệt thọ tưởng định, xả diệt thọ tưởng định nhập vào Tứ thiền, xả Tứ thiền để nhập vào diệt thọ tưởng định. Tới đây Thanh văn không xả thiền mà ở luôn trong ấy thì gọi là nhập diệt, liền tái sanh vào cõi Sắc.

Nhưng tới đây tiếp tục xuất diệt thọ tưởng định để nhập Không vô biên xứ, xả Không vô biên xứ định nhập vào diệt thọ tưởng định; xả diệt thọ tưởng định, nhập vào Thức vô biên xứ, xả Thức vô biên xứ định nhập vào diệt thọ tưởng định; xả diệt thọ tưởng định nhập vào Vô sở hữu xứ, xả Vô sở hữu định nhập vào diệt thọ tưởng định; xuất diệt thọ tưởng định nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Tới đây nếu Thanh văn không đi theo chiều ngược lại để xả thiền mà ở luôn trong ấy thì gọi là nhập diệt, liền tái sanh vào cõi Vô sắc.

Nhưng tới đây thiền giả xả Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhập vào diệt thọ tưởng định đi ngược lại từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ trở lại Sơ thiền. Tới Sơ thiền rồi, muốn chấm dứt buổi thiền thì người ấy lại nhập vào diệt thọ tưởng định; xả diệt thọ tưởng định, trở lại trạng thái bình thường như lúc chưa vào thiền.

Bồ Tát ra vào bốn tĩnh lự và bốn định vô sắc du hí tự tại, được thiện xảo rồi, liền khởi hạ tâm sanh lại cõi Dục, gần gũi cúng dường chư Phật Thế Tôn, học vô biên Bồ đề phần pháp, cho đến chưa viên mãn thì không chứng thật tế. Chỉ khi nào tu tập vô lượng tư lương Bồ đề đầy đủ rồi, đắc Vô Thượng Bồ đề, chứng thật tế, mới vào Niết bàn.

 

Một phút tư duy:

 

Tới đây chúng ta học xong phần tĩnh lự Ba la mật. Chúng ta biết rằng xã hội ngày nay là chiến trường tranh đấu của bao dục vọng điên cuồng, cả vật chất lẫn tinh thần giữa các giai tầng xã hội, làm con người càng ngày càng trở nên điên đảo hơn. Kẻ thiếu ý chí, kém nghị lực sẽ bị đào thải trở thành cuồng tâm, loạn trí. Chúng tôi muốn nói đến những người bị bệnh tâm thần trước áp lực của xã hội. Bệnh này càng trở nên trầm trọng đối với các quốc gia phát triển về kỹ nghệ, nhất là trong các thành phố lớn đông đúc, náo nhiệt.

Chúng ta thấy có nhiều người sống lang thang trẻ cũng như già, đi đâu cũng lầm bầm trong miệng. Đó là những người điên thầm lặng. Có những người khoát tay múa chân la hét chửi mắng một mình. Có người bạo động hơn thường gây gổ, thích đánh đấm, chém giết... Đây là những người bệnh tâm thần, không thể tự mình kiểm soát nổi thân tâm. Vấn đề này đã trở thành mối quan tâm cho cộng đồng xã hội ngày nay.

Để tránh trường hợp đó, người học đạo phải biết thúc liễm thân tâm. Phương pháp tốt nhất của đạo Phật là tu thiền tập định hay niệm Phật. Nó sẽ giúp con người sống trong chánh niệm, chánh định, sống trong rõ ràng thường biết, mình là ông chủ của đời mình.

 

Thiền sư Sư Nhan ngồi một mình trên tảng đá, thỉnh thoảng gọi: “Ông chủ nhân!” Tự đáp: “Dạ!” Bảo: “Phải tỉnh tỉnh đừng để người lừa!”

Tự gọi tự đáp dường như việc đùa. Chính là lối tu tự nhắc mình không quên ông chủ của đời mình. Mình là chủ nhân của đời mình. Đừng để ngoại cảnh đánh lừa, hằng tỉnh thức với ông chủ ngàn đời của mình. Quả là pháp tắc muôn đời cho những người biết sống trở lại với chính mình. Biết trở về với mình là về quê hương, là đến Bảo sở, là Cùng tử được cha trao sự nghiệp, là Niết bàn, là giác ngộ, là giải thoát... Trăm ngàn danh từ khác nhau đều chỉ một việc “trở về với mình”. Hồi đầu thị ngạn. Bởi vì trở về được với mình, thì muôn việc đều có thể giải quyết hết. (Trích trong cuốn Bước Đầu Học Phật – HT Thích Thanh Từ)

 

Cũng như bốn Ba la mật trước, chúng tôi đều trích dẫn Đại Trí Độ Luận, bây giờ chúng tôi tiếp tục trích dẫn phẩm thứ nhất, “Thiền Na Ba La Mật”, tập 1, quyển 17 để cùng Quý vị học pháp môn vi diệu này.

 

 

Thiền Na Ba la Mật

(Thiền Ba la Mật)

 

Hỏi: Tu hạnh Bồ Tát là nhằm độ thoát hết thảy chúng sanh. Như vậy vì sao Bồ Tát lại chọn chốn núi rừng thanh vắng để tọa thiền, tu riêng cho mình?

Đáp: Thân Bồ Tát tuy ở xa chúng sanh mà tâm Bồ Tát vẫn nhớ nghĩ đến chúng sanh, chẳng bao giờ bỏ chúng sanh cả.      

Bồ Tát chọn chốn núi rừng thanh vắng, yên tĩnh để được định tâm, cầu Thật Trí Huệ, để rồi dùng Thật trí Huệ độ thoát chúng sanh. Ví như người bệnh chưa lành cơn bệnh, phải cần nghỉ ngơi bồi bổ, đến khi cơn bệnh đã dứt hẳn, sức khỏe được hồi phục, mới ra gánh vác công việc.

Bồ Tát dùng sức thiền định, uống thuốc trí huệ, được thần thông tự tại, rồi mới vì tất cả hạng chúng sanh, dùng các phương tiện thích nghi để khai đạo.

Bồ Tát tu Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục mới chỉ là tu phước. Như trong kinh nói “Bồ Tát làm vị Chuyển Luân Thánh Vương, đem 10 Thiện Đạo giáo hóa chúng sanh, khiến họ được nhiều lợi lạc, rồi lại chỉ cho họ biết là do tương quan đối đãi mà có lạc, có khổ, có vui, có buồn… để rồi dạy cho họ phát tâm Đại Bi, thường tu Niết Bàn, sẽ được lợi lạc trong nhiều đời.

Thế nhưng muốn được Niết Bàn thì phải tu Thật Trí Huệ, phải Nhất Tâm Thiền Định. Ví như ngọn đèn dầu để giữa gió bị chao động, chẳng bao giờ phát ra được nhiều ánh sáng. Nếu được để vào một nơi kín gió, thì ánh đèn sẽ được sáng tỏ hơn nhiều. Cũng như vậy, khi được thiền định rồi, thì Thật Trí Huệ sẽ sanh.

Bồ Tát tuy vào thiền định, tuy ở xa chúng sanh mà vẫn luôn luôn nhớ nghĩ đến chúng sanh, dùng các phương tiện để lợi sanh. Khi chưa được Đạo mà ở gần người thế gian thì sẽ không được chuyên tâm, do vậy mà sự nghiệp hoằng pháp độ sanh sẽ không được thành tựu viên mãn.

Thiền Định có công năng nhiếp các tâm loạn động. Tâm loạn ví như lông chim Hồng, gặp gió thổi sẽ cứ bay mãi chẳng sao dừng nghỉ được. Cũng vậy, nếu chẳng có Thiền Định tâm sẽ bị loạn động, chẳng sao có thể an định, sẽ bị các gió nghiệp lôi cuốn theo chẳng sao dừng nghỉ được vậy.

Lại nữa, tâm phàm phu ví như khỉ, như vượn, như điện chớp, liền khởi, liền diệt. Bởi vậy nên hành giả phải vào Thiền Định mới điều phục được tâm mình.

(…)Hành giả tu Thiền Định, nếu chẳng chuyên cần thì rất khó được Nhất Tâm. Phải siêng năng, tinh tấn, không giải đãi mới có thể được Định. Chư Thiên, chư Thần còn chưa được định, huống nữa là hàng phàm phu thường giải đãi, không siêng năng tinh tấn.

(…)Hỏi: Phải tu phương tiện gì mới được Thiền Na Ba la Mật?

Đáp: Phải không đắm chấp 5 trần, trừ 5 cái, tu 5 hạnh mới xả ly được 5 dục. Vì sao?

5 dục (sắc thanh hương vị xúc hay tài sản (tài), nữ sắc (sắc), ăn uống (thực), tiếng khen (danh), ngủ nghỉ (thùy) ví như lửa, như chó gặm xương, như chim ưng ăn thịt người chết. Vì 5 dục như lửa gặp gió thiêu đốt tâm người. Vì 5 dục như rắn độc cắn chết người.

Lại nữa, 5 dục chẳng thật có, chỉ như mộng, như huyễn. Phàm phu do mê muội, mà tham đắm 5 dục, đến chết cũng chẳng thôi, khiến phải chịu vô lượng khổ đau.

Người tham đắm 5 dục chỉ hưởng vui trong chốc lát, mà phải chuốc khổ vào thân. Ví như đứa bé ham ăn, liếm mật nơi lưỡi dao, khiến phải bị rách lưỡi vậy.

Người tham đắm 5 dục, cùng với súc sanh chẳng có gì khác. Bởi vậy người trí phải nên lánh xa 5 dục.

 

--o0o--

 

Lại nữa, 5 dục đều do 5 trần (sắc thanh hương vị xúc) lôi kéo. Người muốn cầu Thiền Định phải xa lìa 5 dục, chẳng đắm chấp 5 trần, phải xem 5 trần như 5 mồi lửa thiêu đốt thân tâm.

Hỏi: Vì sao không nên đắm chấp Sắc, Thanh?

Đáp: Sắc và Thanh thường hay dẫn sanh các kiết sử.

Thấy người thương thì vui mừng chào đón, thấy kẻ oán thì ghét bỏ, ruồng rẫy. Nghe người thương nói thì thích thú, thán khen, nghe kẻ oán nói thì bực tức chê bai. Người muốn xả vui buồn, thương ghét, nóng giận phải trừ các tà niệm, chẳng đắm chấp Sắc, Thanh.

Ví như vua Bà Ta La, vì đam mê nữ sắc mà vào tận nước địch, tìm đến nhà dâm nữ để mua vui, khiến phải bị bắt giữ.

Lại như vua Ưu Điềm, đam mê nữ sắc, nhưng không được thỏa mãn nên sanh sân nhuế, đang tâm chặt tay chân của 500 vị Tiên Nhân.

Người vô trí, do chẳng rõ vô thường. Lại bị Sắc, Thanh mê hoặc nên thường sanh tà niệm, đánh mất thiện tâm.

Ví như các Tiên Nhân ở núi Tuyết Sơn, thấy các nữ Chiên Đà La múa hát mà sanh tà niệm, khiến phải mất thiền định.

Hỏi: Vì sao không nên đắm chấp Hương?

Đáp: Hương cũng thường hay dẫn sanh các kiết sử. Dù trì giới cả trăm năm, mà chỉ một thời đắm Hương cũng có thể bị hoại.

Trong Kinh có chép các mẫu chuyện sau đây:

- Thời xưa có một vị A La Hán, thường được Long Vương thỉnh vào cung để cúng dường. Khi trở về, Ngài đưa bát cho một vị Sa Di rửa. Vị Sa Di ngửi mùi thơm ngon của thức ăn còn dính nơi bát, sanh đắm trước. Thế rồi một hôm, vị Sa Di tự cột mình vào giường của thầy. Khi giường của thầy bay vào Long Cung, vị Sa Di cũng được đi theo. Vào đến Long Cung, Vị Sa Di lại thấy các Long Nữ, thân hình đoan chánh, tỏa hương thơm ngào ngạt, nên càng sanh tâm nhiễm trước, phát lời nguyện rằng: “Tôi nguyện tu phước để được sanh về Long Cung”.

Vị A La Hán hết lời khuyên dạy, nhưng vị Sa Di vẫn không nghe. Do nhân duyên vậy, nên vị Sa Di này đã biến thành rồng ở bên hồ.

- Lại nữa, có một vị Tỳ Kheo đắm hương sen, nên cứ đến bên hồ sen đi kinh hành để ngửi hương thơm của phấn hoa sen.

Vị Thần hồ hiện lên hỏi: “Sao Ngài lại bỏ rừng đến đây ngửi trộm hương sen của tôi?”

Ngay lúc ấy có người vào hồ sen bẻ hoa, đào luôn cả củ sen, mà vị Thần hồ vẫn chẳng nói năng gì cả.

Vị Tỳ Kheo nói với Thần hồ: “Sao người kia đã phá hồ, cắt hoa, đào củ mà ông chẳng nói năng gì cả? Tôi chỉ thưởng thức hương thơm của hoa sen thôi, sao ông mắng tôi đến đây ngửi trộm hương sen của ông?”

Vị Thần hồ đáp: “Người thế gian tâm bất tịnh, tội cấu ngập đầu nên tôi không nói đến họ. Còn ngài là bậc tu tịnh hạnh, thường hành Thiền Định, nếu ngài đắm chấp hương thơm là ngài đã tự phá định tâm của ngài rồi vậy. Nay tôi vì ngài mà nói như vậy đó. Ngài như tấm vải trắng, nếu để vấy dơ thì thật quá uổng. Còn người kia như tấm vải đen, nếu có lấm hết cũng chẳng sao cả”.

Vị Tỳ Kheo nghe nói như vậy hết lòng cảm ơn vị Thần hồ và từ đó giữ tâm thanh tịnh, không đắm trước hương trần nữa.

Hỏi: Vì sao không nên đắm chấp vị?

Đáp: Vị cũng thường hay dẫn sanh các kiết sử.

Người tham trước các thức ăn ngon, chỉ hưởng được vị ngon trong chốc lát, mà sẽ phải chịu bao nhiêu sự khổ đau. Nếu tâm chấp Vị quá kiên cố, thì đời sau sẽ bị đọa làm thân côn trùng, sống ở những nơi bất tịnh, dơ bẩn.

Thời xưa, có một vị Sa Di chỉ thèm ăn “tô lạc”(bánh làm bắng sữa). Đến khi mạng chung, sanh làm côn trùng, sống trong chất tô lạc.

Có một vị Tỳ Kheo đắc quả A La Hán, nói với Tăng chúng rằng: “Khi phân chia tô lạc, quý vị chớ nên khuấy động mạnh, hãy nên nhẹ tay đừng làm chết vị Sa Di của chúng ta đang sống trong hũ tô lạc”.

Chúng Tăng ngạc nhiên hỏi: “Trong hũ tô lạc chỉ có côn trùng. Vì sao lại nói có vị Sa Di của chúng ta trong đó?”

Vị A La Hán đáp: “Côn trùng trong hũ tô lạc chính là vị Sa Di của chúng ta đó. Vì kiếp trước vị ấy quá đắm trước tô lạc, nên kiếp này đã tái sanh làm côn trùng sống trong hũ tô lạc của chúng ta”.

Từ đó, mỗi khi chúng tăng phân chia tô lạc đều có dành phần cho côn trùng sống trong hũ.

Lại nữa, có một vị Thái Tử của một nước nọ thích ăn quả ngon, thường bảo người làm vườn tìm quả ngon đem đến cho mình.

Một hôm, có một con chim bay vào núi hái quả ngon đem về cho con. Mấy con chim con tranh nhau, khiến một quả rơi xuống đất. Người làm vườn biết loại quả thơm ngon ấy rất quý, nên đã nhặt đem vào cung dâng lên Thái Tử.

Thái Tử nếm được vị ngon của loại quả hiếm có này, sanh đắm trước, bảo người làm vườn phải tìm mọi cách tìm loại quả ấy mỗi ngày đem về cho mình. Người làm vườn chẳng biết làm sao hơn, là tranh với chim để giành lấy quả, mỗi lần thấy chim mẹ mang quả về tổ.
Chim mẹ quá giận dữ, bèn bay về núi tìm loại quả độc nhưng có hương vị thơm ngon, đem về tổ. Người làm vườn tranh ngay loại quả ấy đem dâng Thái Tử.

Thái Tử vừa trông thấy quả chín đỏ ong, hương thơm ngát, đón lấy ăn ngay.Vừa ăn xong bị trúng độc, Thái Tử lăn ra chết.

Hỏi: Vì sao không nên đắm chấp Xúc?

Đáp: Như 4 trần kia, Xúc cũng thường hay dẫn sanh các kiết sử, khiến tâm bị nhiễm trước, rất khó xa lìa. Trong 5 trần thì Xúc là khó xả ly hơn hết.

Thân xúc là nguyên nhân dẫn sanh biết bao nhiêu tội lỗi. Do vì tham đắm sự xúc chạm mà nhiều người phải đọa vào địa ngục.

Hỏi: Vì sao nói “Muốn xả ly 5 dục phải trừ 5 Cái ?”

Đáp: 5 Cái là 5 phiền não che đậy tâm tánh, khiến các pháp lành chẳng có thể sanh được. Đó là: Tham dục, Sân nhuế, Thùy miên, Trạo hối, Nghi pháp.

1- Tham dục: Nếu tâm tham đắm dục lạc thì chẳng có thể vào Đạo được.

Trên đây lược nói các nhân duyên trừ Dục Cái. Nếu bỏ mất thiện tâm, chẳng hành các thiện pháp thì liền bị Dục lôi kéo vào 3 đường ác. Hành giả phải rõ biết Dục là oan gia, tâm tham đắm dục là kẻ giặc phải được tiêu trừ.

2- Sân nhuế: Sân nhuế ví như lửa dữ thiêu rụi rừng công đức.

3- Thùy miên: Người chìm đắm trong thùy miên, dù vẫn còn thở cũng được xem như người đã chết rồi.

4- Trạo hối: Trạo hối phá người xuất gia, khiến không thể nhiếp tâm được. Người trạo hối ví như voi say, không câu móc, như lạc đà bị xâu mũi không đứng vững được.

5. Nghi Pháp: Nghi pháp ngăn che tâm trí khiến không thể thấy rõ chân lý. Người có tâm nghi thường chẳng có quyết định dứt khoát ở nơi các pháp. Nếu chẳng có định tâm thì ở trong Phật pháp chẳng có được lợi lạc gì cả. Ví như người vào núi báu với hai tay không, chẳng hề thu lượm được gì đáng kể.

Hỏi: Phá trừ 5 triền cái rồi thì sẽ được lợi ích gì?

Đáp: Phá trừ được 5 triền cái rồi, thì tâm sẽ không còn bị loạn động, không còn bị mê ám ngăn che, trở thành an ổn thanh tịnh, khoái lạc. Ví như đám mây đen che kín bầu trời, không cho ánh sáng mặt trời chiếu xuống trái đất. Khi đám mây tan biến rồi, bầu trời sẽ trở lại trong sáng, thanh tịnh, và vạn vật sẽ được chan hòa trong ánh sáng mặt trời.

Sau khi đã trừ được 5 triền cái rồi, hành giả tu 5 Hạnh (gồm có Tín, Tấn, Niệm, Định, Huệ) để thành tựu 5 Thiền Chi, vào Sơ Thiền.

Hỏi: Ở trong cõi Dục phải làm thế nào để vào được Sơ Thiền?

Đáp: Hành giả phải thường tinh tấn, xuất gia, ly dục, thọ trì giới pháp, ngày đêm chẳng bao giờ giải đãi, ăn ít, nhiếp tâm không loạn động.

Như vậy là vào được niệm “Sơ Thiền Lạc”.

Hành giả vào Sơ Thiền, dùng Bi quán, Trí quán và Huệ quán nên được nhất tâm, không tán loạn. Do chuyên cầu Sơ Thiền, nên hành giả buông xả hết dục lạc; do vậy chẳng còn bị oán địch hãm hại nữa. Có một người Bà La Môn đến cầu pháp, Phật dạy rằng: “Ta thường quán dục đáng sợ hãi. Dục là nhân duyên của ưu khổ, trói buộc chúng sanh trong lưới ma, khó bề thoát ra được. Phải xem dục như hầm lửa lớn, như loài rắn độc, như lũ giặc cướp, như quỷ La Sát, như thớt voi điên rất ghê tởm, rất đáng sợ hãi. Người đắm chấp dục lạc ví như người tù bị giam vào ngục tối, như chim sa lưới, như cá mắc câu, như chó bị sói bắt, như người bị nhận chìm xuống nước, như thuyền lọt vào miệng cá... Dục là như mộng, như huyễn, là hư dối, không thật có, mang vui ít mà lại gây khổ nhiều. Dục là quân ma phá hoại thiện căn, nên người tu hành phải nhất tâm trừ dục mới vào được Sơ Thiền”.

Hỏi: 8 Bối Xả, 10 Nhất Thế Nhập, 4 Vô Lượng Tâm cùng các định Tam Muội khác sao chẳng được gọi là Ba la Mật ? Vì sao chỉ gọi Thiền Na Ba la Mật mà thôi?

Đáp: Các định kia chẳng có đầy đủ công đức tư duy, nên không được gọi là Ba la Mật. Thiền có đầy đủ công đức tư duy, nên có thể trở thành Thiền Ba la Mật. Thiền được ví như ông vua, còn các định khác ví như các quan trong triều, vì sao? Vì trong tất cả 4 Thiền đều có trí và định, nhưng nơi đây trí nhiều hơn định. Còn nơi Vô Sắc Định thì trí lại ít mà định nhiều hơn. Vậy nên Thiền có nhiều công đức tư duy hơn.

Hơn nữa, ở nơi Đệ Tứ Thiền có đầy đủ 4 Bình Đẳng Tâm, 5 Thần Thông, 8 Bối xả, 10 Nhất Thế Nhập, và các Tam Muội như Ban Châu Tam Muội, Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội dẫn đến đầy đủ 120 phẩm Tam Muội. Như vậy, tất cả các công đức diệu định đều trú trong Thiền, nên Thiền mới trở thành Ba La Mật được.

Hỏi: Trước đây có nói “Phải ly 5 Dục, xả 5 Cái, tu 5 Hạnh, mới vào được Sơ Thiền”. Như vậy hành giả muốn vào Sơ Thiền phải y nơi pháp quán nào?

Đáp: Hành giả phải y vào pháp quán bất tịnh, phải tu niệm hơi thở, phải vào định, phải ly các pháp bất thiện, mới vào được Sơ Thiền.

(…)Lại nữa, người trì giới thanh tịnh ở nơi thanh vắng thâu nhiếp các căn, chuyên chú tư duy, hành các pháp thiện, xa lìa các pháp ác, cũng vào được Sơ Thiền.

Trong A Tỳ Đàm nói “Vào Sơ Thiền có 4 giai đoạn”. Đó là: 1- Tương Ưng Vị, 2- Tịnh, 3- Vô Lậu và  4- Đắc Thiền.

Người vào được Tịnh và Vô Lậu là vào được Sơ Thiền.

Vào Đệ Nhị Thiền và Đệ Tam Thiền cũng như vậy.

Phật dạy: “Nếu Tỳ Kheo ly dục, có giác có quán, ly sanh hỷ lạc, thì vào được Sơ Thiền. Trừ được 5 triền cái, khiến cả trong lẫn ngoài được nhất tâm hoan hỷ là tướng của Sơ Thiền”.

Khi chưa vào được Sơ Thiền, chưa tu được các thiện pháp công đức, thì còn bị lửa dục thiêu đốt. Khi vào đuợc Sơ Thiền rồi, thì như đang nóng được tắm mát, đang nghèo túng nhặt được của quý vậy. Thiền giả càng tư duy về các tội lỗi càng thấy rõ lợi ích của Sơ Thiền, nên tâm rất vui mừng. Như vậy gọi là “Có giác, có quán”.

Hỏi: Giác và Quán là một pháp, hay là hai pháp khác nhau?

Đáp: Giác và Quán là 2 pháp khác nhau. Giác là thô, Quán là tế. Ví như đánh một hồi chuông, lúc ban đầu nghe tiếng lớn, rồi sau đó nghe tiếng nhỏ dần. Phân biệt tiếng lớn dụ cho Giác; còn phân biệt tiếng nhỏ dụ cho Quán vậy.

Hỏi: Trong A Tỳ Đàm có nói “ở cõi Dục, khi nhất tâm vào Sơ Thiền có cả Giác và Quán. Sao nay lại phân biệt có thô có tế?

Đáp: Tuy ở nơi nhất tâm, mà vẫn có 2 thiện tướng khác nhau. Khi Giác thì không có Quán; mà Quán thì không có Giác. Khi thị hiện tướng Giác, khi thị hiện tướng Quán. Như vậy gọi là nhất tâm mà có 2 tướng.

Tùy theo chỗ chiếu dụng mà đặt tên khác nhau. Phật dạy: “Đoạn một pháp là chứng quả A La Hán”. Ở đây Phật muốn nói đoạn 5 phần Hạ Kiết Sử (Tham, sân, si, mạn, nghi) là chứng quả A La Hán. Vì sao? Vì người đời phần nhiều bị xan tham trói buộc; khi đoạn được “tham tâm”, thì tất cả các “nhiễm tâm” khác cũng dần dần được đoạn hết.

Do Giác Quán mà sanh Hỷ Lạc; thế nhưng Hỷ Lạc cũng làm động tâm, trở ngại cho Định, cho nên hành giả lại phải xả Giác Quán để nhiếp nội tâm. Khi Giác Quán đã trừ nội tâm đã được thanh tịnh, thì được tâm định, nhiếp vào một chỗ. Định ấy sanh Hỷ Lạc, vào được Đệ Nhị Thiền.

Vào được Đệ Nhị Thiền là thiền giả đã trừ được Giác Quán, đã được nội tâm thanh tịnh, vào được thâm thiền định, buộc tâm vào một chỗ.

Nhưng rồi thiền giả lại quán biết Hỷ Lạc cũng chỉ là đối đãi, còn làm cho tâm động. Do Thọ mới có Hỷ, hết Hỷ sẽ sanh Ưu. Thiền giả xả ly tâm Hỷ, được nhất tâm Lạc, vào Đệ Tam Thiền. Vì thiền giả đã xả tâm Hỷ nên thiền giả vào Đệ Tam Thiền, thọ toàn thân lạc.

Các bậc Thánh ở nơi Đệ Tam Thiền được tự tại hoặc trú lạc hoặc xả lạc. Vì sao? Vì các ngài chẳng có ái trước Lạc vậy.

Thiền giả vào Đệ Tam Thiền, lại quán Lạc cũng là lầm lỗi nên tu hạnh thanh tịnh, không khổ, không lạc vào Đệ Tứ Thiền.

Vào Đệ Tứ Thiền, thiền giả được Bất Động Huệ.

Đến đây, thiền giả quán hết thảy các tướng, không khởi niệm phân biệt tướng, diệt hết thảy các tướng Hữu thì vào được Vô Biên Hư Không Xứ Định(còn gọi là Vô sở hữu xứ định).

Vào Định này, thiền giả lại quán “sắc thân thô trọng do duyên hòa hợp tạo thành”. Đã có thân là có Khổ, nên lại quán thân như hư không. Khi đã được thân nhẹ nhàng rồi, thiền giả thấy 4 đại ở bên trong thân và ở bên ngoài đều như nhau cả. Do vậy mà thấy vô lượng vô biên hư không, cả trong lẫn ngoài, khiến tâm trở nên nhẹ nhàng thanh thoát, nên được gọi là Vô Biên Hư Không Xứ Định (Không vô biên xứ định). Ví như chim bị nhốt trong lồng, khi được thả tự do thư thái bay vút lên không trung.

Thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng, Hành, Thức xem như bệnh hoạn, quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, rồi xả Vô Biên Hư Không Định để duyên hiện tại, quá khứ, vị lai, duyên thức xứ ở nhiều đời. Rồi thiền giả lại thấy “thức xứ” cũng chẳng có biên giới, vào được Vô Biên Thức Xứ Định (Thức vô biên xứ định).

Dùng Vô Biên Thức Xứ làm duyên khởi, thiền giả lại quán Thọ, Tưởng, Hành, Thức đều như bệnh, như mụt nhọt, quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô ngã là hư dối, quán Thức cũng là như vậy. Rồi thiền giả phá được “thức tướng”, tán thán “Vô sở hữu xứ”, vào được “Vô sở Hữu Xứ Định”.

Ở nơi Vô Sở Hữu Xứ, thiền giả lại duyên Thọ, Tưởng, Hành, Thức, thấy rõ thân là vô thường, khổ, không, vô ngã, do duyên hòa hợp mà thành, nên xả Vô sở Hữu Xứ Định, vào được Vô Tưởng Định.

Vào được Vô Tưởng Định rồi, là thiền giả được “Đệ nhất diệu xứ” là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định (Phi tưởng phi phi tưởng xứ định).

Hỏi: Nơi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ vẫn còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Như vậy vì sao lại gọi Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ?

Đáp: Ở nơi đây vẫn còn Thọ, Tưởng, Hành, Thức, nhưng rất vi tế. Vì quá vi tế khó có thể biết được, nên gọi là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.

Phàm phu tưởng rằng Định này là Niết Bàn. Theo Phật pháp thì do nhân duyên tu tập mà thấy rõ “Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng rất vi tế”, nên gọi Định này là Phi Hữu Tưởng phi Vô Tưởng Định vậy thôi.

Hỏi: Thế nào gọi là Vô Tưởng?

Đáp: Phải hiểu nghĩa Vô Tưởng theo 3 trường hợp:

- Vô Tưởng định

- Diệt Thọ Tưởng định và

- Vô Tưởng Thiên.

Phàm phu Ngoại Đạo muốn diệt sự sanh khởi của Tâm nên vào Vô Tưởng Định.

Các đệ tử của Phật muốn diệt tâm vô tưởng sanh khởi, nên vào Diệt Thọ Tưởng Định(Diệt tận định). Còn chư Thiên thì vào Vô Tưởng Thiên.

Hỏi: Có bao nhiêu thứ Thiền Định?

Đáp: Có hai thứ. Đó là: 1- Thiền Định Hữu Lậu và 2- Thiền Định Vô Lậu.

Thiền của phàm phu Ngoại Đạo là Hữu Lậu Thiền. Thiền của Thánh Hiền là Vô Lậu Thiền.

Đệ tử của Phật muốn ly phiền não ở các cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc, phải tu 9 phẩm Giải Thoát (3 thượng, 3 trung, 3 hạ). Muốn vậy, hành giả phải y nơi Hữu Lậu để tu vào Sơ Thiền. Nơi đây có đủ 9 Vô Ngại Đạo, 8 Giải Thoát Vô Lậu Đạo, nên dù hiện tại là hữu lậu, mà trong tương lai sẽ được vô lậu. Nếu y nơi hữu lậu vào Sơ Thiền, thì vào Đệ Nhị Thiền cũng sẽ có đủ 9 Vô Ngại Đạo và 8 Giải Thoát.

Vào Đệ Nhị Thiền, hành giả vừa tu Hữu Lậu Thiền, vừa tu Vô Lậu Thiền. Như vậy ở nơi hiện tại có tu hữu lậu mà ở vị lai sẽ được vô lậu. Cho đến khi vào được Đệ Nhị Thiền thanh tịnh thì được vô lậu hoàn toàn. Nhờ tu 9 phẩm Giải Thoát, 8 Vô Ngại Đạo và 8 Giải Thoát Vô Lậu Đạo mà thiền giả ra vào vô ngại nơi hữu lậu và vô lậu vậy.

Từ Sơ Thiền đã tu Hữu Lậu để dẫn đến Vô Lậu Đạo Vào Đệ Nhị Thiền tu Tịnh Vô Lậu, khởi tu Hữu Lậu Xứ, vào Vô Lậu Xứ, rồi tiến tu Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ.

Khi đã ly dục hoàn toàn, là có đủ 9 Vô Ngại Đạo và 8 Giải Thoát Vô Lậu Đạo. Nếu tu thêm giới Thiện Căn Vô Lậu Đạo để trừ Vô Định Tâm thì sẽ có được hết thảy 9 Vô Lậu Đạo.

 

--o0o--

Lại nữa, có 2 trường hợp tu. Đó là : 1- Đắc tu và  2- Hành tu:

Đắc tu:  Là trước chưa được mà nay được rồi ở vị lai cũng sẽ được.

Hành tu: Là được ngay nơi cảnh hiện tiền, không trước không sau, không cần phải tu các pháp khác.

 

--o0o--

 

Lại nữa, Thiền Định tóm lược có :

a) - 23 tướng, gồm 8 Vị, 8 Tịnh và 7 Vô Lậu

b) - 6 nhân gồm Tương Ưng Nhân, Cộng Nhân, Tương Tợ Nhân, Báo Nhân, Biến Nhân và Danh Nhân.

Hết thảy các Vô Lậu Nhân đều là Tương Tợ Nhân cả.

c) - 4 duyên, gồm Nhân Duyên, Thứ Đệ Duyên, Duyên Duyên và Tăng Thượng Duyên.

Hết thảy các duyên đều có hai phần Hữu Lậu và Vô Lậu.

 

--o0o--

 

- Sơ Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 6 Địa (xứ) dẫn sanh 6 Định.

Đó là 2 Tự Địa và 4 Thượng Địa

- Nhị Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 8 Địa, dẫn sanh 8 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 2 Hạ Địa và 4 Thượng Địa.

- Tam Thiền Vô Lậu Định thứ lớp duyên 10 Địa, dẫn sanh 10 Định.

Đó là:  2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 4 Thượng Địa.

- Tứ Thiền Vô Lậu Định và Không Vô Biên Xứ Định cũng như vậy.

Vô Biên Thức Xứ Định duyên 9 Địa, dẫn sanh 9 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 3 Thượng Địa.

- Vô Sở Hữu Xứ Định duyên 7 Địa, dẫn sanh 7 Định. Đó là: 2 Tự Địa, 4 Hạ Địa và 1 Thượng Địa.

- Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ Định duyên 6 Địa, dẫn sanh 6 Định. Đó là: 2 Tự Địa và 4 Hạ Địa.

Tất cả các Tịnh Địa khác đều lợi ích cho Tự Địa cả.

 

--o0o--

 

Sơ Thiền Vị thứ lớp sanh 2 Tịnh Địa Vị: 1 Tịch và 1 Chiếu. Dẫn đến Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ cũng là như vậy.

Tịnh Vô Lậu Thiền duyên hết thảy các xứ.

Duyên Thiền Vị có nghĩa là duyên mùi vị thiền ở nơi Tự Địa.

Vô Lậu Duyên là Không Duyên.

Tịnh Vô Lậu vốn không duyên Sắc Định, cũng không duyên Hạ Địa.

Hữu Lậu Duyên chỉ là Tăng Thượng Duyên cho hết thảy 4 Vô Lượng Tâm, 8 Bối xả, 8 Thắng Xứ, 10 Nhất Thế Nhập. Tất cả đều duyên cõi Dục. Riêng 5 Thần Thông duyên cả cõi Dục và cõi sắc.

Các Định khác đều tùy theo chỗ mà duyên. Riêng Diệt Thọ Tưởng Định là không có chỗ duyên.

Bồ Tát ở nơi hữu lậu, dùng hữu lậu để duyên vô lậu, nên được Đệ Tứ Thiền Tâm tự tại, lại dùng Vô Lậu Đệ Tứ Thiền mà luyện hữu lậu. Đệ Tam Thiền, Đệ Nhị Thiền và Sơ Thiền cũng đều như vậy cả.

Hỏi: Thế nào gọi là “Luyện Thiền”?

Đáp: Các bậc Thánh Hiền ưa Vô Lậu Định, không ưa Hữu Lậu Định. Nay muốn tận trừ cặn bã, nên phải dùng vô lậu để luyện hữu lậu, giống như luyện kim vậy.

Từ nơi hữu lậu vào Tịnh Thiền gọi là luyện thiền.

Lại nữa, trong quá trình luyện thiền, thiền giả thường đạt được những thiền vị, như Hữu Đảnh Thiền, Nguyện Trí, 4 Biện Tài, Vô Tránh Tam Muội v.v...

- Hữu Đảnh Thiền có 2 thứ là: A La Hán hữu đảnh pháp và A La Hán bất hoại pháp.

Chư vị A La Hán ở nơi hết thảy thâm thiền định, được tự tại khởi Hữu Đảnh Thiền.

- Nguyện Trí là nguyện được biết 3 đời. Nguyện Trí nhiếp về Đệ Tứ Thiền ở cõi Dục.

- 4 Biện Tài gồm có “Pháp vô ngại biện”, “Nghĩa vô ngại biện”, “Từ vô ngại biện” và “Lạc thuyết vô ngại biện”.

Pháp vô ngại biện và Từ vô ngại biện nhiếp về Sơ Thiền ở cõi Dục, còn 2 vô ngại biện kia nhiếp về Đệ Tứ Thiền ở cõi Dục.

- Vô Tránh Tam Muội: Vào được 4 Vô sắc Định là được Vô Tránh Tam Muội, khiến tâm không còn khởi đấu tranh nữa.

Hỏi: Được các Thiền Vị rồi có được các pháp khác nữa không?

Đáp: Định Vị sanh rồi cũng có khi bị mất, có khi dẫn sanh được Tịnh Thiền.

Tịnh Thiền sanh là liền được ly dục, được Cửu Địa Vô Lậu Định.

Đệ Tứ Thiền và Vô Sắc Định chưa đạt được Tịnh Thiền. Chặng giữa đó còn phải tu đoạn kiết sử. Tuy chưa được Tịnh Thiền nhưng cũng đã tương ưng với xả căn. Nếu thành tựu được Hạ Địa Thiền, mà có xả căn thì được biến hóa tâm.             

Nơi Sơ Thiền và Đệ Nhị Thiền có 3 thứ biến hóa tâm, nơi Đệ Tam Thiền có 4 thứ biến hóa tâm, nơi Đệ Tứ Thiền có 5 thứ biến hóa tâm. Nơi Đệ Nhị Thiền, Đệ Tam Thiền và Đệ Tứ Thiền mà muốn nghe, muốn thấy, thiền giả dùng Phạm Thiên Nhĩ và Phạm Thiên Nhãn.

Đến khi thức diệt rồi thì có được 4 Vô Lượng Tâm, 5 Thần Thông, 8 Bối xả, 8 Thắng Xứ, 10 Nhất Thế Nhập, 9 Thứ Đệ Định, 3 Tam Muội, 3 Giải Thoát Môn, 3 Vô Lậu Căn, 37 Phẩm Trợ Đạo. Tất cả đều do Thiền Ba la Mật sanh.

Hỏi: Vì sao chỉ nói đến Thiền mà không nói đến thiền Ba la Mật?

Đáp: Thiền là căn bản. Khi đã được Thiền rồi, phát tâm thương xót chúng sanh, thấy rõ các diệu lạc của Thiền mà chúng sanh không biết đến, khiến phải lăn lóc trong khổ đau. Quán như vậy rồi, phát tâm Đại Bi, lập hoằng thệ nguyện dẫn dắt chúng sanh vào thiền định khiến họ đều được nội pháp lạc. Y nơi thiền lạc mới được Phật Đạo. Khi được Phật Đạo rồi mới gọi là Thiền Ba la Mật.

Người tu Thiền mà không thọ thiền vị lạc, không cầu quả báo, chỉ muốn điều tâm vào thiền định, dùng phương tiện trí huệ sanh về cõi Dục để độ thoát chúng sanh, mới gọi là được Thiền Ba la Mật.

Khi Bồ Tát nhập vào thâm thiền định, tất cả hàng Trời Người chẳng một ai biết được chỗ sở duyên của Bồ Tát. Vì sao? Vì ở nơi các pháp, Bồ Tát đều thấy, nghe, hay, biết mà tâm không động. Trong kinh có chép lời của ngài Duy Ma Cật nói với ngài Xá Lợi Phất rằng: “Pháp an tọa của Bồ Tát là chẳng y nơi thân, chẳng y nơi tâm, chẳng y nơi ba cõi. Bồ Tát tuy ở trong 3 cõi, tuy an tọa trong đó mà thân tâm đều bất khả đắc”.

Lại nữa, có người nghe nói đến thiền định lạc mới xa lìa thế gian dục lạc để cầu được thiền định. Còn Bồ Tát chẳng phải như vậy. Vì thương xót chúng sanh mà Bồ Tát cầu thiền định, phát tâm đại bi, nguyện không rời bỏ chúng sanh. Ngay trong Thiền Định, Bồ Tát vẫn phát tâm đại bi, vì Bồ Tát biết rằng thiền lạc là nội lạc mà các chúng sanh không biết đến, khiến phải trôi lăn trong sanh tử.

Ví như người có nhiều của cải mà mê muội không hay biết đến, khiến phải đi ăn xin. Người trí thấy vậy thương xót, chỉ cho người ấy biết chỗ cất giấu bảo châu trong chéo áo. Nhờ vậy mà người ấy thoát khỏi cảnh nghèo đói. Cũng như vậy, chúng sanh vốn có sẵn thiền lạc mà không biết đến, khiến phải cam chịu cảnh khổ đau. Bồ Tát dạy chúng sanh xa rời vọng chấp điên đảo, rời bỏ thế gian dục lạc để khai thác thiền định lạc có sẵn nơi mình, khiến họ được tâm an ổn.

Lại nữa, Bồ Tát rõ biết Thật Tướng của các pháp nên mới nhập vào Thiền Định, được tâm an ổn mà vẫn chẳng đắm chấp thiền lạc vị.

Hỏi: Chư vị A la Hán và Bích Chi Phật cũng không đắm chấp thiền vị. Như vậy vì sao các ngài không được Thiền Ba la Mật?

Đáp: Mặc dù không đắm mùi Thiền, nhưng chư vị A La Hán và Bích Chi Phật không phát tâm đại bi nên không được Thiền Ba la Mật.

Ngoại Đạo cũng tu Thiền. Nhưng khi tu thiền họ phạm 3 lỗi lớn. Đó là: Đắm mùi thiền, tà kiến và kiêu mạn. Chỉ riêng Bồ Tát mới được Thiền Ba la Mật.

Bồ Tát vào thiền định vì muốn tu tập hết thảy các pháp. Dù ở trong thiền định, Bồ Tát cũng chẳng bao giờ quên chúng sanh, dẫn đến các côn trùng nhỏ bé Bồ Tát cũng sanh từ niệm.

Trong kinh Bổn Sanh có chép mẫu chuyện sau đây:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn là Bồ Tát, một thời làm Tiên Nhân Loa Kế, thường hành Tứ Thiền, đoạn hơi thở ra vào, nhất tâm tọa thiền dưới gốc cây, chẳng hề lay động. Chim ở trong rừng tưởng ngài là cây khô, đến làm tổ trên đầu tóc và đẻ trứng trên đó. Bồ Tát ở trong thiền, biết trên đầu mình có chim đang ấp trứng, tự suy nghĩ : “Nếu ta cử động, thì chim mẹ chẳng đến ấp trứng nữa, các trứng kia ắt sẽ bị hư thối”. Nghĩ như vậy rồi, Bồ Tát vào thâm thiền định, chờ cho các trứng nở ra chim con và các chim con đều có đủ sức bay đi , rồi mới xuất thiền rời chỗ ngồi đi nơi khác.

 

--o0o--

Hỏi: sao Bồ Tát có thể hành Thiền Ba la Mật như vậy được?

Đáp: Vì Bồ Tát đời đời tu các công đức cho nên tâm lúc nào cũng nhu nhuyến.

Các người tu các thiền khác, khi quán Vô Thường, Khổ, Không, Vô Ngã, chỉ ly dục nơi tổng tướng của các pháp, còn Bồ Tát ở nơi tổng tướng cũng như nơi biệt tướng đều hoàn toàn ly dục.

Ví như trường hợp các vị Tiên Nhân, khi nghe ca hát có thể mất thần thông, dẫn đến hàng Thanh Văn dù có tu Thật Tướng các pháp, nhưng khi nghe tiếng đàn cầm của A Tu La tán Phật cũng còn bị tâm loạn động.

Bồ Tát tự tại ra vào các Thiền. Chẳng ai có thể biết được Bồ Tát trú xuất ở Thiền nào. A La Hán, Bích Chi Phật còn chưa biết được, huống nữa là phàm phu.

Bồ Tát nhập Sơ Thiền cũng khác với người thường nhập Sơ Thiền, dẫn đến nhập Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ cũng như vậy. Bồ Tát tự tại siêu xuất Sơ Thiền, vào Đệ Nhị Thiền, Đệ Tam Thiền, hoặc nhập Đệ Tứ Thiền, nhập Diệt Thọ Tưởng Định; ở nơi Diệt Thọ Tưởng Định lại khởi vào Vô Sở Hữu Xứ, vào Thức Xứ, vào Hư Không Xứ.

Bồ Tát từ Sơ Thiền tùy ý siêu xuất các Thiền khác. Hàng Thanh Văn vì sức thiền định còn yếu, chẳng có thể làm như vậy được.

Bởi nhân duyên vậy, nên phân biệt Thiền Ba La Mật là Thiền của Bồ Tát.

Lại nữa, Bồ Tát nhập thiền định, nhiếp tâm bất động, mà vẫn có thể, vì chúng sanh khắp mười phương, thuyết pháp. Như vậy gọi là Thiền Ba La Mật.

Hỏi: Trong kinh nói “Trước có giác, có quán, có tư duy; rồi sau mới vì chúng sanh thuyết pháp”. Khi nhập thiền định, không có giác quán. Như vậy, làm sao nói là : “Bồ Tát ở trong thiền định, mà vẫn thuyết pháp cho chúng sanh?”       

Đáp: Mặc dù thân Bồ Tát đã ly sanh tử, nhưng Pháp Thân của Bồ Tát vẫn thường trú, bất động. Pháp Thân Bồ Tát rõ biết hết thảy các Pháp Tướng cũng thường trú như thiền định tướng, nên dù bất động ở trong định, Pháp Thân của Bồ Tát vẫn có thể biến hóa vô lượng thân, để vì chúng sanh, thuyết pháp. Ví như đàn cầm của các A Tu La tự phát ra âm thanh tùy theo ý người nghe mà A Tu La chẳng cần dụng tâm gảy đàn vậy. Cũng như vậy, vì Bồ Tát có vô lượng phước đức thiền định trí huệ, lại có nhân duyên với chúng sanh, nên chúng sanh tùy ý niệm mà có thể thấy được Pháp Thân của Bồ Tát, mà có thể nghe được Pháp Âm của Bồ Tát vậy. Cùng một lúc, những chúng sanh xan tham, nghe thuyết về bố thí, những chúng sanh sân si giải đãi, nghe thuyết về trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí huệ v.v… Bồ Tát quán hết thảy các pháp dù động, dù tĩnh đều là chẳng phải hai tướng (bất Nhị Tướng), khác hẳn với người tâm còn loạn động mà tưởng mình đã có định vậy.

 

--o0o--

 

Bồ Tát chẳng thủ loạn tướng, cũng chẳng thủ định tướng, nên thiền của Bồ Tát mới được gọi là Thiền Ba la Mật.

Hỏi: Tướng của Sơ Thiền là Ly dục, là trừ 5 cái, là nhiếp tâm an định. Như vậy vì sao lại nói “Bồ Tát không xả 5 cái?”

Đáp: Bồ Tát lợi căn, thượng trí, nên chẳng xả 5 cái, chẳng thủ tướng thiền mà tâm vẫn an định. Vì sao? Vì Bồ Tát rõ biết hết thảy các pháp tướng đều là KHÔNG.

Ví như tham dục chẳng phải là nội pháp, cũng chẳng phải là ngoại pháp. Nếu là nội pháp thì chẳng cần đợi ngoài mới sanh. Nếu là ngoại pháp thì ở nơi ta cũng chẳng có sao cả. Tham dục cũng chẳng phải từ đời trước đến, vì hết thảy pháp chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu cả. Vậy thì tham dục cũng chẳng phải từ đời trước đến, cũng chẳng truyền đến đời sau. Cho nên ở nơi 5 tình, xúc chẳng có chỗ sanh, chẳng có chỗ diệt. Vì sao? Vì nếu trước đã sanh thì sau cũng phải có. Như vậy chặng giữa cũng phải có. Nếu nói chặng giữa không có thì làm sao có trước có sau được? Nếu nói trước tham dục đã tự có rồi, thì tham dục là vô sở sanh. Là chẳng có chỗ sanh vậy. Nếu nói là nhất thời sanh thì là vô sanh vậy.

Ngay nơi vô sanh mà có sanh thì chỗ sanh đó là vô phân biệt.

Lại nữa, tham dục là bất nhất bất nhị, chẳng phải một mà cũng chẳng hai.

Nếu chẳng có người tham dục thì tham dục là bất khả đắc. Bởi vậy nên biết, “tham dục do duyên hòa hợp mà sanh khởi”, mà đã do duyên sanh thì tham dục là tự tánh KHÔNG. Như vậy nếu pháp tham dục và người tham dục khác nhau thì cả hai đều là bất khả đắc cả. Còn nếu pháp tham dục và người tham dục là một thì là vô phân biệt cũng là bất khả đắc vậy.

Pháp đã vô sanh thì cũng là vô diệt, mà đã chẳng sanh chẳng diệt thì cũng chẳng có định, chẳng có loạn gì cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “Bồ Tát quán tham dục cùng thiền định là chẳng phải hai, chẳng phải khác”. Cả 4 triền cái kia cũng là như vậy.

Quán được như vậy là quán Thật Tướng của các Pháp.

Lại nữa, Bồ Tát quán 5 triền cái là vô sở hữu, là vô tướng, mà đã là vô tướng thì cũng tức là Thật Tướng vậy. Như vậy 5 triền cái tức là thiền, thiền tức là 5 triền cái. Bồ Tát quán 5 triền cái là thiền định, rồi y nơi đó tiến thẳng đến chỗ vô sở y, vào thâm thiền định gọi là Thiền Ba la Mật. Khi Bồ Tát hành Thiền Ba la Mật, thì 5 Ba la Mật kia trợ giúp cho Thiền Ba la Mật.

Lại nữa, Bồ Tát ở nơi Thiền Ba la Mật có đầy đủ lực nên được thần thông vô ngại. Chỉ trong một niệm mà cúng dường được chư Phật khắp cả 10 phương. Bồ Tát dùng lực của Thiền Ba la Mật mà biến hóa vô biên thân, vào trong 5 đạo chúng sanh, dùng 3 Thừa Giáo để giáo hóa họ.

Bồ Tát vào Thiền Ba la Mật trừ các pháp bất thiện, hành Đại Từ Bi, được Đại Trí Huệ, rõ biết Thật Tướng các pháp, nên được chư Phật trong khắp 10 phương đều hộ niệm.

Bồ Tát vào Thiền Ba la Mật dùng Thiên Nhãn, quán chúng sanh trong 5 đạo ở khắp 10 phương, thấy có chúng sanh đã thọ thiền vị, mà do tham đắm mùi thiền cũng bị đọa làm cầm thú, lại thấy có chư Thiên ở bên hồ bảy báu, đầy hoa đẹp hương thơm, mà khởi sanh tự mãn, tự đắc, để rồi cũng, phải đọa vào địa ngục. Lại thấy có người được thế trí biện thông mà chẳng có tu đạo, để phải đọa làm thân heo, thân dê… Lại thấy chúng sanh hết vui rồi lại khổ, hết giàu rồi lại nghèo, hết phú quý vinh hoa rồi lại bần cùng hạ tiện.

Bởi các nhân duyên vậy, nên Bồ Tát khởi tâm đại bi, càng ngày càng lớn mạnh hơn lên, chẳng tiếc thân mạng, vì chúng sanh cần cầu Phật Đạo.

Thiền Ba la Mật của Bồ Tát là thiền không định, không loạn, như lời Phật dạy ngài Xá Lợi Phất “Bồ Tát trú trong Thiền Ba la Mật, không định, không loạn, không đắm chấp thiền vị”.

Hỏi: Thế nào gọi là loạn?

Đáp: Loạn có 3 nguyên nhân gây nên. Đó là: Ái nhiều, mạn nhiều và kiến chấp nhiều. Loạn có thể thô trọng, có thể vi tế.

Hỏi: Thế nào là ái nhiều?

Đáp: Là khi đã được thiền định lạc, mà sanh tâm ái chấp mùi thiền.

Hỏi: Thế nào gọi là mạn nhiều?

Đáp: Là khi được thiền định rồi, tự nghĩ rằng “việc khó làm mà ta làm được” nên sanh tâm tự cao tự mãn.

Hỏi: Thế nào gọi là kiến chấp nhiều?

Đáp: Là vào thiền định rồi mà còn chấp ngã kiến, phân biệt chấp các tướng ở nơi thiền định là thật có.

Hỏi: Thế nào gọi là loạn vi tế?

Đáp: Do nhân duyên được thiền định rồi, mà thối tâm, khởi vi tế tham, như là đắm chấp mùi thiền.

Hỏi: Vì sao nói “đắm chấp mùi thiền là vi tế tham, là vi tế ái chấp?”

Đáp: Hết thảy phiền não đều do đắm trước. Ái và Thiền tuy có cùng động cơ “dục” thúc đẩy nhưng có nhiều sai khác. Thiền là dục hướng thượng, đòi hỏi sự nhiếp tâm kiên cố, ái là sự đắm trước mê muội, khó xả. Lúc ban đầu do mong cầu chóng được thiền định mà thiền giả lấy ái làm tánh. Thế nhưng khi được thiền định rồi, nếu đắm chấp mùi thiền, thì thiền giả lại tự phá hoại thiền định của mình. Bởi vậy nên gọi “ái thiền vị là loạn vi tế”. Ví như người hành bố thí mà chấp quả báo chỉ được phước hữu lậu, người vào thiền định mà còn đắm mùi thiền thì chẳng sao có được Thiền Ba la Mật.

 

Đây mới thật là pháp tu khó khăn, ngoài kỹ thuật còn phải có một sự tập trung cao độ và một sự kiên nhẫn vô bờ bến trong sự khắc phục các dục, các kiết, các triền, các mạn… tạo phiền não lậu hoặc cho tất cả chúng sanh.

Tu thiền đến khi diệt được thức rồi thì có được 4 Vô Lượng Tâm, 5 Thần Thông, 8 Bối xả, 8 Thắng Xứ, 10 Nhất Thế Nhập, 9 Thứ Đệ Định, 3 Tam Muội, 3 Giải Thoát Môn, 3 Vô Lậu Căn, 37 Phẩm Trợ Đạo…

Ngoài ra, thiền đưa đến thân tâm yên tịnh, chỗ sanh thực tướng mà thấy tánh. Thật chúng ta hết sức may mắn được một bậc thật tu thật chứng hướng dẫn. Chúng tôi nghĩ với bao lời chỉ dẫn đó giúp chúng ta hiểu pháp tu khó khăn này mà Thiền hảnh diện khi tuyên bố: “Không có Thiền thì không có Giác ngộ”.

 

Kết luận:

 

Chúng ta vừa tụng qua năm Ba la mật: Bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn và thiền định Ba la mật xong, trong lòng hết sức cảm ơn chư Phật chư Bồ Tát cho chúng ta những phương tiện mầu nhiệm này trong việc cứu khổ và đem lại an vui giải thoát cho toàn thể chúng sanh. Nếu tất cả chúng sanh ai ai cũng đem các phương tiện này ứng dụng vào đời sống thì cõi Sa Bà này sẽ là thiên đàng của hạ giới.

Nhưng học xong 5 pháp Ba la mật này chúng ta không khỏi phân vân khi thấy Kinh phân biệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa. Biết rằng Phật dạy mục đích cao cả nhất của tu hành là vì chúng sanh, do chúng sanh, bởi chúng sanh. Nên Bồ Tát không ngại gian khổ trong nhiều đời kiếp, làm những việc khó làm với mục đích phục vụ hữu tình. Vì vậy, Phật bảo các Bồ Tát Đại thừa hành Bồ Tát đạo như vậy tích tụ công đức thiện căn, rồi đem công đức thiện căn này ban cho tất cả hữu tình, hồi hướng Vô Thượng Bồ đề để cùng nhau tiến đến Nhất thiết trí trí.

Còn hạnh nguyện của Nhị thừa không vì chúng sanh mà chỉ lo tu tập các pháp môn mau chứng thật tế, rồi nhập Niết bàn. Do đó, đọc hết năm pháp hội của năm Ba la mật này chúng ta không khỏi buồn thầm cho hàng Nhị thừa.

Thanh văn, Độc giác cũng là chúng sanh như chúng ta, cũng sống cũng đau khổ như bất cứ sanh linh nào khác nên cũng muốn thoát khổ. Nhưng phải tội các vị ấy tu để thoát khổ chứ không phải tu để cứu khổ.

Ngày nay, Tiểu thừa và Đại thừa tuy cách học có khác nhưng phục vụ chúng sanh không khác. Tiểu thừa ngày nay cũng là những chiến sĩ dũng cảm trên chiến trường cứu khổ cứu đói, cứu vô minh phiền não cho tất cả chúng sanh chẳng khác nào Đại thừa. Nên có lẽ chúng ta phải thay đổi quan niệm để phù hợp với trào lưu mới!

Vậy, tu cứ tu đừng nhìn quanh quẩn, người nào thoát khổ thì chúng ta mừng cho người ấy. Còn tâm nguyện cứu khổ cho toàn thể chúng sanh là điều đáng khuyến khích, tán dương. Mong rằng Nhị thừa cũng mở rộng vòng tay như Bồ Tát Đại thừa, thì cuộc sống này mới bớt khổ.

 

---o0o---

 

 

Đến đây chấm dứt phần mười lăm,

(Hội thứ XV)

 

Chúng sanh cũng có thể tu học các pháp môn Thiền định như Thái tử Tất Đạt Đa trên bước đường du hành tìm đạo, gặp hai ông tiên A ra la (Arada) và Uất đà la (Uddaka) tu thiền tập định với hai Lão sư này. Nhưng Thái tử không hài mãn với lối tu tập này mặc dù đã đắc cả thiền lẫn định và cho rằng lối tu tập này không đưa đến phản tỉnh, đến xả trừ, đến thâm ngộ, đến diệu giác, đến Niết bàn mà chỉ đưa đến cảnh giới hư vô, nên từ giã hai Lão sư ra đi.

Nói gì thì nói phải có thắng định của Bồ Tát trong việc tu thiền tập định mới có thể dẫn đến vô biên phương tiện thiện xảo, để khuyên răn, dạy bảo cho vô lượng hữu tình đều phát sanh tĩnh lự vô lậu, chứng chơn pháp tánh, dứt trừ phiền não, các tập khí tương tục, nhập vào cảnh giới Vô dư y bát Niết bàn hoặc chứng quả vị Vô Thượng Bồ đề.

Như Thế Tôn, sau 49 ngày thiền định dưới cội Bồ đề, khi sao mai vừa ló dạng đạt được tam minh, ngũ nhãn, lục thần thông, phá trừ các phiền não lậu hoặc vi tế nhỏ nhiệm. Rồi trong một sát na tương ưng với diệu huệ, chứng Vô Thượng Bồ đề phá trừ ma ngoại, du hành hóa độ chúng sanh cho đến khi hơi tàn sức mỏi mới nhập Niết bàn.

Nói ngắn gọn là như vậy, nhưng không phải ngồi dưới cội Bồ đề thiền định mà có thể thành Phật. Thái tử Tất Đạt Đa sau khi đắc thiền, phải tu khổ hạnh hơn 6 năm trong núi tuyết. Nhưng tu khổ hạnh chỉ là hành xác chớ không đưa đến giác ngộ... Cuối cùng, Thái tử phải từ giã năm anh em Kiều trần Như đến sông Ni liên thiền để dòng nước gột sạch phong trần. Tắm xong, bước lên bờ Thái tử kiệt lực, ngã quỵ. Nhờ cô bé Sujata, cho uống bát sữa nóng tinh khiết nên hồi sức, lại được chú bé chăn trâu Svastica cho bó cỏ Kusa mền mại trải dưới gốc cây Bồ đề làm nệm. Thái tử Tất Đạt Đa tiếp tục quán tưởng, thiền định, viên mãn các pháp Phật, chứng Vô Thượng Bồ đề như đã nói trên.

Kinh nói rằng phải viên mãn tất cả các pháp mầu Phật đạo, nhất là lục Ba la mật mới có hy vọng trở thành bậc Chánh giác. Tu thiền tập định chỉ giúp thiền giả an trụ trong tịch tĩnh hơn là giác ngộ. Đó chính là lý do tại sao khi đạt được thiền và định, Phật lại từ giã hai Lão sư ra đi. Vậy, ngoài việc tu Giới, tu Định như đã nói trên, còn phải tu Huệ thì công hạnh mới vuông tròn, mới có thể trở thành Vô Thượng Chánh Giác. Đó là ba pháp tu vô lậu cần thiết trong đời tu hành.

Ở đây điểm cần nhấn mạnh trong cuộc đời thường tục của chúng ta, lúc nào cũng gặp nhiều sóng gió, ngũ dục, lục trần, bát phong lôi cuốn làm khổ não trăm bề. Muốn bể lặng sóng êm, thì phải tu thiền hay niệm Phật. Cả hai pháp môn đó đều đem lại sự an tịnh của tâm. Nhờ sự an tịnh này mà phát huệ. Trong Đạo Phật pháp môn niệm Phật (của Tịnh độ Tôn) được xem như là Đại thừa thiền, nên rất được giới bình dân hâm mộ. Còn thiền là ý chí, là nghị lực, tự mình thúc liểm thân tâm, không nhờ tha lực. Nên thiền được giới trí thức ngưỡng mộ hơn. Nói chung, cả hai tôn phái này trở thành tôn phái phổ thông có thể giúp ích an tâm, nên còn tồn tại mãi đến ngày nay.

Tóm lại, cuồng tâm, loạn trí... là nhân điên đảo tối tăm, tu thiền định để nhiếp tâm. Nên nói thiền định để độ tán loạn.

 

Như trên đã trình bày, chúng ta đã thọ trì xong hai pháp tu Giới và Định rồi. Bây giờ, phải học tu Huệ. Tu huệ là tu Bát Nhã, đắc Bát Nhã tức thành tựu Giác ngộ. Có Giác ngộ, được Nhất thiết trí trí, thì trở thành Như Lai Chánh Đẳng Giác. Vậy, thử xem kinh dạy tu Huệ để đạt Thánh trí tự giác như thế nào trong tám quyển cuối cùng của phần “Bát Nhã Ba La Mật” kế tiếp? Đây là phần chính, là trọng tâm của việc tu hành Bát Nhã. Thiền rất cao ngao khi tuyên bố “Không giác ngộ không phải là Bát Nhã”. Hy vọng Pháp hội thứ XVI cuối cùng có thể đáp ứng câu nói này.

 

 

Đến đây chấm dứt Hội thứ XV, ĐBN.

 

---o0o---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567